Thứ hai, 25/11/2024

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm A

Cập nhật lúc 09:11 05/03/2020
Suy niệm 1
Các con không được nói với ai… cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại!
(Mt 17, 1-9)
 
Một thời gian cho mọi thứ. Mỗi người đều có sự khôn ngoan. Mỗi người luôn có một thời gian cho mỗi sự việc. Mỗi người đều biết rằng cần có thời gian để sự sống nảy mầm, phát triển và sinh hoa trái. Trong đời sống hàng ngày,
- Người nông dân biết rằng họ không thể đẩy nhanh thời gian thu hoạch,
- Kiến ​​trúc sư biết rằng cần có thời gian để lập kế hoạch trước khi bắt tay vào xây dựng,
- Giáo viên biết rằng phải mất một thời gian để học sinh tiếp thu kiến ​​thức,
- Cha mẹ biết rằng con cái mình phải trải qua các giai đoạn khác nhau trước khi đến tuổi trưởng thành.
Sống trên đời,
- Mỗi người đều có sự khôn ngoan trong mọi thứ, trừ trong cuộc sống với Thiên Chúa. 
- Mỗi người đều có sự khôn ngoan dành thời gian cho mọi thứ, trừ việc biết Thiên Chúa.
Nhưng mỗi người thiếu sự khôn ngoan trong đời sống thiêng liêng. Vì chưng, thoạt  khi Thiên Chúa ban cho họ một chút ánh sáng, họ đã vội vã muốn truyền đạt cho tất cả mọi người. Họ muốn rao giảng Tin Mừng, thông truyền đức tin, chuyển đổi môi trường xung quanh mà không dành thời gian để thấu suốt những điều đó trong nhiệm màu. Họ kiệt sức, họ mệt mỏi, họ luôn làm nhiều hơn và họ làm kiệt sức những người xung quanh. Họ kiệt sức và mệt mỏi… Họ tức giận và khó chịu.
Trên trần gian, con người thiếu khôn ngoan với Thiên Chúa. Họ biết rằng cần có thời gian cho mọi thứ, nhưng họ quên rằng với Thiên Chúa, họ phải đi chậm nếu muốn đi lâu!
Dành thời gian. Tin mừng hôm nay nói rằng Chúa Giêsu biến hình trước mặt 3 môn đệ trên núi Thabor: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết”. Chúa Giêsu mặc khải cho ba môn đệ sự huy hoàng của Ngài. Ngài cho các ông khám phá ra mầu nhiệm đầy đủ về Ngài. Ngài để cho ánh sáng tràn ngập trên Ngài. Phê-rô, Giacobe và Gioan đã theo Chúa Giêsu một thời gian. Hôm nay Ngài dẫn họ đến ngọn núi cao này, nơi Ngài biến hình cho các ông trông thấy.
Phê-rô, Giacobe và Gioan tràn đầy hạnh phúc. Cảm nhận được điều đó, Phero thưa Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.Thời gian đầy đủ cao độ! Thời gian Chúa Giêsu biến hình lôi kéo họ vào ánh sáng của Ngài. Phê-rô, Giacobe và Gioan ngày đó đã đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Họ nhìn thấy những điều vô hình. Họ nghe thấy những điều không hề nghe thấy. Họ nghe Moi-se và Elia nói chuyện với Chúa Giêsu. Họ tràn đầy mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Phê-rô, Giacobe và Gioan sẽ mãi nhớ về thị kiến này trên Núi Thánh. Khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu truyền lệnh cho họ: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Chúa Giêsu ra mệnh lệnh cho họ phải giữ im lặng, không chỉ đối với đám đông dân chúng mà còn với chín môn đệ còn lại ở đồng bằng. Chúa Giêsu nói:"Đừng nói với ai về thị kiến này”:
- Đừng nhanh chóng giao tiếp với người khác những gì các con đã nhận được. 
-Hãy giữ điều này cho chính mình, hãy giữ điều đó an toàn. 
- Truyền đạt điều đó quá nhanh, ngay cả cho các môn đệ khác, sẽ là đánh mất, xua tan, giải tán điều đó một cách vô ích. 
- Đừng phung phí quà tặng của Thiên Chúa, đừng nói quá nhanh, hãy học cách dành thời gian để mầu nhiệm về Thiên Chúa chín muồi trong im lặng. Đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu.
Thời gian nghe. Trên đỉnh núi nơi Chúa Giêsu biến hình trước ba môn đệ, có tiếng nói của Chúa Cha phán: “Đây là con Ta Yêu Dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.
- Chúa Cha mời Phê-rô, Giacobe và Gioan lắng nghe trước khi nói. 
- Ngài ra lệnh cho Phêro nói quá nhanh phải im lặng.
- Ngài cắt lời Phêro và che phủ Phêro dưới bóng của Ngài. 
- Ngài mời gọi Phêro ở trong ánh sáng, dưới bóng Thiên Chúa còn ẩn dấu trong mầu nhiệm. 
- Ngài yêu cầu ba môn đệ dành thời gian để lắng nghe, dành thời gian để đón nhận mầu nhiệm và để mầu nhiệm thấm vào các ông. 
- Ngài truyền các ông lắng nghe Đấng mà Ngài đã dành tất cả tình yêu. 
- Ngài yêu cầu lắng nghe lời "Con yêu dấu"của Ngài và để được Con yêu dấu lấp đầy trước khi đi rao giảng Tin mừng. 
- Trên đỉnh núi Chúa Giêsu biến hình, Chúa Cha ra lệnh cho Phê-rô, Giacobe và Gioan làm môn đệ trước khi giảng dạy.
Phê-rô, Giacobe và Gioan trung thành tuân theo mệnh lệnh này. Với chín người kia, họ sẽ tiếp tục sự đồng hành hàng ngày này với Chúa Giêsu. Họ sẽ được thấm nhuần lời dạy của Ngài. Họ sẽ nhận được tất cả Tình yêu của Ngài. Trong bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, họ vẫn im lặng: mười một người trải nghiệm Chúa Giêsu phục sinh sống với họ, nhưng họ không nói gì về điều đó
Vào ngày lên trời, Chúa Giêsu truyền cho họ đợi thêm mười ngày nữa trước khi nói. Ngài truyền họ chờ đợi Chúa Thánh Thần đến vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Ngày hôm đó, họ nói về một lời đầy Tình yêu Thiên Chúa mà họ đã dành  nhiều thời gian để lấp đầy!
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
=======================
Suy niệm 2
Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu
Mat-thêu 17, 1-9
 
Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi !
Tượng Phật
Tượng Phật vàng tại dền thờ Wat Traimit
Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.
Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.
Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.
Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.
Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.
Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.
Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.
Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…
Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.
Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, không tự biết mình.
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.
Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.
Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.
Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.
Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”
Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.
Lạy Chúa Giê-su,
Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa.
Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.
 
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
=======================
Suy niệm 3
Lên Núi Thánh
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giê-su đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giê-su. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giê-su vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
Về thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Về nơi chốn: ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Về con người: chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an”.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
Đức Giê-su được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Nếu dung nhan Đức Giê-su chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giê-su trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người. Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gio-an mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê”. “Trông giống như...”, “như...”, còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giê-su trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giê-su không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Mô-sê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Ê-li-a là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giê-su thế kỷ I SCN. Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phê-rô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (17,5). Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giê-su đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông. (x. Suy niệm CN 2 Mùa Chay A, Giu-se Lê Minh Thông, O.P.)
Ba môn đệ thân tín được Đức Giê-su dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giê-su. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giê-su Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Ki-tô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phao-lô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Cô-rin-tô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giê-su Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giê-su.(x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 273).
Đức Giê-su đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Ngài đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giê-su phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. Hai đỉnh núi: núi Ta-bor và núi Sọ cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.Với Đức Giêsu, vinh quang núi Ta-bor chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho mầu nhiệm núi Sọ nơi vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phê-rô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (x. 2 Pr 1,16-20).
Thánh Phê-rô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường tình yêu.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự Thánh lễ, kinh nguyện, những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi Tĩnh Tâm. Cần phải dành những giây phút lên núi với Chúa: Núi của thánh lễ, núi của cầu nguyện, núi của sám hối, núi của những dịp tĩnh tâm. Đó là những giây phút lên núi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến đổi bản thân mình.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những thách đố của đời sống. Núi Thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên Đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Chúng ta có sẵn sàng nhận lời mời của Chúa Giê-su để cùng với Người “lên núi” không? Mỗi lần Cầu Nguyện, Tĩnh Tâm, Linh Thao, Dâng Lễ, lắng nghe Lời Chúa, đón nhận các Bí Tích, là chúng ta được “lên núi” với Chúa. Nhiều lần “lên núi” như thế là để thực tập cho quen với một lần “lên Núi Thánh” là đỉnh cao cuối cùng trong Nước Trời.
Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An
=======================
Suy niệm 4

KHỔ NẠN VÀ PHÚC SINH
(Mt 17,1-9)

Trang Tin Mừng (Mt 17,1-9) Chúa nhật II Mùa Chay năm A, đưa chúng ta lên núi cùng với các Tông Ðồ Phêrô, Giacôbê và Gioan chiêm ngắm Chúa Giêsu biến hình, một biến cố ngoại thường trước khi tiến sâu vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thương Khó, cử hành Cuộc Khổ Nạn, cái chết và sự phục sinh vinh quang của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Phêrô, Giacôbê và Gioan thật diễm phúc, vì đã được Chúa Giêsu cho nếm trước vinh quang Phục sinh: điều thuộc về thiên giới nhưng xảy ra trên trần gian. Ba ông thấy Thầy dung mạo biến đổi khác thường, khuôn mặt Người sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17,). Các ông đã quá quen với hình ảnh của Thầy trong dáng vẻ thường ngày của con một người trần thế, nay đứng trước sự huy hoàng chói lọi, bao trùm toàn bộ con người của Thầy, lại có thêm Môi-sen và Êlia xuất hiện bên cạnh đàm đạo với Thầy khiến các ông kinh ngạc. Sửng sốt quá, Phêrô thốt lên: "Lạy Chúa, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môi-sen và một cho Êlia" (Mt 17,4). Lúc ông còn đang nói thì một đám mây sáng bao phủ các ngài.

Một đám mây bao phủ các tông đồ gợi cho chúng ta nhớ lại đám mây bao phủ dân Israen trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35), hay khi Đức Maria đón nhận tin truyền từ Sứ Thần cho Trinh Nữ: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Lúc Chúa Giêsu biến hình, từ trong đám mây bao phủ ấy có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Tiếng Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu, và Ngài mời gọi chúng ta “Hãy vâng nghe lời Người

Quả thật, Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể của Chúa Cha (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34). Chúa Cha muốn các môn đệ và qua các ông Lời Chúa Giêsu cần phải được mọi người đón nhận và vâng nghe. Nghe lời Chúa Cha tuyên phán, các môn đệ kinh hồn bạt vía, ngã sấp xuống. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ” (Mt 17).

Đừng sợ, các ông sợ gì và tại sao lại sợ? Thưa, các ông sợ đau khổ, sợ thập giá, nhất là sợ cái chết bi thương như Thầy đã loan báo: “Người phải đi Giêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Lời loan báo trên chẳng những làm cho Phêrô và hai ông kia, mà thậm trí cả nhóm môn đệ bị khủng hoảng. Phêrô đã phủ nhận và can ngăn Thầy. Ông phủ nhận là điều dễ hiểu, bởi các môn đệ trông đợi một Ðức Messia quyền năng, mạnh mẽ, thống trị, thế mà nay Chúa Giêsu lại tự giới thiệu mình như một người đầy tớ khiêm hạ, hiền lành của Thiên Chúa, đầy tớ của con người, sẽ phải hy sinh mạng sống, bước qua khổ đau và cái chết. Đương nhiên là câu hỏi lớn nảy sinh trong đầu: Làm sao có thể theo Một Bậc Thầy và một Ðức Messia mà cuộc sống trần thế của Người kết thúc như thế được? Các môn đệ nghĩ như vậy. Việc Chúa biến hình là câu trả lời cho các ông. 

Biến cố này giúp các môn đệ đương đầu trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cả chúng ta ngày hôm nay nữa cũng hiểu rằng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là một mầu nhiệm, một hồng ân tình thương vô biên của Thiên Chúa, nhất là hiểu rõ hơn sự phục sinh của Người. Để hiểu các biến cố ấy, cần biết trước rằng Ðấng đang chịu đau khổ và được vinh quang không phải chỉ là một con người, nhưng là Con Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta qua tình yêu trung thành cho đến chết. Qua đó Chúa Cha lập lại lời tuyên bố về Chúa Con, đã xảy ra bên bờ sông Giordan sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa và Chúa Cha nhắn nhủ chúng ta: "Các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17,).

Bước tiếp vào Mùa Chay Thánh, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

=======================
Suy niệm 5
Người Biến Đổi Hình Dạng
St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9
Tuần trước Thầy báo cho môn đệ biết trước cuộc thương khó Thầy sẽ phải chịu, các ông không hiểu, Phêrô thì không chấp nhận nổi nên can ngăn, bị Thầy mắng là “Satan!…” Hôm nay Thầy kéo ba môn đệ được yêu hơn (trong đó có Phêrô) đi riêng lên một ngọn núi cao, cho cả ba chiêm ngưỡng thước phim có một không hai: “Thầy biến đổi hình dạng”! Sướng quá các ông quên hết sự đời! Vẫn ông Phêrô nhanh nhảu nói vu vơ mơ mộng trong mê sảng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mt 17,4). Chỉ “dựng lều” cho ba nhân vật trong “bức tranh tuyệt mỹ” này thôi, còn các ông thì cứ say ngắm thế này đã đủ, chả còn thiết sự gì nữa… Thế đấy, ai thấy khổ mà chẳng bàn lùi tránh né, thấy sung sướng oai phong thì ôm mơ dệt mộng chẳng muốn xa rời.
Khi chìm đắm chất ngất trong lúc cầu nguyện, ở trên núi (cảnh đất trời gần nhau), trong giây phút xuất thần, Thầy trở nên rực rỡ tuyệt trần. Ngày xưa lúc Môsê cầu nguyện gương mặt ông cũng bừng sáng lên. Hôm nay được lên núi cầu nguyện với Thầy, các ông được sung sướng ngất ngây, được chiêm ngưỡng vinh quang Thầy, trực diện với bậc Ngôn Sứ vị vọng trong lịch sử cứu độ, đàm đạo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy, cuộc Tử Nạn mà Thầy đã loan báo. Phêrô hôm nay được nghe và xem thấy tận mắt. Đang say mê với cảnh thiên đường, bỗng từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha xác nhận và kéo các ông trở về thực tại: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (Mt 17,5). Ở lại chiêm ngắm Thầy biến hình thì dễ, nhưng phải thực hành vâng nghe lời Người là điều khó hơn nhiều, phải từ bỏ mình, vác thập giá, đi vào con đường hẹp, liều mất mạng sống…
Biến cố hiển dung của Thầy nhằm củng cố đức tin cho các môn đệ, trước khi bước vào thử thách trong cuộc thương khó. Nhưng sự hăng hái này không còn tới ngày mà khuôn mặt Thầy đầy mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu, ngày xem thấy khuôn mặt đầy thương tích của Thầy trên đồi Sọ. Sau này Phêrô đã làm chứng rằng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người”.
Chúa ơi! ngày nay chúng con có đủ can đảm xuống núi làm chứng cho Thầy giữa những tối tăm trong cuộc sống thực tại, bằng những điều mình từng “thấy” khi được lên núi với Chúa không? Xin dẫn đưa chúng con vào mối tình gắn bó keo sơn với Chúa, để trong Chúa, chúng con được biến đổi từ trong ánh mắt, đôi tai, môi miệng, trái tim, để dung nhan sáng láng dịu hiền của Chúa hiện rõ trên khuôn mặt phàm trần của chúng con.
Én Nhỏ
 
 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log