"Vì biết rằng người ta muốn tôn mình làm vua, nên Chúa Giêsu trốn lên núi một mình"
-------------------------------
Phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều làm sôi động cả miền Palestina thời ấy, vì dân tộc Do thái đã quá sốt ruột mong đợi Đấng Mêsia đến với họ. Đấng Mêsia đến để giải phóng họ khỏi nô lệ, làm cho họ trở lên một cường quốc hùng mạnh thống trị thế giới. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, dẹp tan sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại, họ bắt đầu theo Người. Thánh Gioan kể: "Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ thấy những phép lạ Người làm cho các bệnh nhân".
Bầu khí sôi động này cũng trở nên mạnh mẽ hơn vì phép lạ hoá bánh ra nhiều được thực hiện gần vào dịp lễ vượt qua. Lễ vượt qua là ngày kỷ niệm dân Do thái được giải phóng khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Ngày lễ này cũng loan báo sẽ có Đấng Mêsia đến giải phóng họ vì họ đang phải làm nô lệ cho đế quốc Rôma. Thánh Gioan viết: "Lễ vượt qua là đại lễ của người Do thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám dân chúng rất đồng đến với Người". Chúa động lòng thương làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, vì họ theo Người mấy ngày nay mà không có lương thực mang theo.
Sau khi họ ăn no thoả thuê, bầu khí sôi động càng trào dâng đến nỗi họ muốn đặt Chúa làm vua để lãnh đạo họ: "Thật ông này là Đấng Tiên Tri phải đến trong thế gian".
- Trước thái độ đó, Chúa Giêsu đã làm gì ?
- Liệu Người có muốn để cho bầu khí sôi động này đạt tới cao trào không ?
Không, ngược lại, "Người trốn lên núi một mình".
Đọc toàn bộ Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ. Người làm phép lạ với mục đích là để đánh động trái tim con người, làm cho dân tộc Do thái và cả thế giới biết rằng Chúa Giêsu không phải chỉ là người, mà còn là Thiên Chúa: Thiên Chúa làm người.
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ còn làm nhiều điều tốt khác cho tất cả những ai muốn gặp gỡ Người: Người nâng đỡ, yên ủi những ai yếu đau và cùng khốn. Nhưng điều quan trọng hơn cả khi làm phép lạ, là Người muốn sự trở lại của các con tim. Người muốn cả thế giới tin vào Người, nhận biết Người là Thiên Chúa để được hạnh phúc.
Khi nhân loại kém lòng tin và mong muốn phép lạ chỉ là để tò mò, Chúa Giêsu sẽ không làm phép lạ. Đã có lần những người biệt phái xin Chúa làm phép lạ, chẳng những Chúa từ chối mà còn cảnh cáo họ: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ ? Quả thật, Tôi bảo cho các ông biết: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào, ngoài điềm lạ tiên tri Giona".
Chúng ta biết, ba năm hoạt động truyền giáo, Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhưng số người theo Chúa có được là bao nhiêu ! Chỉ sau khi Chúa chết và sống lại, nói đúng hơn là sau khi ban Chúa Thánh Thần, thì số người tin theo Chúa mới càng ngày càng đông.
Thật vậy hôm nay, Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, một sự kiện lớn lao như vậy, thế mà dân chúng vẫn chưa nhận ra Người là Thiên Chúa. Người đành phải trốn lên núi một mình.
Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều và sau đó trốn lên núi một mình, báo trước Người sẽ lập bí tích Thánh Thể và Người sẽ ẩn mình trong đó.
Ẩn mình trong đó, chúng ta không thấy Người bằng con mắt thường, nhưng uy quyền toàn năng của Người ở đó. Uy quyền toàn năng không phải để chúng ta thoả mãn cơn khát theo định kỳ, theo dòng thời gian, nhưng là để đạt tới sự sống vĩnh cửu. Uy quyền toàn năng của Thiên Chúa được thể hiện mạnh mẽ nhất không phải trong sôi động và ồn ào, nhưng trong mầu nhiệm thập giá và nhờ mầu nhiệm thập giá, như thánh Phaolô đã quả quyết: "Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với ai đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa".
Giáo xứ, họ đạo và mỗi người chúng ta, cũng đã có một thời sôi động theo Chúa. Theo Chúa để được ăn bánh no nê, được che chở, được công ăn việc làm, hoặc để được lợi lộc vật chất gì đó. Khi ấy, có thể chúng ta cũng tán dương tung hô Chúa như dân Do thái xưa: "Thật ông này là Đấng Tiên Tri phải đến trong thế gian".
Trước thái độ theo Chúa như thế, nhìn về một khía cạnh nào đó, Chúa cũng đã bỏ trốn một mình trong thinh lặng. Chúa bỏ trốn khỏi tiếng ồn ào và sôi động. Chúa bỏ trốn không phaỉ trong mất tích, nhưng để chúng ta tìm Người bằng tình yêu nồng cháy. Chúa ẩn mình trong thinh lặng của bí tích Thánh Thể. Trong bí tích Thánh Thể: Trái tim, thân xác phục sinh, tâm hồn và toàn thể bản tính Thiên Chúa của Ngôi Lời làm người ngự tại đó. Và ở đó, Người chờ đợi chúng ta.
Thánh Thể, điểm hẹn của tình yêu. Từng người và toàn thể cộng đoàn chúng ta đến đây. Đến đây không phải là để được ăn bánh no nê. Đến đây, không phải trong bầu khí sôi động bề ngoài.. Đến đây, với một con tim nồng cháy, để Chúa nói với cộng đoàn và cộng đoàn nói với Chúa. Chúa nói với chúng ta nhiều lắm! Chúa nói không phải là chỉ cho ăn no cơm bánh, mà còn cho chính Thịt Máu Người, cho tất cả vì yêu. Bây giờ Chúa muốn chúng ta hãy nói với Người. Hãy nói bằng hành động đến với Người và kết hợp với Người bằng một tình yêu sâu xa: "Tình yêu đáp trả tình yêu".
Thánh Thể, điểm hẹn của tình yêu. Chúa còn nói riêng với từng người và từng người nói với Chúa: "Một mình Chúa với một mình tôi, và một mình tôi với một mình Chúa".
Tôi cảm nhận rất rõ về điều này khi đến dâng thánh lễ an táng cho cụ bà Anna. Đám tang quả là một sự im lặng quá lớn. Im lặng trong cái nghèo của một cụ già dưới túp lều tranh. Trong im lặng Chúa vẫn ở đó, Chúa ngự nơi bí tích Thánh Thể. Cũng chỉ vì Chúa ẩn mình nơi bí tích Thánh Thể, mà nhiều anh chị em trong giáo xứ Sơn Lộc đến đây: Ban kèn, ban ca, các em lễ sinh, các ban hành giáo trong các họ đạo thuộc giáo xứ cùng nhiều bà con giáo dân. Đám tang nghèo nhất, nhưng cũng có thể nói là đông nhất so với đám tang của những nhà giàu có không Kitô. Tất cả đến đây không phải là để ăn no cơm bánh, nhưng là để nói lên tình yêu của mình với Chúa và với cụ bà Anna nghèo khó. Sau thánh lễ một bà cụ già khác nói với tôi: "Thưa cha, con đã bỏ Chúa quá lâu, cha hãy xin Chúa tha tội cho con". Cảm động, tôi đáp lại: "Chúa vẫn yêu bà, Chúa vẫn đợi chờ bà đến với Chúa, bà hãy cố gắng trở về với Người". Cuối cùng bà đáp lại trong nước mắt trào dâng: "Vâng ạ".
Đúng là Chúa đã nói với bà cụ đó bằng Tình Yêu chờ đợi và tha thứ. Còn bà cụ đó với với Chúa bằng sự thống hối ăn năn qua Bí Tích Thánh Thể mà Chúa đang ẩn mình.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Bài 2:
Chính anh em hãy dọn cho họ ăn
(Ga 6, 1 – 15)
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bilgate, tỷ phú người Mỹ gốc Do thái, người chuyên bán phần mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la. Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói : "Xin dọn cho dân chúng ăn" (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời : "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao ?" (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa : "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Êlisê ra lệnh : "Cứ dọn cho dân chúng ăn " (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình : "Cứ bảo người ta ngồi xuống"… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 10-12).
Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ, đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu "Chạnh lòng thương" đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng : "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42)
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên Chúa tiếp tục yêu cầu chúng ta : "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42) Chúa Giêsu không chấp nhận sự thoái thác khi nói : "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) hay : "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" (Ga 6, 9).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế : "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015).
Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. "Người cầm lấy cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 11). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người : phục hồi sự sống, sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu! Hết thảy mọi người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau.
Trong một lá thư mục vụ mùa chay của Đức cố Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ngài viết : "Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta". 5 chiếc bánh và hai con cá ấy là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người…" Ngài viết tiếp "vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều, nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương...".
Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bài 3:
GÓP PHẦN NHỎ BÉ CỦA RIÊNG MÌNH TRONG TAY CHÚA
Mầu nhiệm Nước Trời thường được Thánh Kinh diển tả bằng hình ảnh “Bữa Tiệc”, bữa tiệc Thiên Chúa khoãn đãi muôn dân muôn nước trên núi Si-on với rượu ngon thịt béo, bữa tiệc thường xuyên với Manna rơi xuống để nuôi dân lang thang suốt 40 năm trường trong hoang mạc, bữa tiệc đám cưới mà những cô khôn ngoan nhờ dầu đèn đầy đủ đã được ung dung tham dự, bữa tiệc của người cha già mừng đứa con đi hoang trở về hội ngộ, bữa tiệc của Gia-kê lần đầu tiên vinh dự được gặp Thầy, và như hôm nay, bữa tiệc đơn giản ngoài trời trên bãi cỏ của hơn năm ngàn thực khách vì khao khát lắng nghe Lời Chúa bất chấp hoang mạc, đường xa với nắng gió và những cơn đói khát dày vò và trên hết, là bữa Tiệc Vượt Qua của năm 30 thế kỷ thứ nhất, khi Giao Ước Mới chính thức được ký kết với Bánh Rượu được trở nên Mình và Máu của Con Thiên Chúa làm người, trở hành Hy Tế Tạ ơn mà hôm nay chúng ta đang cử hành.
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã nhìn thấy một đám đông bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không kẻ chăn và Ngài đã chạnh lòng thương xót họ, thì Chúa Nhật hôm nay, phát xuất từ trái tim “chạnh lòng thương đó”, Chúa Giêsu lại quay về với đám đông đang lẽo đẽo theo Ngài với cái bụng đói quay quắt đã khiến Ngài dâng trào một mối bận tâm: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Từ trái tim “chạnh lòng thương” tới mối “bận tâm thực hiện”, quả thật con đường của Thiên Chúa đến với loài người bao giờ cũng dẫn tới phép lạ. Từ phép lạ “Manna, chim cút, mạch nước Meriba… trong những ngày lang thang nơi hoang mạc”, đến phép lạ “20 chiếc bánh lúa mạch nuôi cả trăm người của tiên tri Ê-li-sa” (BĐ 1), hay như Tin Mừng Gioan kể lại hôm nay, phép lạ từ “năm chiếc bánh và hai con cá trong tay của một em bé” trở thành bữa tiệc khoản đãi thỏa thuê mấy ngàn thực khách…tất cả đều muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa không bao giờ lãnh đạm, thờ ơ trước thân phận đói khổ lầm than của nhân loại, như Lời Ngài phán với Môsê: “Ta đã thấy nổi khổ của Dân Ta”, hay như tâm tình dạt dào thương mến đã hóa thành lời nơi môil miệng Đức Kitô ; “Ta thương xót đám dân nầy…”.
Để hiểu rõ căn cớ làm sao mà con người lại vật vã kiếm tìm miếng cơm manh áo, và đói khát triền miên cái hạnh phúc hôm nay và vĩnh hằng, thiết tưởng chúng ta phải quay về “tấm bảng chỉ đường” của Lời Chúa trên chặng đường lịch sử cứu rỗi.
Đã mang kiếp sống người trần mấy ai mà không một lần mơ ước có một “địa đàng hạnh phúc ngay trên thế gian nầy”. Thì ra, đã có một thời con người được Thiên Chúa cho sống trong vườn địa đàng, một thời vàng son ắp đầy hạnh phúc (St 2, 8-9.15-16). Nhưng rồi điều không may đã xảy ra, địa đàng khép lại, khi “bàn tay lông lá” của Satan thò vào phá đám (St 3,1-7). Chính vì thế, trong đáy sâu thân phận bọt bèo gian lao khổ lụy, con người vẫn ôm lòng luyến tiếc địa đàng xưa. Vã lại, cũng ngay từ cái buổi hồng hoang khi con người bị kết án đuổi đi khỏi địa đàng hạnh phúc, Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cứu độ. Và như thế, hình bóng Nước trời ở cuối tận chân trời lịch sử lại lóe sáng rạng ngời tia hy vọng (St 3,14).
- Nước Trời đó phải chăng là “bữa tiệc trên núi” với ê hề thịt béo rượu nồng mà Gia-vê hào sảng đãi no nê muôn dân muôn nước (I-sa-i-a 25,6-10)
- Nước trời đó phải chăng khi “sa mạc đồng khô cỏ cháy…đã tưng bừng nở hoa như khóm huệ…mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được…Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ…sẽ không phải đói phải khát, không bị khí nóng và mặt trời hành hạ, vì Đấng thương xót chúng sẽ hướng dẫn và đưa chúng đến những suối nước tuôn trào (I-sa-i-a 35,1-10; 49,10).
- Nước Trời đó phải chăng khi có những bước chân người loan báo Tin mừng “Chúa đang hiển trị”, và quân canh gác reo hò vang dậy khi thấy tận mắt “Đức Chúa đang trở về Xi-on, Giêrusalem điêu tàn hoang phế bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi Dân Người và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem” (Is 52,7-10)…
Những gì được tiên báo trong Cựu Ước cứ tưởng rằng chỉ là câu chuyện huyền thoại, những đầu óc hoang tưởng vẽ vời một địa đàng xa xôi để vỗ về cái thực tại não nùng của một kiếp nhân sinh đầy tràn thương đau khổ lụy.
Thế nhưng, mọi ước mơ và khát vọng, mọi tiên báo và ước hẹn cứ từ từ hiện thực và dần dần rõ nét. Cứ tưởng Thiên Chúa chỉ quan tâm thực hiện những “dấu lạ động trời” như những phép lạ tai ương đỗ xuống trên Ai Cập, như “Biển Đỏ dựng sóng nước thành đường đi”, như khói bốc lửa dậy khi ban Mười Điều răn trên núi Sinai, như tiếng kèn làm đổ sập thành Giê-ri-cô kiên cố… Không đâu, mối bận tâm thường xuyên và hàng đầu của Thiên Chúa lại chính là những chuyện chúng ta cứ nghĩ là “vụn vặt tầm phào”, những chuyện của đời thường, của kiếp sống mỏng manh, của những ước vọng bình thường, của những nhu cầu giản đơn cần thiết. Thiên Chúa đã trãi qua kinh nghiệm một “đời thường nhân loại với tất cả những lao tâm khổ tứ, cay đắng ngọt bùi, thương đau khổ lụy. Còn đó Bêlem với máng cỏ hang lừa, còn đó Nadarét với cái đục cái cưa của nghề thợ mộc, còn đó những bước chân mệt nhoài đói khát trên những nẻo đường cát bụi Palestina, còn đó những phút giây ngủ gà ngủ gật trên chiếc thuyền nhân loại bị sóng đánh tả tơi, còn đó chén thù chén tạc khi chấp nhận đồng bàn với những người anh em thu thuế và tội lỗi…Và rồi, còn đó cây thập giá với cái chết tũi nhục trên đồi Can Vê, còn đó quán trọ bên đường Emmaus hay bửa điểm tâm trên bờ hồ Tibêriát với tám bánh nướng thơm và vài con cá nhỏ…tất cả lại không là mối bận tâm của Thiên Chúa đó sao, tất cả lại không là “dấu lạ” đó sao ?
Thiên Chúa không quay lưng với những giá trị và nhu cầu vật chất. Chính vì thế, tràn ngập cả bốn cuốn Tin Mừng là những chuyện kể về “Dấu Lạ”, những Phép lạ ngang qua cuộc sống đời thường: mắt thôi mù để có ánh sáng, tai thôi điếc để nghe được âm thanh, phong cùi lành sạch để trở về hội nhập cuộc sống bình thường, rượu ngon thay nước lã để tân lang và tân nương khỏi bẽ mặt, những bệnh nan y được khỏi, kẻ chết sống lại để có được niềm vui và hy vọng…Và hôm nay, với mấy chiếc bánh kiều mạch và vài con cá nục của một em bé, Đức Kitô đã biến thành một bữa đại tiệc ắp đầy hân hoan no phỉ…
Thế giới hôm nay nào có khác gì; và Thiên Chúa cứ vẫn còn quan tâm chăm sóc từng ly từng tí qua Thánh Thần, qua Giáo Hội, qua những Tông đồ, qua chị, qua anh, qua tôi, qua những con người cùng đồng cảm với Ngài và sẵn sàng vâng lệnh Ngài “để lo cho họ ăn”, để sẻ chia và phục vụ. Bởi vì điều cốt yếu Đức Kitô nhắm tới không là “Bữa tiệc của trần gian”, không là thỏa mãn những nhu cầu vật chất và những khát vọng trần tục, mà chính là “Bàn Tiệc của Nước trời”, là hạnh phúc vĩnh cửu, là thiên đàng. Dấu lạ “bánh hóa nhiều hôm nay” chính là tiên báo “Bánh Trường Sinh” Ngài sẽ thực hiện vào Bữa Tiệc Vượt Qua ngày Thứ Năm trước khi ra đi chịu khổ hình thập giá để trở thành “Tiệc Thánh Thể” dấu chỉ của Bàn Tiệc Nước trời mai hậu.
Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu bức xúc của con người, cũng như để thỏa mãn lời réo gọi của con tim chạnh lòng nơi chính mình, Thiên Chúa ít khi muốn “độc quyền” thi thố dấu lạ. Ngài luôn cần những bàn tay nhân loại (Môsê, Đa-vít, Êlia, Esther, Giuse, Maria, Gioan Tẩy giả, Maria Mađalêna, Anê, Cecilia, Têrêsa, Anrê Phú Yên…). Đó chính là những “em bé” quảng đại, biết cho đi “chút phần nhỏ bé nhất của riêng mình” để Thiên Chúa làm nên điều kỳ diệu. Phải chăng, Thánh lễ hôm nay cũng lại là một “phép lạ” như thế đang chợt về ! Để từ đây, những “phép lạ của tình thương” lại nối tiếp trong thế giới, trong cuộc đời. “Phần nhỏ nhất trong cuộc đời” mà Thiên Chúa đang cần đến phải chăng là những điều Thánh Phaolô trong BĐ 2 hôm nay đề nghị : “Hãy sống xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban. Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại ; lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”.
Nói cách khác, nếu mỗi người có được nhịp đập của trái tim Chúa Giêsu và sẵn sàng quảng đại trao vào tay Chúa chút phần nhỏ bé của riêng mình, thì mỗi ngày có trăm vạn phép lạ “bánh hóa nhiều” không phải chỉ để 5000 ngàn người no nê cơm bánh, mà để hàng hàng lớp lớp nhân loại tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống hôm nay và nắm chắc hạnh phúc trong Nước Trời mai hậu.
Chuỗi dài những ân sủng đã làm cho Người trở nên thủ lãnh các linh hồn, nó bao hàm sự liên tiếp này, khiến cho biết bao những giới hạn và thống khổ lại đưa dẫn đến sự trọn hảo cao quý nhất./.
Pr.Nguyễn Mai