Lời Chủ Chăn Tháng 07.2018
THÁNH TỬ ĐẠO VÀ THÁNH SỐNG ĐẠO
Cộng đoàn dân Chúa giáo phận Hưng Hóa thân mến,
Hòa chung niềm vui với toàn thể Giáo Hội Việt Nam, giáo phận chúng ta vừa khai mạc Năm Thánh mừng 30 năm các Thánh Tử Đạo được tôn phong. Tạ ơn Chúa đã ban cho giáo phận những bông hoa xinh đẹp góp phần tô thắm vườn hoa của Chúa.
Năm Thánh là dịp để ôn lại gương sáng của các thánh Tử Đạo hầu giúp chúng ta noi gương các ngài. Trong số hơn 100.000 vị tử đạo, có 32 vị đã đổ máu tại pháp trường Năm Mẫu và Gò Sỏi thuộc thị xã Sơn Tây. (Giáo phận chúng ta may mắn còn một đài tưởng niệm các Thánh Tử Đạo tại một góc của pháp trường Năm Mẫu xưa). 7 trong số 32 vị Tử Đạo này đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Hiển Thánh ngày 19.6.1988. Tên tuổi các ngài được khắc vào một trụ đá, bên trong đặt di cốt các ngài, để lưu lại cho hậu thế gương đức tin trung kiên và đức mến son sắt. Các ngài là ai ? Thưa là các thánh sau đây:
- Gioan Charles Cornay (Tân), linh mục thừa sai, tử đạo năm 1837 tại Năm Mẫu.
- Phêrô Vũ Văn Truật, Phêrô Trương Văn Đường, Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, ba thầy giảng cùng chịu tử đạo năm 1838 tại Gò Sỏi.
- Augustinô Schoeffler (Đông), linh mục thừa sai, tử đạo năm 1851 tại Năm Mẫu.
- Gioan Đoàn Văn Vân, thầy giảng, tử đạo năm 1857 tại Năm Mẫu.
- Phêrô Phanxicô Néron (Bắc), linh mục thừa sai, tử đạo năm 1860 tại Năm Mẫu.
Anh chị em có thể tìm đọc tiểu sử các ngài trên trang mạng của giáo phận, hoặc trong sách Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam do Hội đồng Giám mục vừa phát hành.
Tôi xin trích lược một số nét tiêu biểu của các vị thánh trên đây.
- Thánh Gioan Charles Cornay Tân bị bắt mà luôn vui tươi. Chịu tra tấn roi đòn xong, thay vì khóc, ngài cười. Trước khi chết, ngài còn hát thánh ca. Bị buộc tội phản loạn, cha trả lời: “Thưa quan, chúng tôi chỉ chuyên giảng đạo, dạy người ta làm lành lánh dữ, dạy con cái thảo kính cha mẹ, dạy dân vâng phục vua quan. Tôi đâu thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống đối nhà vua được”. Biết chắc mình sẽ được phúc tử đạo, cha viết thư về cho song thân như sau: “Cha mẹ yêu quý, đừng buồn về cái chết của con. Đó không phải là ngày than khóc, mà là ngày vui mừng. Xin hãy nghĩ rằng sau những đau khổ ngắn ngủi con chịu thì từ trời cao, con sẽ luôn nhớ đến cha mẹ. Xin nhận nơi đây lòng thảo hiếu của con. Ký tên: Cornay.”
- Trong ba thầy giảng Truật, Đường, Mỹ cùng chịu tử đạo một lượt với nhau, thì thầy Truật là vị thánh duy nhất của giáo phận Hưng Hóa, thuộc giáo xứ Hà Thạch. Ở trong tù, các thầy cảm thấy hạnh phúc và an ủi vì được rước Mình Thánh Chúa. Thầy Đường viết cho cha Marette như sau: “Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ xiềng xích cho chúng con. Cửa thiên đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa.”
- Cha Augustinô Schoeffler Đông phải khốn khổ trốn tránh sự lùng bắt của quan quân, nhưng ngài không hề nản lòng. Ở trong tù, cha vẫn tìm cách giảng đạo, và đã cảm hóa được một người lính. Cha nói với anh: “Khi nào tôi bị xử rồi, tôi sẽ nhớ đến anh, và nếu anh muốn hạnh phúc thật thì tìm nơi có đạo mà tin theo”. Sau khi cha được tử đạo, người lính này lập gia đình và theo đạo Công Giáo.
- Thầy giảng Gioan Vân bị bắt khi đã ngoài 70 tuổi. Trước công đường, quan phủ tra vấn thầy xem có thực là đạo trưởng không. Thày khiêm tốn trả lời: “Bẩm quan, tôi nói thật không dám khai man, tôi chỉ là thầy giảng. Quan lớn cho tôi là đạo trưởng thì đó là ý quan lớn, chớ tôi không dám nhận”. Quan khuyên dụ thầy bước qua thánh giá để được tha, nhưng thầy trả lời: “Bẩm quan lớn, tôi giữ đạo đã bấy nhiêu tuổi đời, lẽ nào còn bỏ đạo.”
- Cha Phêrô Néron Bắc là vị tử đạo đáng thương nhất vì phải gian truân ngàn nỗi, trốn chui nhủi khắp vùng Tạ Xá, Yên Tập, Tiên Phong, Chiêu Ứng, Du Bơ... Giáo dân sợ bị kết tội “oa trữ Tây dương đạo trưởng” nên giấu cha trong rừng. Cha bị lạc và bị đói lả suýt chết. Tuy thân xác khốn khổ, cha vẫn giữ một cuộc sống nội tâm rất cao độ: Mỗi ngày cha quỳ gối suy niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu qua 14 chặng Đàng Thánh Giá, ăn chay các thứ sáu mùa Chay, các ngày Vọng lễ trọng và lễ Đức Mẹ. Để dọn mình lãnh phúc tử đạo, cha nhịn ăn 21 ngày, chỉ uống một bát nước lã mà vẫn sống. Dân chúng coi cha như một vị thần, họ bảo: “Không ăn mà vẫn sống, thật lạ lùng”. Dù bị lở loét, cha không xin thuốc chữa trị. Ngồi trong cũi chật hẹp mà khuôn mặt cha lúc nào cũng vui tươi. Trên đường ra pháp trường Sơn Tây, cha xin được cởi trói, cổ vẫn mang gông nặng mà chân bước thoăn thoắt, lính áp giải không theo kịp. Đến pháp trường Năm Mẫu, vị chứng nhân quỳ gối xuống, sốt sắng cầu nguyện. Quan giám sát xuống ngựa, đến gần cha mà nói: “Vua kết tội ông chứ không phải tôi, xin tha cho tôi, ông về quê bằng an, xin nhớ đến tôi với.”
Anh chị em thân mến,
Các thánh Tử Đạo cha ông chúng ta, giữa trăm ngàn nguy khó và tăm tối, đã nêu gương sáng chói về niềm tin trung kiên, lòng mến nồng nàn. Là con cháu của các ngài, chúng ta hãy sống sao cho xứng với tiền nhân.
Các ngài đã làm chứng cho Chúa bằng cái chết để trở thành các vị Thánh Tử Đạo ; còn chúng ta, hãy làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống để trở nên các vị Thánh Sống Đạo. Nếu không dễ để hái được cành thiên tuế tử đạo, thì cũng không dễ để đạt được triều thiên sống đạo.
Chúng tôi muốn đặc biệt hướng đến các gia đình trẻ, vì là năm đồng hành với các gia đình này. Không ngần ngại, chúng tôi muốn nhắc các đôi vợ chồng trẻ đề phòng những thách đố về lòng chung thủy vợ chồng, về tình yêu thương lúc ban đầu, về ý thức trách nhiệm giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái. Chúng tôi biết nhiều gia đình trẻ đang trên đà đổ vỡ, hoặc vì người chồng lâm vào tệ nạn rượu chè, cờ bạc, nghiện hút; hoặc vì người vợ không khéo léo bảo vệ hạnh phúc gia đình; hoặc vì nhiều cha mẹ không quan tâm yêu thương và giáo dục con cái cả phần hồn lẫn phần xác. Không ít đôi vợ chồng công giáo ích kỷ, không tôn trọng sự sống của con cái khi chúng còn là bào thai trong dạ mẹ để loại bỏ chúng đi. Một số người khô khan nguội lạnh về đức tin và việc giữ đạo. Như thế là chưa sống đạo.
Vì thế, chúng tôi kêu gọi các thành phần dân Chúa, từ các cha, các tu sĩ nam nữ, đến các Ban Hành Giáo, các Hội đoàn trong giáo phận và những người thân thuộc đồng hành với những trường hợp nêu trên, qua sự tiếp xúc, khuyên nhủ, hòa giải cá nhân, cũng như gặp gỡ, đối thoại, cầu nguyện chung, giúp các đôi vợ chồng và gia đình trẻ vượt qua những thử thách, bảo vệ gia đình cũng như cuộc sống hôn nhân đạo đời của họ được toàn vẹn. Như thế là tất cả chúng ta giúp nhau nên thánh bằng cách sống đạo, cũng như cha ông chúng ta đã nên thánh bằng cách tử đạo.
Chúng tôi cũng mời gọi anh chị em trong Năm Thánh này cố gắng sắp xếp để tham dự hành hương kính viếng đài các Thánh Tử Đạo tại Sơn Tây và Nhà thờ Chính Tòa. Nếu không thể tham dự hành hương với giáo hạt hay giáo xứ thì hành hương cá nhân, nhờ đó chúng ta lãnh nhận nhiều ơn Chúa mà sống đạo cho tốt.
Nguyện xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho các gia đình chúng con biết sống xứng đáng là con cháu của các ngài. Amen.
Sơn Tây, ngày 01 tháng 7 năm 2018, cạnh đền các Thánh Tử Đạo Việt Nam
+ Gioan Maria Vũ Tất, Giám mục Giáo phận
+ Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục Phụ tá
I. CHIA sẺ LỜI CHÚA: CHỦ NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
Am 7, 12-15; Ep 1, 3-14; Mc 6, 7-13
Kinh nghiệm nhân loại cho biết bất cứ chuyến đi xa nào cũng cần chuẩn bị kỹ lưỡng và đầy đủ mới thấy an tâm. Về phương diện tinh thần, hoặc thiêng liêng thuộc phạm vi tôn giáo, người ta cũng sẽ hỏi mình cần gì cho những chuyến đi cuộc đời? Bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc hôm nay nói về những bước chân rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô. Chúa xem dạy ngược, Ngài dạy họ chuẩn bị hết sức sơ sài và khiêm tốn trên đường: Không được mang bị và túi tiền; chỉ cần một cây gậy, đôi dép và bộ quần áo; tới đâu thì sống nhờ thiên hạ tới đó. Như thế, Chúa muốn họ cần biết nương tựa hoàn toàn vào Chúa, phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Người, và cậy nhờ vào lòng tốt của tha nhân.
Phải, trên thân người rao giảng Tin Mừng phải hết sức nhẹ nhàng và trút bỏ vật chất, vì họ theo gương Chúa rao giảng sự sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 6, 12).
Sám hối là một việc rất khó thực hiện đối với con người. Nếu người rao giảng sám hối mà tâm hồn luôn bận rộn với các nhu cầu vật chất, thì chẳng ai nghe và tin họ cả, bởi có khi họ còn tham lam và lo lắng với cuộc sống trần gian hơn cả những người nghe họ giảng là đàng khác! Chúa dạy họ chỉ cần một ít tối thiểu cho mình: một cây gậy để bảo vệ mình khỏi thú dữ, một đôi dép để có sức chịu đựng lâu dài trên đường đi, và một bộ quần áo để che mưa che nắng. Thân phận họ sẽ giống với thân phận của Chúa: Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Bề ngoài không đáng kể, bề trong mới quan trọng. Một khi trong lòng có Chúa, đến đâu và ở đâu họ cũng tràn đầy hạnh phúc và được kính trọng yêu thương.
Ngày hôm nay, hình ảnh người rao giảng Tin Mừng có lẽ khác với các môn đệ thời Chúa Giêsu rất nhiều. Những bóng dáng nghèo nàn như Chúa dạy càng ngày càng ít dần, vì dù ngay nơi những người có lời khấn khó nghèo, thì cách này hay cách khác, người ta cũng tìm để có một đời sống tương đối dễ chịu!. Đó là chưa kể đến đa số đời sống sung túc của những người đi tu trong các xã hội văn minh vật chất. Phải chăng vì nhu cầu cuộc sống mà họ không thể có lối sống phó thác và nghèo nàn như Chúa dạy nơi những người rao giảng Tin Mừng? Điều này đúng hay sai còn tuỳ thuộc vào tâm hồn, ý hướng và ý chí muốn sống lý tưởng cuộc đời hiến dâng của những người theo Chúa.
Gương sáng đời sống tin tưởng, phó thác, nghèo hèn và phục vụ gần đây của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, hoặc Thánh Têrêxa Calcutta, vv... là những tấm gương sáng ngời mời gọi tất cả chúng ta hãy trở về với cuộc sống phó thác và tin tưởng thực tình nơi Chúa, nếu muốn cho Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài trong các tâm hồn.
Gợi ý chia sẻ:
- Chúa sai anh chị đi làm Tông đồ cho Chúa, anh chị có cảm thấy điều đó không
- Mỗi khi đi làm việc Tông đồ, anh chị thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của anh chị quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ năm xưa không?
- Theo anh chị, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
- Theo anh chị, đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
II. HỌC HỎI TÔNG HUẤN NIỀM VUI TÌNH YÊU
Lễ hội trong đời sống gia đình
Niềm vui là chữ xuất hiện trong tiêu đề tất cả ba tông huấn được Đức Thánh cha Phanxicô ban hành. Nếu tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhấn mạnh căn tính của Kitô hữu, tông huấn Niềm Vui Hoan Hỷ hướng đến niềm vui vĩnh cửu, thì tông huấn Niềm Vui Tình Yêu làm nổi bật lên niềm vui gia đình. Như thế có thể nói niềm vui là một nội dung giáo huấn nổi bật của Đức Phanxicô. Trong một bài giảng mùa vọng 2017, ngài nói: "Kitô hữu là người mang trong mình niềm vui, chứ không phải vẻ mặt đưa đám.”
Niềm vui có Chúa hiện diện
Trong tông huấn Niềm vui tình yêu, Đức Phanxicô viết: "Gia đình có thể biến thành một khung cảnh để cử hành sự hiện diện của Chúa Kitô tại bàn ăn. Như lời sách Khải Huyền: 'Này Ta đã đứng bên cửa và Ta gõ ! Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào với nó, và Ta sẽ dùng bữa tối với nó và nó với Ta'" (Kh 3, 20). Ở đây ta thấy, trong bữa ăn gia đình, căn nhà ngập tràn niềm vui vì sự hiện diện của Thiên Chúa, cùng với lời nguyện cầu và chúc phúc của thánh vịnh 128: "Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128, 4-6).
Biết dành thời giờ quan tâm đến nhau
Tông huấn nhấn mạnh: "Lòng yêu thương cần thời gian và không gian; mọi điều khác đều là thứ yếu. Thời gian cần để thảo luận, để ôm nhau không vội vã, để chia sẻ các dự tính, để lắng nghe, để nhìn nhau, để góp ý cho nhau, để tăng cường mối liên hệ... Nên nghĩ cách giúp các vợ chồng trẻ dành tối đa thời giờ cho nhau, hiện diện với nhau, thậm chí chia sẻ các giây phút thinh lặng có ý nghĩa với nhau (NVTY 224). Tông huấn nhắc đến tiếng reo vui của ông tổ Adam “đây là thịt bởi thịt tôi.” Trong cuộc sống vợ chồng, cả những lúc khó khăn, người này vẫn luôn có thể gây ngạc nhiên cho người kia. Lòng yêu thương giúp họ dành cho nhau sự kiên nhẫn phát xuất từ chính Thiên Chúa (NVTY 221).
Tông huấn đề ra một số gợi ý như: "sắp xếp thì giờ rảnh rỗi với nhau, giờ khắc giải trí với con cái, những hình thức cử hành các biến cố quan trọng, chia sẻ các cơ may lớn lên về tâm linh..." Tông huấn cảnh giác: "Một khi cặp vợ chồng không còn biết cách dành thì giờ với nhau, kết cục một hay cả hai người sẽ vùi đầu vào những túi đồ phụ tùng, tìm các cam kết khác, tìm vòng tay của một ai khác, hay đơn giản tìm cách trốn chạy điều đã trở nên sự gần gũi gây khó chịu" (NVTY 225).
Những ngày truyền thống gia đình
Thực thi lời khuyên của tông huấn "Hãy dành thời giờ cho nhau", trước tiên các gia đình cần quan tâm đến những ngày giỗ tổ và ngày tết. Với người Việt, chắc chắn lễ Tết là cơ hội đặc biệt để phát huy tình cảm gia đình. Ngày đầu xuân mọi người đều cố gắng về đoàn tụ gia đình, để chúc tuổi ông bà cha mẹ, và gửi đến cho nhau những lời nguyện chúc tốt đẹp nhất.
Kế đó nên tổ chức ngày giỗ tổ, ngày sum họp các gia đình cùng một gốc tổ, ngày hội ngộ của dâu rể, con chú con bác và cháu chắt nội ngoại. Do hoàn cảnh phân tán làm ăn tại nhiều nơi, đây là cơ hội quý giá để nhận biết họ hàng thân thích, để được gắn kết với truyền thống gia tộc, để cùng cầu nguyện và ôn lại các ký ức của những bậc tiền nhân.
Những sáng kiến ngoại lệ
Các gia đình còn có rất nhiều cơ hội để thực hiện tông huấn. Đó là ngày sinh nhật và bổn mạng của từng thành viên, ngày dành cho mẹ (Chủ nhật thứ II trong tháng 5), ngày của cha (Chủ nhật thứ III trong tháng 6), ngày tết trung thu và quốc tế thiếu nhi (1/6)... Hoặc những ngày đặc biệt của cá nhân như kỷ niệm hôn phối, rước lễ lần đầu, hay lãnh bí tích thêm sức. Không cần điều gì lớn lao, nhưng nên có một chút thay đổi trong bữa ăn, một món quà nhỏ, một lời chúc mừng, hoặc một ý nguyện trong giờ kinh.
Tông huấn viết: “Niềm vui của tình yêu thương gia đình này cần được vun xới. Vì chúng ta được tạo nên để yêu thương, và không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui được chia sẻ: Hãy cho, hãy nhận, hãy cư xử tốt với nhau (Hc 14:16). Quả là niềm vui và an ủi lớn lao khi đem được niềm vui cho người khác, và thấy họ sung sướng. Niềm vui này không phải là niềm vui của kẻ ích kỷ chỉ biết đến mình, mà là hoa trái của lòng yêu thương, là niềm vui mang điều tốt lành cho những người mình yêu, hiến thân cho họ cách tự do và nhờ thế mà được trở nên phong phú” (NVTY 129).
Thánh hóa ngày Chủ nhật
Một nội dung được các đại hội gia đình thế giới gần đây nhấn mạnh góp phần bảo vệ, duy trì và phát triển niềm vui, tình yêu và hạnh phúc gia đình đó là thánh hóa ngày chúa nhật. Hội thánh mong muốn các gia đình khám phá và sống ý nghĩa ngày Chủ nhật, chứ không chỉ tuân giữ theo luật buộc.
Trước hết, Chủ nhật tiếp nối và làm trọn vẹn ý nghĩa ngày hưu lễ của Cựu ước, ngày tưởng nhớ công trình sáng tạo của Chúa. Ngài "chúc lành và làm cho ngày này trở thành một ngày thánh” (St 2, 2-3). Kế đến là từ giao ước Sinai, hưu lễ trở thành biểu tượng của đoàn dân tự do đã thoát khỏi cảnh nô lệ: "Ngươi không được làm gì, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều trong thành" (Xh 20, 8-10). Bước sang Tân ước, ngày thứ nhất trong tuần là ngày các tông đồ gặp Đức Giêsu Phục sinh, ngày tưởng niệm, cử hành và tái hiện mầu nhiệm ơn Cứu Độ.
Mỗi tuần các gia đình hãy ưu tiên ngày Chủ nhật để gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh trong Thánh lễ, dành nhiều thời giờ cho nhau: chia sẻ, sinh hoạt, giải trí, và hiệp thông bữa cơm gia đình. Chủ nhật cũng là ngày để mở rộng tình thân đến họ hàng nội ngoại, đến các gia đình trong giáo xứ, đến bà con lối xóm, và đến với những người cùng khổ.
Như thế ngày Chủ nhật giúp ta định hướng những giá trị thiêng liêng cho các việc làm hằng ngày, ngày thảnh thơi với Chúa với bản thân và với tha nhân. Thánh hóa ngày Chủ nhật chính là khẳng định quyền tối thượng của Thiên Chúa, thăng tiến tâm linh và sống hiệp thông huynh đệ.
Lễ hội đem đến niềm vui và thánh hóa các gia đình.
II. TÌNH GIA ĐÌNH CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Thánh Anrê Trần Văn Trông, quân nhân : sinh năm 1814 tại làng Kim Long, Huế. Ông là con trai duy nhất trong nhà. Năm 15 tuổi mồ côi cha. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông theo chân mẹ về họ Thợ Đúc làm nghề dệt tơ cho hoàng gia. Năm 20 tuổi, ông từ giã mẹ lên đường nhập ngũ. Tháng 11-1834 vua ra lệnh: các binh sĩ Công giáo phải ra trình diện, Anrê Trông và 12 đồng đội trình diện. Bị đánh và bắt bước qua Thánh Giá, 12 bạn bỏ đạo, chỉ còn một mình Anrê Trông.
Sau một năm giam tù, không hy vọng gì ông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28-11-1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: “Em muốn ăn chay, để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ thương yêu anh. Xin nhắn lời với mẹ em: đừng lo cho em gì cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng về đứa con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”.
Nhưng thực tế, anh họ chưa nhắn lại, bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ An Hòa, nơi con sắp đi qua. Gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con”. Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Đến nơi xử là pháp trường An Hòa, Huế, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính bên cạnh và nói: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm”. Mẹ anh đứng gần, nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật ấy làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình.
Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, đầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ Anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng, dù rất đau khổ. Bất ngờ bà bước ra đòi viên chỉ huy: “Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi”. Nói xong bà mở rộng vạt áo, chờ đón cái đầu của con. Bọc trong vạt áo, rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lặp đi lặp lại: “Ôi con yêu qúi của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !”.
Ngày 27-5-1900, Đức Giáo hoàng Lêô XIII suy tôn lên bậc chân phước. Ngài đã không ngớt lời ca ngợi mẫu guơng của bà mẹ hào hùng. Bà đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ vương Các Thánh tử đạo trên đỉnh Canvê ngày xưa (trang 415-418).
2. Thánh Simon Phan Đắc Hòa, y sĩ : sinh trong một gia đình ngoại giáo, tại làng Mai Vĩnh, tỉnh Thừa Thiên, năm 1774.
Cha chết sớm, mẹ đưa hai chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lưỡng Kim; sau đó đến giúp một gia đình công giáo ở làng Nhu Lý, Quảng Trị.
Sống với người Công giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo, cậu Hòa cảm mến đạo và xin phép mẹ vào đạo. Rồi 12 tuổi cậu xin vào chủng viện; song ý Chúa không muốn, cậu về lập gia đình, sinh được 12 người con.
Ông có lòng bác ái. Có lần đi đường, gặp một người bị kiệt sức nằm bên vệ đường, ông vác lên vai, đem về trạm canh, rồi cho người đem cơm nước nuôi nấng. Nhận thấy ông có lòng đạo, dân làng bầu ông làm câu trong họ đạo.
Tối ngày 13-4-1840, khi đang ở trên thuyền với Đức cha De La Motte Y đến làng Hòa Ninh thì bị bắt. Ông và Đức cha bị đưa về Dương Xuân, rồi Quảng Trị. Sau hai tháng bị giải về Huế.
Khi các con đến thăm ông trong tù, ông khuyên: “Cha yêu thương các con và hằng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn. Các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yêu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha xin vâng trọn”.
Ngày 10-12-1840, ngài bị chém đầu tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa, Huế. (tr. 433).
3. Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm, quan án : sinh năm 1780 trong một gia đình 7 anh em giầu có tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trương, tỉnh Nam Định, địa phận Bùi Chu. Thân phụ là ông Phạm Tri Khiêm, một hương chức danh giá được dân làng trọng vọng. Hấp thụ được nhiều tính tốt của cha, cậu Khảm nổi tiếng là người con có hiếu.
Năm 18 tuổi, vâng lời song thân, cậu kết hôn với cô Anê Phượng, một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống rất thuận hòa, được dân làng tin phục mến yêu. Đặc biệt hai người biết hiệp lực giáo dục và khích lệ con cái học hành. Con trai ông là cai Thìn cũng làm đến chức chánh tổng, được mọi người kính nể và cũng kiên trung làm chứng cho đức tin đến hơi thở cuối cùng với cha mình. Ba người con gái là Nhiêu Côn, Nhiêu Trữ và Hậu Địch cũng được đi học như các con trai, nổi tiếng lanh lợi tháo vát.
Khi bị bắt, cụ Án Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng, vừa là hội viên Dòng Ba Đaminh, kiêm chức trùm trong giáo xứ. Mọi người đều công nhận cụ là người đạo đức, giầu lòng bác ái và nhiệt tình trong những trách vụ. Các thừa sai và cả các Giám mục cũng biết tiếng và từng đến trọ tại nhà cụ trong những ngày khó khăn.
Với giáo xứ, cụ cộng tác đắc lực với cha sở trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng, cụ là một mẫu người đức độ, quan tâm đến nhu cầu của mọi người cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho kẻ nghèo khó, và khích lệ mọi người can đảm trước những bách hại. Gia phả con cháu cụ ghi lại rằng: “Gia nhân phải kiếm kẻ khó vào ngồi chung thì cụ mới ăn cơm”.
Vì sẵn của cải chia sẻ cho mọi người, có lần cụ kiếm cớ đãi cả làng. Cụ cho anh mõ đi rao khắp các hẽm mời mọi người ra ruộng tổ chức đua diều. Ai thắng ai thua không thành vấn đề, miễn là mọi người được một bữa no say.
Cụ tử đạo ngày 13-1-1859 tại Bẩy Mẫu, Nam Định.