Suy niệm 3
Hài nhi giáng sinh là Vua Hòa Bình
(Lc 2, 1-14)
Noel, Lễ Nửa Đêm Chúa sinh ra đời giữa trời đông giá rét, Lễ của Ánh Sáng, Chúa Giêsu là Sự Sáng sinh ra giữa đêm đông. Lời Chúa trong sách tiên Isaia loan báo: " Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền âm u sự chết... " (Is 9,1). Hỏi: Sự sáng nào đã bừng lên và miền nào là miền âm u sự chết?
Sự sáng đã bừng lên
Đọc lại hành trình của dân Chúa năm 734-732 thời Pêqakh vua Israel trước Chúa Giêsu giáng sinh, dưới sự lãnh đạo của Teglat Phalasar III, đạo quân Assyri đánh chiếm vương quốc miền Bắc, phần lớn phía Bắc đã rơi vào ách nô lệ của người Assyrie và bị bắt đi lưu đầy (x.2 V 15,29); những người còn lại phải chấp nhận cảnh nô dịch nặng nề. Năm thứ 9 đời Hôsê Samaria đã thất thủ do quân đội của Sargon (x.2 V 17,6). Đó là kết cuộc của vương quốc Israel (miền Bắc). Về phía vương quốc Giuđa nhỏ bé (miền Nam), chỉ còn giữ được một phần độc lập, nhờ chấp nhận quyền bảo hộ của quốc vương Assyri.
Đem đối chiếu với những biến cố này, Giabulon và Neptali là những chi tộc đầu tiên phải chịu sự xâm chiếm của người Assyri và phải nếm nhục nhằn của kiếp tôi đòi (x. Is 8,23); sự tang tóc và cảnh tôi mọi làm cho những miền này trở thành “miền tăm tối”, gợi lại hình ảnh “một dân đi trong tối tăm” (Is 9,1), đang bước vào miền đất lưu đày. Nay Isaia loan báo một tin vui toàn thể : “ Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi... Người là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàn, Người Cha Muôn Thủa, Ông Vua Thái Bình" (Is 9,5). Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Lời sấm đã thoáng thấy sự thất bại của những kẻ đàn áp và chấm dứt những sự chinh phục của họ (Is 9,3-4). Ngôn sứ Isaia đã đặt lời hứa phục hưng đó trên viễn tượng tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân Người (Is 9,6b)
Ông Vua Thái Bình
Khi dân Israel lâm cảnh tăm tối như vậy, họ mong chờ Đấng Thiên Sai đến. Họ cất lên những lời nguyện cầu tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời…”. Từ đáy lòng mình, họ tin rằng khi Đấng Thiên Sai đến, thế giới sẽ hoà bình. Dân tộc được ưu tuyển sẽ ngẩng cao đầu giữa các dân. Sẽ không còn tang tóc nước mắt và đau khổ, đất sẽ tràn trề sữa và mật. Đấng Thiên Sai được chờ đợi như một vị Hoàng tử Hoà bình (x. Is 9,5).
Cách đây hơn hai ngàn năm, niềm hy vọng nuôi dưỡng bao thế hệ Do Thái đã thành hiện thực. Thiên Chúa không chỉ tiếp xúc với Dân của Ngài qua những trung gian như thời xa xưa, nhưng bằng chính Con Một mình là Đức Giêsu, Đấng muôn dân mong đợi.
Có thể người thời nay đặt câu hỏi: Sau hai mươi thế kỷ giáo huấn của Chúa Giêsu trước một thế giới lây nhiễm bởi lối sống tục hóa và vô thần thực tiễn, đâu là giá trị giáo huấn của Chúa Giêsu đối với con người hôm nay, Người đã đem lại gì cho trần gian?
Đức Cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã đưa ra câu trả lời: Chúa Giêsu đem cho nhân loại chính Thiên Chúa, và như vậy là đủ. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Không có Thiên Chúa, cuộc sống này trở nên vô nghĩa. Phủ nhận Thiên Chúa, thế gian sẽ chỉ còn lại là bãi chiến trường và là nơi đầy bạo lực chết chóc, như kinh nghiệm thực tế đã chứng minh. Nơi Chúa Giêsu, Đấng vô hình đã trở nên hữu hình, Đấng cao vời đã trở nên gần gũi. Chúa Giêsu đã khẳng định "Ai thấy Thày là thấy Cha" (Ga 14,9). Người là Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng ta.
Những người thời nay còn đặt câu hỏi: Nếu Chúa Giêsu là Hoàng Tử Bình An, tại sao thế giới vẫn tồn tại những cuộc chiến nghiệt ngã ở nhiều lĩnh vực và mức độ khác nhau, thậm chí, ngày tại quê hương của Thái Tử Hoà Bình, chiến tranh vẫn không hề vắng bóng?
Xin thưa: Hoà bình chỉ được thiết lập khi có thiện chí của con người. Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đưa ra những nguyên tắc để hướng tới hoà bình. Cốt lõi giáo huấn của Người là yêu thương, dựa trên nguyên tắc mọi người là anh chị em trong gia đình Thiên Chúa.
Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp hoà bình các thiên thần đã hát lên tại cánh đồng Belem năm xưa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho người thiện tâm”. Không chỉ lắng nghe, mà mỗi tín hữu được mời gọi trở nên sứ giả, đem tin mừng Giáng Sinh đến mọi nẻo đường của cuộc sống. Liệu chúng ta có khả năng khẳng định chắc chắn với những người cùng thời rằng: Chúa đã đến và đang hiện diện giữa chúng ta. Người là Hoàng Tử Bình An. Người chúc phúc cho những ai xây dựng hoà bình, "vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9) ? Lễ Giáng Sinh chỉ có ý nghĩa, nếu chúng ta cảm nhận được sự ngọt ngào của tình Chúa tình người, thể hiện qua niềm vui đón chào Đấng Cứu thế, Đấng đang ở giữa chúng ta.
Xin ban bình an cho nhân thế
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, con người có lẽ cần đến Ðấng Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, đem lại bình an cho con người, nếu không phải là Ðấng yêu thương loài người cho đến mức độ trao ban chính Con Một là Vua Hòa Bình cho con người.
Cuộc chiến do Nga khai mào mệnh danh là “đặc biệt” kéo dài gần hai năm chưa có hồi kết cho thấy. Nhân loại đang rất cần Hòa Bình. Con người khiêm nhường cúi đầu quỳ gối xuống trước “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7) là Vua Hòa Bình đem bình an cho dương thế.
“Thế Giới Đang Cần Đến Hòa Bình” là một thông điệp gửi đến tất cả mọi người trên thế giới này, giữa lúc cuộc chiến giữa Nga và Ucraina ngày khốc liệt, cộng thêm cuộc chiến do Hamas châm ngòi và Israel đang trả đũa. Thế giới nói chung, Âu Châu, Trung Đông nói riêng bất an và dường như không còn dựa vào sức riêng của mình được nữa, thế giới đang cần Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết. Chỉ có Vua Hòa Bình mới mang bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Cùng với các Thiên Thần chúng ta vang lời ca hát và khẩn khoản nài xin: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiên tâm" (Lc 2,14).
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm 4
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
Ga 1, 1-18
Thánh sử Gioan đại diện cho các môn đệ, những người trực tiếp sống với Đức Giêsu Kitô. Trong tình yêu, ông chứng thực, cảm nghiệm và “thấy” rất rõ, nên lời chứng của ông về Ngài hoàn toàn xác thực và đáng tin nhận. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa.” Ông khẳng định Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đã có từ đầu khởi thủy.
Trước hết Ngôi Lời tỏ mình qua việc tạo dựng. “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành”. Ngài “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” thì Ngài vẫn luôn “hướng về Thiên Chúa” vì Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngôi Lời tỏ mình qua lời chứng của Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng và cao trọng: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
Đặc biệt Ngôi Lời tỏ mình qua biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời đã trở nên người phàm cư ngụ giữa chúng ta: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 6-7). Thánh sử Gioan đại diện cho các môn đệ để minh chứng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người”. Các môn đệ đã nhìn thấy Ngôi Lời bằng xương bằng thịt. Ngài đã ở giữa họ, dạy dỗ, cùng ăn uống và làm bao nhiêu phép lạ…Thánh Gioan làm chứng cho người hậu thế chúng ta, là những người không được chứng kiến tận mắt biến cố Nhập Thể, trở thành người phàm của Con Thiên Chúa, bằng Phúc Âm và các thư của Ngài.
Nhưng trớ trêu thay, nhiều người sống đồng thời với Ngài năm xưa và cho đến hôm nay lại không nhận biết Ngài, hay chẳng chịu đón nhận. Phải chăng vì mầu nhiệm tự hủy của Ngài làm họ không thể nhận ra? Trong mầu nhiệm Giáng Sinh, Ngài là hiện thân của sự nghèo hèn cơ cực. Đấng mà các tầng trời không thể chứa lại được đặt trong máng cỏ. Vì ai mà Thiên Chúa cao cả đã trở nên quá tầm thường? Các quán trọ không tiếp nhận Ngài, nhưng hang đá nghèo Belem lại tiếp nhận Ngài, nên hang đá Belem đã đi vào lịch sử, in mãi dấu xưa vẫn còn và trở thành thánh địa mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Xưa nay vẫn có đó những người không tin nhận Ngài. Những người thuộc hiện tại hôm nay, cả những người sống đồng thời với Ngài hai ngàn năm trước không tin và chối từ Ngài. “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ:không phải ai ai cũng là người của chúng ta”(1 Ga 2, 19).Ngược lại những ai đón nhận và tin vào Ngài thì được hạnh phúc làm con Thiên Chúa, được lãnh nhận “hết ơn này đến ơn khác”. Qua ngôi Lời họ được thấy Chúa Cha và hiệp với Chúa Thánh Thần. “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.”
Ôi Chúa Hài Đồng yêu mến ơi! Chúa là Thiên Chúa đã trở nên người phàm cho chúng con và vì chúng con, cho chúng con “đổi đời” mà được làm con Chúa! Này con xin mở rộng tâm hồn mà đón Chúa vào trái tim bé nhỏ của con. Xin Chúa biến đổi làm tim con thành “ngôi nhà” nhỏ bé thân thương có Chúa ngự trị, cho mãi luôn ấm áp cõi lòng con và còn lan tỏa đến mọi người hôm nay Chúa nhé!
Én Nhỏ