[1]https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-09/dtc-phanxico-tc-luon-ra-di-tim-kiem. ==============
Suy niệm 2
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Mt 28,16-20.
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20.
(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
-C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến:Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn: Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy:Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi:Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng:Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.
-C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất:Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). +Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).
-C 28,20: +Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế:Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).
4. CÂU HỎI: 1)Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời? 2)Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy? 3)Tại sao Chúa Phục Sinh truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê? 4)Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào? 8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ? 9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. CÂU CHUYỆN:
1) DẤN THÂN LOAN BÁO TIN MỪNG NHƯ THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê :
Phan-xi-cô Xa-vi-ê chào đời vào năm 1506 tại Tây Ban Nha trong một dòng tộc quý phái. Khi cảm nhận sâu sắc bởi câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9,25), ngài đã gác lại những khát vọng hoài bảo của mình và trở thành cánh tay cộng tác đắc lực với thánh I-nha-xi-ô trong việc truyền giáo theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20).
Trong sứ vụ được sai đi rao giảng cho vùng Á Châu rộng lớn, thánh nhân đã mang về rất nhiều linh hồn cho Chúa Ki-tô bằng thái độ hiền lành, ứng xử khiêm tốn lịch sự và sống kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa nên ngài đã gặt hái được nhiều hoa trái là đưa được rất nhiều linh hồn về cho Chúa.
Thánh nhân qua đời ngày 03/12/1552, được Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô XV tuyên thánh cùng với thánh I-nha-xi-ô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Nhìn vào tấm gương của nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này có nhiều nét giống với vị thánh tông đồ dân ngoại Phao-lô: Phan-xi-cô có tấm lòng nhiệt huyết dồi dào. Một ngọn lửa truyền giáo lúc nào cũng bừng cháy trong lòng, thôi thúc thánh nhân đem ánh sáng đức tin loan truyền cho mọi người bằng việc rao giảng Tin Mừng. Dù gặp vô vàn khó khăn thử thách về cách thức ăn ở tại vùng đất xa lạ, khác biệt ngôn ngữ, khác về văn hóa … Nhưng trên tất cả, ngài luôn sẵn lòng đón nhậnvà quyết tâm vượt qua, “Miễn là Đức Ki-tô được rao giảng” (Pl 1,18).
Chúng ta hãy xin Chúa đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tông đồ truyền giáo để noi gương thánh Phan-xi-xô, can đảm ra khỏi ranh giới an toàn, mang hạt giống Lời Chúa đến gieo vào lòng mọi người chung quanh bằng việc đi bước trước để làm quen, bằng những hành động yêu thương cụ thể, bằng việc rao giảng Lời Chúa kèm theo lời cầu nguyện chân thành cho mọi người mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc.
2) HY SINH CẦU NGUYỆNNHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU :
Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp.
Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.
Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, làm các việc tầm thường trong môi trường tu viện khép kín, không lập được thành tích nào nổi bật về truyền giáo. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé hằng ngàyấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Chị đã làm việc loan báo Tin Mừng bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình, giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết tin yêu Chúa.
Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, được tôn phong là Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính nhằm nêu gương sáng về cách thức truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu giống như “Con thơ phó thác” trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3) SỐNG BÁC ÁI PHỤC VỤ NHƯ MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cụ thể. Mẹ không giảng Tin Mừng bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu kèm theo cử chỉ thân ái với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ trương yêu mọi người chung chung, nhưng là yêu từng con người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.” Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-xa đã nhận được sự cảm phục của nhiều người trên thế giới. Ngày nay, công việc truyền giáo của Dòng Thừa Sai Bác Ái của mẹ Tê-rê-sa được phân thành nhiều phương diện phục vụ như sau:
- Việc rao giảng Tin Mừng: qua những lớp Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh, nhóm hoạt động Công Giáo, và thăm viếng bệnh nhân, người già và các tù nhân.
- Chăm Sóc Y Tế:qua các nhà thương, bệnh viện người cùi, những em bị tật nguyền tâm lý và thể lý, những người hấp hối và tuyệt vọng, người bị bệnh AIDS và ho lao, những trung tâm suy dinh dưỡng và những bệnh xá lưu động.
- Việc Giáo Dục: qua các trường tiểu học trong các khu nhà nghèo, lớp dạy may cắt, lớp thương mại, lớp cho người tàn tật, lớp mẫu giáo ở làng, và những chương trình giữ trẻ.
- Dịch Vụ Xã Hội: qua chương trình an sinh và giáo dục trẻ em; nhà cho người vô gia cư, giúp con nghiện cai rượu và thuốc lá; nhà cho những người mẹ không chồng; nơi tạm cư ban đêm; trung tâm hướng dẫn phương pháp điều hoà sinh sản.
- Dịch Vụ Cứu Tế: qua những nhà chia sẻ thực phẩm và phân phát quần áo cho những người nghèo đói…
3. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất? Tại sao?
4. SUY NIỆM:
1) SỨ VỤ TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG:
a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: "Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ". Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15).Nơi khác,ngài còn khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su: Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
2) PHẢI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG THEO CÁCH NÀO ?:
a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su:
- Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo: “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.
b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta:
- Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…
- Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.
c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê:
- Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.
d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ:
- Giới thiệu Chúa cho người khác:An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su…
- Đi bước trước tiếp cận người lương: Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.
- Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp: Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.
3) CHU TOÀN SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO HÔM NAY ?
- Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiếtvới Chúa.
-Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn: Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cũng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.
- Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.
- Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Ðức Phao-lô VI đã dạy: "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.
(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su) LM ĐAN VINH - HHTM
==============
Suy niệm 3
Được sai đi làm chứng
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 - 6; Lc 24,44-53)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Bước vào tháng Mười, tháng 10 tháng Mân Côi, cầu cho chủng viện và chủng sinh; Chúa nhật thứ ba trong tháng, ngày Truyền giáo.
Ngày Truyền giáo Thế giới, còn được gọi là Khánh nhật Truyền giáo, được Đức Giáo hoàng Piô XI thiết lập năm 1926. Ngày này thường được tổ chức vào Chúa nhật thứ ba trong tháng 10. Năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có những sáng kiến như: phát động Tuần Truyền Giáo từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 10, và cao điềm là Ngày Truyền giáo Thế giới sẽ được cử hành vào ngày 23.
Khi nhấn mạnh rằng mọi thành phần Dân Chúa đều có trách nhiệm làm chứng cho Chúa Kitô. Đức Thánh Cha cũng kêu gọi nhiều nỗ lực mới trong công cuộc truyền rao Tin Mừng, và bày tỏ rằng ngài tiếp tục mơ về một Giáo hội truyền giáo hoàn toàn, một kỷ nguyên mới của hoạt động truyền giáo giữa các cộng đồng Kitô giáo.
Truyền giáo là làm chứng
“Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8) là chủ đề của Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2022. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu loan báo sứ điệp cứu độ của Chúa Kitô trong mọi chiều kích của đời sống hàng ngày, nhất là bằng đời sống chứng tá.
“Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8) ; đây là lời kêu gọi mọi Kitô hữu làm chứng cho Chúa Kitô. Đức Thánh Cha nói rằng “yếu tố này là trung tâm lời giảng dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ”. Ngài nói: “Mọi Kitô hữu được mời gọi trở thành một nhà truyền giáo và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Và Hội Thánh, cộng đồng các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, không có sứ mạng nào khác ngoài sứ mạng đem Tin Mừng đến cho toàn thế giới bằng cách làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Truyền giáo là bản chất của Giáo hội” (x. PHANXICÔ, Sứ Điệp Truyền Giáo, 2022).
Nói rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo ; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo. Nếu như Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16). Thì Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng mọi thành phần Dân Chúa đều có trách nhiệm truyền giáo và làm chứng cho Chúa Kitô, vì họ được Giáo hội sai đi nhân danh Chúa Kitô, như Chúa sai các môn đệ ra đi, từng hai người một. Đồng thời, “các môn đệ được yêu cầu sống cuộc sống cá nhân theo tinh thần truyền giáo: họ được Chúa Giêsu sai đến với thế giới không chỉ để thực hiện, nhưng còn và trên hết, sống sứ vụ được uỷ thác cho họ; không chỉ làm chứng, nhưng còn và trên hết trở thành chứng nhân của Chúa Kitô”. Đức Thánh Cha nói thêm: “Trong việc loan báo Tin Mừng, gương mẫu đời sống của Kitô hữu và lời loan báo về Chúa Kitô không thể tách rời. Điều này phục vụ cho điều kia” (x. PHANXICÔ, Sứ Điệp Truyền Giáo, 2022).
Như thế, ai đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo, dù nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể hàng ngày.
Truyền giáo là ra đi
Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha nhắc rằng, các môn đệ đầu tiên mở rộng sứ vụ truyền giáo của họ theo sự hướng dẫn quan phòng của Chúa chứ không với mong muốn chiêu dụ tín đồ. Khi bị bắt bớ, họ mang Tin Mừng đến những miền đất mới. Loan báo Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất”, theo Đức Thánh Cha, đây cũng là thách đố đối với các Kitô hữu ngày nay trong việc loan báo Chúa Kitô cho những người chưa gặp Chúa.
Chúa Thánh Thần hướng dẫn truyền giáo
Thời đại của người kitô hữu quả là thời đại của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn con người và lịch sử tới sự viên mãn, và thành toàn. Chúa Thánh Thần chính là sự sung mãn và phì nhiêu trong đời sống nội tại của Thiên Chúa. Ngài là Đấng kiến tạo sự mới mẻ và sức sống mới. Là ‘Thuyền Trưởng’ lèo lái con thuyền lịch sử và là linh hồn của đời sống kitô hữu (x. Kh 19,1-7). Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể làm chi được. Vì thế, Đức Thánh Cha khuyến khích các môn đệ truyền giáo nhận ra tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần trong hoạt động truyền giáo, gắn bó với sự hiện diện của Người và đón nhận sức mạnh cũng như sự hướng dẫn không ngừng của Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha khuyên : “Thật vậy, chính khi cảm thấy mệt mỏi, không có động lực hoặc bối rối, chúng ta nên nhớ cầu nguyện với Chúa Thánh Thần”, bởi vì cầu nguyện đóng vai trò quan trọng trong đời sống truyền giáo vì nó “cho phép chúng ta được canh tân và củng cố bởi Chúa Thánh Thần” (x. PHANXICÔ, Sứ Điệp Truyền Giáo, 2022).
Khi trình bày trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2022 , Đức Thánh Cha viết: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh từ Chúa Thánh Thần”. Ngài muốn nói rằng các Kitô hữu chỉ có thể “làm chứng đầy đủ và chân thực cho Chúa Kitô là Chúa với sự soi dẫn và trợ giúp của Chúa Thánh Thần”. Chúng ta không thể quên Đức Maria, ngôi sao truyền giáo và khẩn xin Mẹ trợ giúp chúng ta.
Nữ Vương truyền giáo. Cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
==============
Suy niệm 4
Đời Sống Chứng Nhân
Tháng 10, Giáo hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho việc truyền giáo cũng như nhắc nhở các tín hữu về sứ mệnh truyền giáo của mỗi người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10, Giáo hội cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo. Trong Sứ điệp Truyền giáo năm 2022, với chủ đề: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1, 8), Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng “Ơn gọi của mỗi người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô”, vì thế: “Hãy luôn luôn để cho mình được kiện cường và hướng dẫn bởi Thần Khí”.
1. Giáo hội hiểu sứ mạng làm chứng như thế nào?
Giáo hội vẫn luôn luôn coi Đức Giêsu-Kitô là Người Chứng Thứ Nhất. Chỉ một mình Đức Giêsu biết Thiên Chúa (Mt 11,27), do đó chỉ một mình Người mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Đức Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, là Người Con biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Người Con ấy là Sứ Giả được Chúa Cha sai đến trần gian để mạc khải Tình Yêu của Chúa Cha và thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Đức Giêsu cũng là Chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy. Người là Chứng nhân trung thành với Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá, nên được Chúa Cha siêu tôn ban cho danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn một Vị làm chứng thứ hai nữa, được Chúa Cha sai đến cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, đó là Chúa Thánh Thần, cũng là Chúa và là Đấng ban sự sống. Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần không những làm chứng cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, khi Chúa Giêsu còn tại thế, mà còn tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.
Chính vì thế mà sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội được kêu gọi tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21-22); và đã được Chúa Giêsu Phục Sinh thổi hơi vào cùng trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội, để Giáo hội luôn trung thành với Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu trung thành với Thiên Chúa. Giáo hội đã luôn luôn nỗ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm dâu bể. Dù có Chúa Thánh Thần, Giáo hội vẫn đang hành trình lữ thứ hướng về Ngày Chúa Quang Lâm.
Trong Giáo hội vẫn luôn có hai bộ mặt, một bộ mặt thần thiêng, vì luôn có Chúa Thánh Thần, bộ mặt kia còn mang những giới hạn của thực tại trần thế. Nhưng hai bộ mặt này không tách rời nhau, mà gắn liền, làm thành một Giáo hội Duy nhất, dấu chỉ của sự hợp nhất giữa nhân loại với Thiên Chúa và nhân loại với nhau.
2. Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần
Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Cũng như “không ai có thể nói rằng ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu không phải bởi Thánh Thần” (1 Cr 12, 3), thì cũng thế, không người Kitô hữu nào có thể làm chứng đầy đủ và chân thật cho Chúa Kitô mà không do Thánh Thần linh hứng và giúp đỡ. Tất cả các môn đệ truyền giáo của Đức Kitô được kêu gọi nhận ra tầm quan trọng cơ bản của hoạt động Chúa Thánh Thần, sống mỗi ngày trong sự hiện diện của Người và lãnh nhận sức mạnh và sự hướng dẫn chắc chắn của Người” (Sứ điệp Truyền giáo 2022).
Chúa Thánh Thần là Linh hồn của Giáo hội và nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân đạo (Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, huấn từ trưa Chúa nhật 31-5-2009). “Thánh Thần là vai chính đích thực của truyền giáo. Chính Người ban cho chúng ta biết nói đúng những lời phải nói, nói đúng lúc và nói đúng cách” (Sứ điệp Truyền giáo 2022). Sách Công vụ các Tông đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy: Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần là… (Cv 5, 32); Thánh Thần và chúng tôi quyết định là…(Cv 15,28).
Thánh Phaolô, một tông đồ đầy kinh nghiệm về Thánh Thần đã sống và đã nói: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1Cr 2,4); “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian nan đang chờ đợi tôi.” (Cv 20,22-23).
Thời đại hôm nay, Giáo hội toàn cầu và mỗi Giáo hội địa phương phải đương đầu và đối phó với nhiều vấn nạn và thách thức gay go mà thế giới và thực tế cuộc sống gợi nên. Xử lý tình huống và chọn lựa một hướng đi phù hợp với tin mừng cứu độ của Đức Giêsu chẳng đơn giản chút nào. Dù rằng trong Giáo hội không thiếu những con người tầm cỡ, khôn ngoan, đạo đức và thức thời. Nhưng khởi động, diễn biến và kết thúc mọi vấn đề vẫn luôn là, và phải là tác động của Thánh Thần. Bằng không đó chỉ là sự ‘khôn ngoan đối đáp người ngoài’ theo lẽ tự nhiên của “một tổ chức nhân đạo”, chứ không phải của Giáo hội Chúa Kitô. Chính “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6,63). Tuy dù Thánh Thần và Giáo hội có phải công bố hay lên tiếng những điều ngược với lỗ tai người đương thời, kể cả người tin hay không tin, nhưng cuối cùng vẫn chính là: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định !”.
Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần, tất cả đều được gợi hứng và thúc đẩy bởi giáo huấn của Hội Thánh và Tin Mừng của Chúa Giêsu.
3. Đời sống chứng nhân
“Hội Thánh Chúa Kitô sẽ tiếp tục “đi ra” để đến với các chân trời mới về địa dư, xã hội và hiện sinh, đến với những nơi “ngoại vi” và những cảnh sống của con người, để làm chứng cho Chúa Kitô và tình thương của Người cho những người nam người ngữ của mọi dân tộc, văn hoá và vị thế xã hội”. (Sứ điệp Truyền giáo 2022).
Truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân, đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ. Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
Thư Mục vụ HĐGMVN Năm Thánh Truyền Giáo 2003, đã đề nghị mọi thành phần Dân Chúa hãy tuỳ theo ơn gọi và chức năng của mình, tích cực tham gia sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng những việc cụ thể sau:
a.Về phương diện thiêng liêng:
- Cầu nguyện cho việc truyền giáo.
- Nêu gương sống lương tâm công giáo:
b.Về phương diện đối thoại.
- Thăm viếng thân hữu các thành viên tôn giáo bạn.
- Trao đổi với người ngoài công giáo về một đề tài chung
c.Về phương diện thực hành:
- Thiết lập ban truyền giáo.
- Kết nghĩa.
- Làm việc bác ái.
Công việc truyền giáo là bổn phận của mỗi Kitô hữu. Trong môi trường sống hàng ngày, người tín hữu giáo dân có điều kiện để làm chứng nhân khi sống trọn vẹn sứ mạng ơn gọi của mình.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta tràn đầy Chúa Thánh Thần, để chúng ta có sức mạnh làm chứng bằng lời nói, hành động và cuộc sống đời thường, bằng những cố gắng vươn lên không ngừng, bằng niềm vui, tiếng hát, tiếng cười, bằng sự liên đới với mọi người, đặc biệt là những người nghèo, bằng sự dấn thân giúp đỡ và phục vụ những người đói khổ cần đến chúng ta.
Chúng ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa Kitô Thánh Thể, Đấng tràn đầy Thánh Thần, và không ngừng chia sẻ Sự sống, Thần Lực, Thần Khí, Tình Yêu của Người cho những ai đến với Người. Chúa Kitô Thánh Thể là sự Bình An và Hợp Nhất cho nhân loại chúng ta trong một thế giới đầy những xung đột và chia rẽ. Chúa không ngừng định hướng cho cuộc đời của những ai đón nhận sự viếng thăm và hiện diện của Ngài.
“Tôi lặp lại nguyện ước vĩ đại của ông Môsê cho dân Thiên Chúa trong hành trình của họ: “Ước gì toàn dân của Chúa đều là những ngôn sứ!” (Ds 11,29). Thực vậy, ước gì tất cả chúng ta trong Hội Thánh đều là điều chúng ta đã là nhờ Phép Rửa: ngôn sứ, chứng nhân, người truyền giáo của Chúa, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cho đến tận cùng trái đất! Xin Đức Maria, Nữ Vương Truyền Giáo, cầu bầu cho chúng ta!” (Sứ điệp Truyền giáo 2022).
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
==============
Suy niệm 5
Chúa nhận lời kẻ khiêm tốn cầu xin
(Lc 18,9-14)
Tuần trước, qua dụ ngôn đầy tính hài ước với hai nhân vật mang tính biểu tượng : một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn khác cũng gồm hai nhân vật : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi lên Đền thờ cầu nguyện (x.Lc 18, 9-14). Và Người khuyên chúng ta khiêm tốn cầu xin thì sẽ được Chúa nhận lời.
Lời người khiêm nhường vang lên tới Chúa
Nếu chúng ta đọc và nghe lại những lời Chúa trong sách Huấn Ca viết: “Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết” (Hc 35, 15b-17. 20-22a (Hl 12-14. 16-18).
Ðoạn sách trên nói đến kẻ nghèo, người oan, kẻ mồ côi, người góa bụa, là những thành phần cô thân cô thế trong xã hội. Tác giả dùng nhiều hình thức của nhiều câu văn lặp đi nhắc lại chỉ một ý tưởng: Thiên Chúa nghe lời người khó nghèo kêu xin. Ðó là của lễ được nhận...
Người nghèo bao gồm cả con cái Israel thời bấy giờ. Họ phải phiêu bạt đi nhiều nơi, bị dân ngoại chèn ép không nhận được pháp luật bảo vệ trong việc thờ phượng và giữ luật của cha ông. Nhưng họ vẫn cố gắng trung thành với giao ước; vẫn thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ; và khẩn cầu Danh Ngài. Ðó mới thật là kẻ nghèo, người oan, kẻ mồ côi, người góa bụa. Lòng đạo đức của họ nhất định đẹp lòng Chúa và chắc chắn Người sẽ thi hành công lý cho họ khi Ðấng chí công xét xử.
Người thu thuế ra về khỏi tội
Dụ ngôn được Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng hôm nay gồm hai nhân vật đại diện cho con người chúng ta : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Hôm nay, Ðức Giêsu nói dụ ngôn này với với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác để dạy họ cần phải học cho thuộc bài học khiêm nhường, đồng thời phủ nhận một lối sống đạo tự cao tự đại, một sự công chính sai lầm và đề ra tinh thần đạo đức thánh thiện thật.
Người Pharisêu
Người Pharisêu đại diện cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nên cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình mà quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông "tạ ơn Thiên Chúa" ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát: "Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội" (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương nhận lời anh cầu xin. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như người pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Bài học từ hai người trên
Một kết luận thực tế: Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta được hưởng lòng thương xót Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Độ
==============
Suy niệm 6
Làm Cho Muôn Dân Trở Thành Môn Đệ
Mt 28,16-20
Điểm hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với mười một môn đệ tại một ngọn núi thuộc miền Galilê, ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến đó. Tại sao Người hẹn gặp các ông ở Galilê, mà không phải ở đền thờ hay hội đường? Có lẽ Galilê là nơi đặc biệt, nơi xảy ra những biến cố lịch sử cứu độ nhân thế của Người, là một cứ điểm truyền giáo. Đây là miền đất của dân ngoại, thật cần kíp để gieo Tin Mừng. Chính nơi đây Satan đã đưa Người lên để thỏa hiệp với hắn nhưng Người đã chiến thắng. Nên hôm nay trên núi này Đức Giêsu đã công bố với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Khởi đầu sứ vụ, nơi đây Thầy đã gọi các môn đệ đầu tiên. Và cuối cùng hôm nay, điểm hẹn này là nơi Thầy trao sứ vụ loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19.20a).
Suốt ba năm, các ông chỉ đi theo Thầy, trực tiếp cận kề học tập bên Thầy. Giờ đến lúc Thầy không còn trực tiếp dạy dỗ các ông, giờ là lúc các ông phải tự “thực hành thực tế” trong khi Thầy “vắng mặt”. Các ông phải “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền”. Đây là trọng trách lớn lao và thật khó khăn vất vả, nhất là khi không thuận tiện, trong cái chật hẹp, tối tăm của đời các môn đệ cũng như mỗi chúng con hôm nay. Nhưng một lời hứa chắc chắn kèm theo để an ủi và thúc bách chúng con: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20b). Đây là lời hứa để chúng con an tâm khi thi hành sứ vụ khó khăn mà cao cả. Chính Thầy sẽ thực hiện những điều lớn lao kỳ diệu nơi con người mỏng giòn yếu đuối của mỗi chúng con. Từ buổi Thiên sứ truyền tin đã loan báo về Đức Giêsu: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Vâng, Đấng Emmanuel vẫn luôn hiện diện, đồng hành, ở cùng các môn đệ và những người nhiệt tâm loan báo Tin Mừng trong mọi nơi mọi lúc. Chúa luôn ở cùng chúng con trên bước đường loan báo, trải dài cho đến ngày tận thế.
Chúa ơi! trước khi về trời Chúa đã trao cho chúng con sứ vụ “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” của Chúa. Lạy Chúa! sức chúng yếu lắm, lòng người đời thì cứng cỏi, nhưng chúng con tin Chúa sẽ ở cùng và ở với chúng con trong mọi nơi mọi lúc. Để dù khó khăn hay gian nguy, chính Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu trong con người hèn mọn yếu đuối chúng con, cho muôn dân nhận biết Chúa và đi theo Ngài. Amen.
Én Nhỏ
==============
Chúa nhật 30 Thường niên C
Suy niệm 1
Lc 18, 9 - 14
Vào thời Đức Giê su, trong nước Do Thái có hai lớp người khác nhau một trời, một vực.
Nhóm thứ nhất là các ông Phariseu và Kinh sư được toàn dân kính trọng và coi như cha linh hướng. Đi đâu cũng được chào là sư phụ. Vào nguyện đường hay đi dự tiệc, thì luôn luôn được ngồi ghế hàng đầu. Thấy họ, thì không ai mà không kính nể. Họ ăn chay các ngày thứ hai và thứ năm trong tuần. Họ ăn chay một cách tuyệt đối, tức là nhịn ăn và uống từ lúc mặt trời mọc cho tới lúc mặt trời lặn. Họ đọc kinh mỗi ngày năm lần: 6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 15 giờ và 18 giờ. Đến giờ đọc kinh thì dù đang đi đường họ cũng dừng lại, dang tay và ngước mắt lên trời. Họ dâng cho đền thờ mười phần trăm thu nhập.
Đạo đức như thế, thì ai mà không thương mến và kính trọng.
Nhóm người thứ hai là nhân viên thuế vụ. Nhóm này bị Giáo hội ra vạ tuyệt thông cách ly. Ai quan hệ với họ, thì bị mắc uế và phải thanh tẩy. Quần chúng thì coi người thu thuế vừa là quân phản quốc, vừa là bọn phản đạo. Nhục như thế, nhưng họ vẫn không sám hối và giải nghệ, vì chính quyền thực dân nhắm mắt cho họ hà làm tối đa.
Phariseu và Kinh sư được toàn dân kính trọng như thế. Nhân viên thuế vụ bị Giáo hội và xã hội kỳ thị là như vậy. Nhưng Đức Giê su lại có cái nhìn khác.
Các ông Phariseu và Kinh sư bị Chúa dành cho một bài giảng gồm tám câu chúc dữ; câu nào cũng được mở đầu như sau: “Khốn cho các ông, hỡi các ông Phariseu giả hình.”
Còn các nhân viên thuế vụ của đế quốc La mã, Chúa không ca tụng, cũng không lên án. Chúa vẫn coi họ là người tội lỗi, nhưng đáng thương và phải cứu độ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đưa cả hai hạng người này vào một dụ ngôn. Ông Phariseu thì ra vẻ ta đây, tự khoe mình và khoe cả với Chúa nữa. Ông ta còn lên án ông thu thuế trước cả nhan thánh Chúa nữa. Ông tự cao tự đại, khoe các việc đạo đức hy hữu, nhưng Chúa cho ông không điểm. Còn ông thu thuế thì mang mặc cảm tội lỗi: không dám ngước mắt nhìn lên; cứ cúi mặt nhìn bàn chân, lấy nắm tay đấm ngực và thì thầm: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông là người tội lỗi thật, nhưng vừa khiêm tốn vừa có lòng sám hối nên Chúa cho 10 điểm, tức là ra về và được thánh hóa.
Còn chúng ta thì sau khi nghe bài Tin Mừng, chúng ta hiểu rõ cả tâm lẫn ý của Chúa. Chúa rất dị ứng với bọn giả hình và kiêu căng, coi tôn giáo như một phương tiện để mua danh và lợi. Trong tim và trong não của họ chỉ có cái nồi và cái ghế. Nồi thì Chúa đập bỏ. Ghế thì Chúa bẽ gãy. Chúa muốn chúng ta, nếu lỡ mà làm sai ý Chúa, thì cứ khiêm tốn sám hối. Thế là xong. Với Chúa, thì đó là đáng thương, đáng yêu. Mong rằng chúng ta hiểu và sống như thế. Đó là niềm vui của Chúa.
Linh mục Pi ô Ngô Phúc Hậu
==============
Suy niệm 2
Người khiêm nhường sẽ được quý mến, yêu thương
Người khiêm nhường thật diễm phúc vì vừa được Thiên Chúa yêu mến vừa được mọi người quý chuộng. Vì thế, Chúa Giê-su thường dạy chúng ta phải sống khiêm nhường. Ngài nói: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.”
Để minh họa cho bài học của mình, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn “Chọn chỗ cuối.” Ngài nói: Khi được mời dự tiệc cưới, khách mời đừng tự ý ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật tầm cỡ đến sau, bấy giờ chủ nhà sẽ mời người ấy nhường chỗ cho vị khách đến sau thì thật là mất mặt. Tốt hơn, khách mời nên chọn chỗ cuối và khi được chủ nhà mời lên trên thì sẽ được vinh dự trước mặt những người đồng bàn (Lc 14, 7- 11).
Ngoài ra, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”, Chúa Giê-su cũng dạy ta sống khiêm nhường. Ngài đề cập đến một người biệt phái tự phụ, vênh vang, phô trương công đức của mình, tự cho mình thánh thiện, đạo đức và khinh thường người khác. Ông nói: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Quả là ông có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng ông không nhận được ơn lành của Thiên Chúa vì ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ cho Chúa rót ân sủng vào.
Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng khiêm nhường, thống hối và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ… nên đã được Thiên Chúa rót đầy tình yêu thương và sự thứ tha.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giê-su ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
Chúa hạ bệ người kiêu căng
Lời Mẹ Maria thốt lên khi viếng thăm bà Ê-li-da-bét cho ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hạ bệ những người kiêu căng. Mẹ nói:
“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.”
Ngoài ra, người tự cao cũng bị người đời ghét bỏ.
Trong giao tế hằng ngày, người có tính tự cao, tự phụ, tỏ ra trỗi vượt người khác trong lối sống lẫn trong ứng xử, nói năng… chắc chắn sẽ bị mọi người xa lánh, chê bai…
Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường
Trái lại, Chúa tỏ lòng yêu mến kẻ khiêm nhường. Điều nầy được Mẹ Maria khẳng định:
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…”
Và qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”, Chúa Giê-su cũng cho chúng ta biết mặc dù người thu thuế mang đầy tội lỗi, đáng bị lên án, nhưng nhờ có thái độ khiêm tốn và hoán cải, nên được Chúa thương xót và tha thứ.
Ngoài ra, trong đời sống thường ngày, những người biết hạ mình, khiêm nhường trong lời ăn tiếng nói, trong cách ứng xử… thì luôn được mọi người tôn trọng, quý mến.
Như thế, quả đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Lạy Chúa Giê-su
Qua sứ điệp Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho chúng con bí quyết để được Thiên Chúa và mọi người yêu mến, đó là không tôn mình lên, không bao giờ tự cao tự đại nhưng biết sống khiêm tốn với mọi người.
Xin cho chúng con biết vận dụng bài học quý báu nầy vào cuộc sống để luôn được hạnh phúc an vui. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
==============
Suy niệm 3
TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN NHƯ LÒNG CHÚA MONG
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong đời sống đạo, cầu nguyện chính là hơi thở. Một khi chúng ta ngưng cầu nguyện, thì đồng nghĩa với tình trạng đức tin chai sạn, khô cứng, nguội lạnh, và có khi dẫn đến ‘trút hơi thở cuối cùng’.
Ở một thành phố nhỏ kia có đầy đủ các cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ búa, tiệm may, tiệm ăn…, riêng chỉ thiếu là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy, đồng hồ lớn nhỏ nào của cư dân tại đây dần dần bị hư hỏng, hoặc chạy sai. Hầu hết, người ta vứt đồng hồ vào tủ, số khác cố gắng tự lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm, mặc dù chúng chạy không chính xác cho lắm.Một ngày kia, người thợ sửa đồng hồ bất chợt ghé qua thành phố, mọi người rất đỗi vui mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên, anh thẳng thắn nói: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn hoạt động;còn chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Rõ ràng, cầu nguyện chính là hành động giữ cho đồng hồ đời sống ta hoạt động, giữ cho đồng hồ đức tin luôn luôn sống động. Hơn nữa, khi cầu nguyện, chúng ta cần mặc lấy một thái độ khiêm cung, tự hạ, nhìn nhận bản thân là con người tội lỗi đang tha thiết cần đến sự thương xót, đoái trông của Thiên Chúa. Vì chưng, “lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35, 17). Chúa ưa thích tấm lòng khiêm nhu, lời nguyện cầu đơn sơ, những ai tín thác vào Ngài; chứ Ngài chẳng ưng những kẻ khoa trương, đặt mình làm tiêu chuẩn nhằm đánh giá kẻ khác, tự tôn là người công chính và khinh khi tha nhân như người Biệt phái trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Y bắt đầu cầu nguyện với tâm tình tạ ơn Chúa, nhưng không phải biết ơn Ngài đã thương ban cho y bao nhiêu ơn lành, mà với thái độ ‘muốn lôi kéo Chúa đồng tình với mình’ và kể công ‘múa mép’: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi” (Lc 18, 11-12). Tất cả những việc lành của người Biệt phái này hoàn toàn tốt đẹp, nhưng nó sẽ mất ơn phúc nếu chỉ dựa vào đó mà kể công, kể lể, và tự tôn, coi tha nhân không ra gì!
Ngược lại, thái độ và tâm thế cầu nguyện của người thu thuế đáng cho chúng ta học hỏi: “Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’” (Lc 18, 13). Quả thật, chẳng ai trong chúng ta là người công chính trước mặt Chúa cả. Tội lỗi không ít thì nhiều, không bé thì to, không nhẹ thì nặng. Vì vậy, thái độ tự khiêm tự hạ, nhìn nhận tội lỗi mình, kêu cầu Chúa xót thương và tha thứ là điều không thể thiếu. Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta xác tín: “Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Và hoa trái của phục vụ là bình an”. Nhờ đời sống cầu nguyện thâm sâu, mà biết bao nhiêu người Công Giáo ra khỏi ‘chăn ấm nệm êm’, rời khỏi ‘tiện nghi cuộc sống’, dám ra đi nhiệt thành làm việc bác ái, sống chia san với anh chị em khác. Như lời bộc bạch của Thánh Phao-lô với ông Ti-mô-thê: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin” (2Tm 4, 7). Thánh nhân can đảm sống trọn chặng hành trình cuộc đời đầy chông gai, thử thách; nhưng ngài vẫn một lòng cậy trông, tín thác vào Đức Giê-su Ki-tô - kim chỉ nam đời ngài.
Ước gì mỗi khi cầu nguyện, chúng ta thấm nhuần tâm tình tự khiêm tự hạ, thái độ khiêm nhường, mặc lấy tâm tình tạ ơn chân thành, để rồi lời khẩn cầu của chúng ta như hương trầm bay toả lên trước thiên nhan Chúa, và cũng nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta trở nên người phục vụ đầy nhiệt huyết.
Lời cầu khẩn con dâng
Tựa áng trầm hương bay
Lên trước thiên nhan Chúa
Lòng tràn đầy hoan hỷ
Kính tiến và tạ ơn.
Cho con lòng yêu mến
Dẫu bao phen trăm chiều
Đời nguyện cầu tha thiết
Sống bác ái thứ tha
Phục vụ và sẻ chia. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
==============
Suy niệm 4
XIN THƯƠNG XÓT CON
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe một câu rất quan trọng là “Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn” (Hc 35,12-14.16-18). Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương những người bé nhỏ khiêm nhu, đặc biệt những người bị xã hội coi khinh và loại trừ. Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài cũng đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5).
Hôm nay khi nói về sự kiêu ngạo và khiêm nhường, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn thật sống động về hai người lên đền thờ cầu nguyện.Một người thuộc nhóm Pharisêu được coi là công chính, còn người kia làm nghề thu thuế bị coi là kẻ tội lỗi. Người Pharisêu đứng thẳng cầu nguyện rằng:“Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Sau khi trình bày cho Chúa thấy đời sống tốt lành của mình, ông còn cho Chúa thấy sự đạo đức của mình:“Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.Lời cầu nguyện của ông xem ra hết sức chân thành, một lời nguyện thật đẹp từ một đời sống quá đẹp. Hiếm ai có được đời sống thiện hảo như ông.
Thế nhưng Đức Giêsu lại đưa ra một kết luận khiến những người nghe và cả chúng ta cũng chưng hửng, vì ông ra về mà không còn công chính.Đang khi đó người thu thuế nhìn nhận hết những tội lỗi của mình thì lại nên công chính. Tại sao lại có sự nghịch lý như vậy?
Ngay từ đầu bài Tin Mừng này, thánh Luca đã nói rõ là Đức Giêsu kể dụ ngôn này nhằm vào một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác. Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang công trạng và thành tích của mình. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông "tạ ơn Chúa" nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông. Bảng liệt kê công đức của ông không có gì sai, ông thật là người đáng khen, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương trong đời sống đạo.
Chỉ tiếc là người Pharisêuđã tự nâng mìnhlên nên đã bị hạ xuống. Cái tôi của ông quá lớn đến nỗi ông chỉ hướng vềmình mà không còn hướng vềChúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy tài năng của mình mà không thấy ân ban; đức độ của ông quá caođến nỗi thấy người khác quá thấp. Sự sai lầm này khiến ông từ một người công chính trở thành kẻ bất chính.
Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này chỉ biết cúi đầu nhận tội lỗi mình và cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự chân thật và khiêm nhường khiến người thu thuế từ một kẻ bất chính trở thành người công chính.Quả thật, "Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh" (Yiddish).
Điều này cho ta thấy, điểm yếu nhất của con người là lòng kiêu hãnh. Không lạ gì mà sự thật bị bóp méo và những gì tốt lành cũng bị biến dạng. Chỉ có sự khiêm tốn và lòng kính trọng tha nhân mới tạo cho ta một đời sống chân chính. Ngoài ra, điều sai lầm trầm trọng của người Pharisêu khi cầu nguyện là chỉ qui hướng về mình, lấy mình làm trung tâm, thấy mình là quan trọng, đời sống ông quá đầy đặn đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa. Chúa chỉ còn là bình phong cho ông tô vẻ bản thân, và người khác chỉ là bệ chân để cho ông tỏa sáng.
Thật ra, tội lỗi hay công đứcđều có thể làm ta khép lại hay mở ra.Ðiều quan trọng là thấy mình luôn cần đến Chúa. Làm sao ta tận dụng mọi năng lực Chúa banmà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Chúng ta được nên công chính do lòng thương xót của Chúa chứ không phải do công lao hay đức độ của mình. Chúng ta có làm được điều gì tốt lành và hữu ích cho cuộc sống cũng là do ơn Chúa ban. Đang khi đó có biết bao việc gây buồn phiền và tai hại cho người mà nhiều khi ta đâu có thấy hết. Chỉ với những tâm tình đó, ta mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Xem ra con luôn dễ tự hào,
cũng do bản tính thích làm cao,
cho rằng chỉ mình là độc đáo,
nhưng rồi thực tế chẳng ra sao.
Cũng giống như người Pha-ri-sêu,
cứ tưởng mình là người đạo đức,
khi làm được một ít việc lành,
chưa gì mà đem ra so sánh,
thấy mình tốt hơn người bên cạnh,
thế là lên mặt để khinh chê.
Có thể anh ta là người tốt,
nhưng vì kiêu căng và ngạo mạn,
nên bao công đức cũng tiêu tan,
cuối cùng lại còn mang thêm tội.
Con có làm được điều gì đó,
cũng chỉ là nhờ ơn Chúa thôi,
giống như dụng cụ trong tay chủ,
chỉ vô dụng nếu không được dùng,
điều quan trọng là sống tín trung,
sống ung dung nhưng không tự mãn,
Con biết mình cát bụi mọn hèn,
thân con như sỏi đá ươn hèn,
nếu con có gì đáng tự hào,
thì niềm tự hào là chính Chúa,
Đấng đã khai mở cuộc đời con,
và làm triển nở cho nên trọn.
Cho con canh tân lại chính mình,
bớt đi những thói xấu hư hèn,
giảm đi những điều gây hư hại,
loại trừ những thứ khiến hư thân,
một đời luôn sốt sắng chuyên cần,
hết lòng yêu Chúa và tha nhân. Amen.
Lm. Thái Nguyên
==============
Suy niệm 5
LỜI CẦU KHIÊM HẠ TRƯỚC THIÊN NHAN
Thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Như chúng ta vừa cùng nhau đọc lại Thánh Vịnh 33 trong phần Đáp Ca “Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe” (Tv 33, 7a) cho chúng ta hình dung đôi nét về Thiên Chúa nhân hậu, hằng yêu thương, lắng nghe lời cầu xin của con cái Ngài.
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm, qua dụ ngôn cụ thể: hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện, và Chúa Giê-su đã quả quyết rõ ràng: “Ta bảo các ngươi: người này (người thu thuế tội lỗi) ra về được khỏi tội, còn người kia (người biệt phái tự hào tự cho mình công chính) thì không” (x. Lc 18, 14). Câu nói của Chúa Giê-su khiến chúng ta phải suy nghĩ con người của mỗi chúng ta, cũng như nhìn lại thái độ của chúng ta khi chuyện trò, thưa chuyện, nài nỉ, cầu khẩn, cầu nguyện với Chúa, hay trong mối tương quan.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau xác tín lại: Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết rõ tường tận cuộc đời, nguyện vọng, ưu tư, hoạch định và kể cả những gì chúng ta muốn cầu xin Ngài. Hơn nữa, khi cầu nguyện, chẳng phải chỉ có chúng ta là người nói, mà Thiên Chúa cũng muốn thỏ thẻ, hàn thuyên, chuyện trò, tâm sự với chúng ta nữa. Và Thiên Chúa là Đấng hằng lắng nghe và đáp lại lời cầu khẩn của chúng ta như lời trích Sách Huấn Ca đã chỉ rõ rằng: “Thiên Chúa nhậm lời người áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van” (x. Hc 35, 13-14). Lẽ tất nhiên Ngài thương lắng nghe, đoái nhìn hết tất cả mọi người, đặc biệt là những người cô thế cô thân, không chốn tựa nương, bị ruồng bỏ, bị gạt ra bên lề xã hội, những kẻ chẳng được ai đoái hoài, thương đến, v.v…
Dựa trên những điều xác tín trên, chúng ta cần có tâm tư, thái độ, cử chỉ thế nào cho phải đạo? Điều đầu tiên, chúng ta có thể nhận ra được là đừng tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9) khi cầu nguyện cũng như trong đời sống, trong mối tương quan với Chúa cũng như với tha nhân. Chúa Giê-su nói rõ điều đó khi Ngài dùng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Con người chúng ta thường có khuynh hướng tự tôn và khinh chê hay xem thường người khác, đặc biệt khi chúng ta có chút tài năng, vinh hoa, chức sắc, quyền lực, thành công, thành quả, v.v…và tệ hại hơn, chiều hướng này không chừa một ai trong bất cứ trạng huống nào, kể cả khi đặt bản thân mình trước Chúa, nghĩa là khi cầu nguyện. Như đoạn Phúc Âm thuật lại, cả hai: người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ cầu nguyện, cả hai đều làm việc phúc lành, đặt mình trước Chúa và chuyện trò, hàn thuyên, tâm sự, khẩn cầu với Ngài, nhưng thái độ của hai ông khác nhau hoàn toàn. Chẳng phải vì hai ông khác biệt về danh giá, chức tước, địa vị, tiền của, sự thành đạt hay được vị nể, v.v…mà lời đáp trả lại trái ngược nhau như vậy! Chính bởi lẽ vì thái độ, tâm tình của hai ông khác nhau khi cầu nguyện, khi làm việc lành phúc đức, cho nên được đáp trả hoàn toàn khác biệt. Thật sự, lắm lúc chúng ta chẳng muốn rơi vào thái độ tự mãn, tự kiêu, kể lễ, phô trương, so sánh để rồi vô hình dung chê bai người khác như người biệt phái trong dụ ngôn, mà ước muốn có tâm tình tự thú, khiêm hạ, nhìn nhận con người yếu hèn, cần đến lòng thương xót, tha thứ của Thiên Chúa như người thu thuế được đề cập trong Tin Mừng hôm nay. Ước muốn là một chuyện, thực hành lại là một chuyện khác. Có lẽ vô vàn lí do, lời biện giải cho thái độ, hành vi ấy, nhưng thiết nghĩ chúng ta chưa đủ khiêm tốn trước Chúa và anh chị em “…người biệt phái đứng thẳng, thầm nguyện rằng: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác…” (x. Lc 18, 11)! Chúng ta không chịu xét mình trước khi vội vàng xét đoán anh chị em “…tôi không như người khác: tham lam, bất công, ngoại tình; hay là như tên thu thuế kia…” (x. Lc 18, 11) hoặc chúng ta lấy những thành tích, thành tựu, thành quả, công trạng của mình làm tiêu chuẩn đánh giá người khác “…vì tôi không giống như bao kẻ khác…tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng cho Chúa một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi” (x. Lc 18, 12-13). Cho dù chúng ta có thực hiện được những công trạng lớn lao chăng nữa, thì tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa mà thôi, như Thánh Phao-lô quả quyết trong thư nhắn nhủ ông Ti-mô-thê “…Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các dân ngoại được nghe” (x. 2Tm 4, 17). Chính vì thế, tâm tình khiêm hạ, thú nhận thật sự con người của mình yếu đuối, khiếm khuyết, cần được cảm thông, đỡ nâng là tối cần thiết trong mọi hoàn cảnh sống như trong cộng đoàn, gia đình, giáo xứ, mối tương quan giữa vợ chồng, con cái, giữa anh chị em với nhau, với những người chung quanh, công sở, trường học, và nhất là đối với Thiên Chúa, vì “ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên” ( Lc 18, 14) Hơn nữa, thái độ khiêm nhường, hành vi khiêm tốn, cử chỉ khiêm nhu đích thực luôn được biểu lộ sống động và tự nhiên, chứ không bị khiên cưỡng hay giả vờ; và người sống khiêm hạ luôn biết giới hạn, cũng như sở trường sở đoản của bản thân, thể hiện đúng lúc, đúng chỗ vì chưng khiêm tốn không thật, không đúng thì sẽ trở nên tự cao.
Điều sau cùng là thái độ khiêm nhu, nhìn nhận mình yếu đuối trước mặt Chúa và anh chị em, sẽ giúp chúng ta bình an, thân thiện, sống thật với bản thân; và trong đời sống hằng ngày, chúng ta ước mong tha thiết mời Chúa đến sống trong ta, để lời Ngài thánh hoá, biến đổi chúng ta. Bởi lẽ, lắm lúc chúng ta không ý thức được việc mình làm, chúng ta muốn Chúa phải lắng nghe, thực hiện những gì chúng ta cầu xin, dám mong Chúa thay đổi theo ý riêng mình, nhưng quên rằng: hãy để ý Chúa được thực hiện và chính Người sẽ chuyển lay tâm hồn, biến đổi chúng ta trở nên hoàn thiện hơn trong mọi phương diện. Dù chỉ một lời đơn sơ, ngắn ngủi nhưng chất chứa cả tấm lòng, tâm tư mà người thu thuế được hoán cải “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội,…người này ra về được nên công chính…” (x. Lc 18, 13-14).
Giờ đây chúng ta cùng nhau quy hướng về Chúa và thầm nguyện cầu:
Lạy Chúa nhân hậu, xót thương
Chẳng hề chê bỏ, khinh thường, rời xa.
Mãi luôn hiền từ thiết tha,
Chờ con quay gót, bao la tình Người.
Chẳng ai mười phân vẹn mười,
Con nay tạ tội, xin Người thứ tha.
Lời ca khiêm hạ ngân nga,
Nép mình bên Chúa, vang xa cõi lòng. Amen.
Lm. Xuân Hy Vọng