Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
28 Khi ấy, Đức Giê-su dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giê-ru-sa-lem. 29 Khi đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: 30 “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. 31 Nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh cởi lừa người ta ra’, thì cứ nói: ‘Chúa có việc cần dùng !’ 32 Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. 33 Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông: “Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra ?” 34 Hai ông đáp: “Chúa có việc cần dùng.”
35 Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên. 36 Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. 37Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. 38 Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !
39 Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ !” 40 Người đáp: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên !”
Tin Mừng: Lc 22,14 – 23,56
Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
✠Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
22 14 nk Khi đến giờ ăn tiệc Vượt Qua, Đức Giê-su vào bàn với các Tông Đồ. 15 Người nói với các ông: ✠ “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.”
17 nk Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: ✠ “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
19 nk Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ✠ “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20 nk Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ✠ “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.
21 ✠ “Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. 22 Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” 23 nk Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.
24 nk Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. 25 Đức Giê-su bảo các ông: ✠ “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. 26 Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27 Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
28 ✠ “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. 29 Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, 30 để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.”
31 nk Rồi Chúa nói: ✠ “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33 nk Ông Phê-rô thưa với Người: m “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34 nk Đức Giê-su lại nói: ✠ “Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy.”
35 nk Rồi Người nói với các ông: ✠ “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không ?” nk Các ông đáp: m “Thưa không.” 36 nk Người bảo các ông: ✠ “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy ; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. 37 Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất.” 38 nk Các ông nói: m “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.” nk Người bảo họ: ✠ “Đủ rồi !”
39 nk Sau đó, Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. 40 Đến nơi, Người bảo các ông: ✠ “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.”
41 nk Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng: 42 ✠ “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha.” 43 nk Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. 44 Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.
45 nk Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền, 46 Người liền nói với các ông: ✠ “Sao anh em lại ngủ ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”
47 nk Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. 48 Đức Giê-su bảo hắn: ✠ “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao ?” 49 nk Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: m “Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không ?” 50 nk Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51 Nhưng Đức Giê-su lên tiếng: ✠ “Thôi, ngừng lại.” nk Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.
52 nk Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: ✠ “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến ? 53 Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm.”
54 nk Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. 55 Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56 Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: m “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy !” 57 nk Ông liền chối: m “Tôi có biết ông ấy đâu, chị !” 58 nk Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: m “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng !” nk Nhưng ông Phê-rô đáp lại: m “Này anh, không phải đâu !” 59 nk Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: m“Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê.” 60 nk Nhưng ông Phê-rô trả lời: m “Này anh, tôi không biết anh nói gì !” nk Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62 Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
63 nk Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64 Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: m “Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó ?” 65 nk Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
66 nk Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng 67và hỏi: m “Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết !” nk Người đáp: ✠ “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin ; 68 tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. 69 Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.” 70 nkMọi người liền nói: m “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao ?” nkNgười đáp: ✠ “Đúng như các ông nói, chính tôi đây.” 71 nk Họ liền nói: m “Chúng ta cần gì lời chứng nữa ? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói !”
23 1 nk Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô.
2 nk Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: m “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa.” 3 nk Ông Phi-la-tô hỏi Người: m “Ông là Vua dân Do-thái sao ?” nk Người trả lời: ✠ “Chính ngài nói đó.” 4 nk Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông: m “Ta xét thấy người này không có tội gì.” 5 nk Nhưng họ cứ khăng khăng nói: m“Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” 6 nk Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7 Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.
8 nk Vua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. 9 Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. 10 Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11 Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. 12 Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
13 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại 14 mà nói: m “Các người nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo. 15 Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các người thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. 16 Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” [17 nk Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù.] 18 Nhưng tất cả mọi người đều la ó: dc “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi !” 19 nk Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. 20 Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21Nhưng họ cứ một mực la lớn: dc “Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập giá !” 22 nk Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: m “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác ? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 23 nk Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.
24 nk Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
26 nk Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. 27 Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. 28 Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: ✠ “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. 29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: ‘Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm !’ 30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi !, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi ! 31 Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao ?” 32 nk Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
33 nk Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: ✠ “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” nk Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.
35 nk Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: m “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !” 36 nk Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói: m “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi !” 38 nk Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do-thái.”
39 nk Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: m “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” 40 nk Nhưng tên kia mắng nó: m “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” 42 nk Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: m “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” 43 nk Và Người nói với anh ta: ✠ “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
44 nk Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. 46Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ✠ “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” nk Nói xong, Người tắt thở.
(quỳ gối thinh lặng trong giây lát)
47 nk Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: m “Người này đích thực là người công chính !” 48 nk Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.
49 nk Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê ; các bà đã chứng kiến những việc ấy.
50 nk Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. 51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52 Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53 Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng.
55 nk Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.
56 nk Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
==========
Suy niệm 1: TỰ HẠ VÂNG LỜI
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần vinh quang phục sinh với Người.
Đón nhận bài học Thương Khó, để được thông phần vinh quang phục sinh, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Đức Kitô dâng hiến lễ một lần, nhưng vĩnh viễn làm cho ta nên hoàn hảo. Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể; Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội; Máu bò, máu dê không tẩy xóa được tội lỗi, chính vì thế, Đức Kitô khi vào trần gian, Người nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.
Đón nhận bài học Thương Khó, để cùng chiến thắng với Đấng chiến thắng, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta nói về: Chúc tụng Vua Ítraen, Đấng ngự đến nhân danh Chúa… Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, dân liền đi đón. Đông đảo quần chúng trải áo xuống mặt đường; một số khác, tay chặt nhành lá mà rải lên lối đi, miệng cất tiếng reo hò: Hoan hô Thái Tử nhà Đavít! Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa!
Đón nhận bài học Thương Khó, để biết tự khiêm, tự hạ vâng phục thánh ý Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Isaia: Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ, tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào! Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cho thấy: Đức Kitô đã tự khiêm tự hạ, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Kitô đã tự nguyện bước vào Cuộc Thương Khó, để hoàn thành mầu nhiệm cứu độ chúng ta. Đấng từ trời xuống vì chúng ta, đã đến và tự nguyện lên Giêrusalem để đưa chúng ta đang ở chỗ thấp hèn lên địa vị cao cả. Người hiền lành và khiêm nhường, ăn mặc đơn sơ và tiến vào Giêrusalem với dáng vẻ tầm thường. Chúng ta hãy lấy chính mình mà trải đường đón Đức Kitô, chứ đừng lấy áo choàng hay cành lá vô tri vô giác, hoặc những tấm thảm bằng cây cỏ trông vui mắt trong giây lát, rồi héo tàn, trở thành thức ăn cho súc vật. Chúng ta đã mặc lấy ân sủng của Người, nghĩa là chính Người, vì bất cứ ai được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô đều mặc lấy Đức Kitô. Chúng ta hãy mang những phần thưởng chiến thắng mà dâng lên Đấng chiến thắng sự chết, hãy phất những cành lá đầy tràn sức sống của tâm hồn, mà cất tiếng tung hô: Chúc tụng Vua Ítraen, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Ước gì chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần vinh quang phục sinh với Người. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
==========
Suy niệm 2: Niềm vui và Khổ đau
Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ. Với Tuần Thánh, Giáo hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su. Vì thế, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giê-su trên hành trình tiến lên đồi Can-vê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giê-su hầu mang lại sự sống cho con người.
Đám đông tràn ngập niềm vui
Tin Mừng mô tả, Chúa Giê-su và một số môn đệ của Người đã thực hiện chuyến đi chừng hai dặm từ Bê-ta-ni-a đến ngoài thành Giê-ru-sa-lem cùng với đám đông dân Do Thái cử hành lễ Vượt Qua theo đúng quy định được ghi trong sách Xuất hành và sách Đệ Nhị luật (x. Xh 12,1–13,6; Đnl 16,1-8).
Theo phong tục, những người hành hương đến trước sẽ ra để chào đón những nhóm đến sau; có một số người chưa từng gặp Chúa Giê-su nhưng nghe biết về các phép lạ Người thực hiện đều tiến ra chào đón Người tạo thành đám đông lớn như Tin mừng Gio-an giải thích: “Khi đám đông dân chúng… nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, họ cầm nhành cọ ra đón Ngài và reo hò: ‘Hosanna! Hoan hô Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!’”(Ga 12,12-13). Những người Pha-ri-sêu có mặt ở đó thấy vậy liền nói với Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, xin hãy quở trách các môn đệ của Thầy”. Người đáp, “Ta nói với các ngươi, nếu họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên” (x. Lc 19,39-40).
Khổ đau bao trùm
Dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, tràn ngập niềm vui. Sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá ập tới, những lời của Tiên tri I-sai-a, bài tường thuật của thánh sử Lu-ca, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết đau thương của Chúa Giê-su. I-sai-a mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giê-su trên thập giá (Lc 23,44-45).
Niềm vui và đau khổ được liên kết trong ngày này, ngày Chúa nhật bắt đầu Tuần Thánh. Đây là thời gian của sự thất vọng, bối rối và mâu thuẫn. Chính đoàn dân từng hân hoan chào đón Đức Ki-tô tiến vào Giê-ru-sa-lem sáng hôm ấy, cất vang “Hosanna” cùng những lời sùng bái, nội trong một tuần, vẫn là họ, lại kêu gào “đóng đinh nó vào thập giá”. Họ sẽ đi từ chỗ tán dương Chúa Giê-su như Thái Tử nhà Đa-vít, vua Ít-ra-en đến việc đem mạng sống Người ra đổi với một tên tội phạm đã bị kết án tên là Ba-ra-ba; chính họ sẽ ca ngợi Chúa trước và rồi sau đó lại chính những người ấy nhạo báng Người. Ngay cả những người thân hữu cùng tiến vào Giê-ru-sa-lem bên cạnh Đức Giê-su cũng sẽ rời bỏ Người.
Thánh Bernard xứ Clairvaux (1090-1153) mô tả việc Chúa Ki-tô tiến vào Giê-ru-sa-lem: “Thật khác biệt biết bao những tiếng hô ‘Đem đi, đem nó đi, đóng đinh nó vào thập giá’ với ‘Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!’. Thật khác biệt biết bao những tiếng hô lúc này gọi Người là ‘Vua Ít-ra-en’ và rồi thời điểm sau đó vài ngày lại bảo rằng ‘Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Caesar!’. Thật tương phản giữa nhành lá xanh tươi và thập giá, giữa vòng hoa và mão gai! Trước đó, họ trải áo mình ra để Người bước đi, rồi rất nhanh sau đó họ lại lột áo Người và đem ra bốc thăm”.
Thánh Phao-lô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giê-su, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Sống Tuần Thánh
Nhìn vào Chúa Giê-su trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giê-su, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống. Toàn bộ những nét đối nghịch này sẽ xảy ra trong vòng một tuần bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giê-su. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chịu chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giê-su, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
==========
Suy niệm 3: ĐƯỜNG THẬP GIÁ-ĐƯỜNG HY VỌNG
Kính thưa cộng đoàn,
Trong Năm Thánh này, khi mỗi bước chân trên hành trình đức tin hướng về nguồn mạch cứu độ, tâm trí chúng ta không thể không dừng lại chiêm nghiệm con đường đặc biệt mà Đức Giêsu Kitô đã đi qua. Đó không chỉ là một trình thuật lịch sử về những đau khổ tột cùng, mà còn là một bản giao hưởng thiêng liêng, vang vọng những nốt trầm hùng của sự vâng phục, những giai điệu bi tráng của hy sinh, và cuối cùng, khúc ca khải hoàn của ơn cứu độ. Con đường ấy, khởi đầu bằng sự kiện Ngài tiến vào Giêrusalem, hé lộ những nghịch lý sâu sắc, những "điều lạ" soi chiếu vào tận cùng trái tim chúng ta, khơi gợi những bài học thiết yếu cho hành trình hy vọng của cộng đoàn hôm nay.
Bước chân của Đức Giêsu vào thành thánh trên lưng một con lừa, một hình ảnh đầy tính biểu tượng, không phải là một cuộc diễu binh của quyền lực thế gian, mà là sự tự nguyện hạ mình của Đấng Thiên Sai. Con lừa, một phương tiện của sự phục vụ và khiêm nhường, đã trở thành "ngai vàng" cho vị Vua Tình Yêu. Lời Ngài: "Chúa có việc cần dùng" (Lc 19,34), một câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng quyền năng và sự tự do tuyệt đối, cho thấy một sự thật căn bản, ấy là: mọi sự đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và ngay cả những điều tầm thường nhất cũng có thể trở thành khí cụ cho vinh quang của Ngài. Hành động này, xét trong bối cảnh những ngày thương khó sắp tới, cho thấy Đức Giêsu không phải là một nạn nhân thụ động, mà là chủ thể của tình yêu tự hiến, chủ động bước vào con đường đau khổ vì lòng thương xót vô bờ bến dành cho nhân loại.
Sự tương phản giữa tiếng reo hò tung hô của đám đông và sự nhíu mày khó chịu của những người Pharisêu hé lộ một bi kịch muôn thuở, đó là: sự mù quáng trước sự thật và lòng chai đá trước tình yêu. Lời Đức Giêsu phán: "Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!" (Lc 19,40) không chỉ là một lời khẳng định về sự hiển nhiên của chân lý, mà còn là một lời cảnh báo về sự nguy hiểm của việc khép lòng trước những dấu chỉ của Thiên Chúa. Trong thế giới đầy những ồn ào và dối trá hôm nay, người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe tiếng nói đích thực, tiếng nói của tình yêu và sự thật, dù nó có thể không được số đông chấp nhận.
Đỉnh điểm của sự thấu hiểu về con đường của Đức Giêsu, và có lẽ là điều chạm đến sâu thẳm tâm can nhất, chính là giọt nước mắt mà Ngài đã tuôn rơi khi nhìn về Giêrusalem. Không chỉ là nỗi buồn trước những đau khổ Ngài sắp phải gánh chịu, mà đó còn là nỗi xót xa cho sự mù quáng của một thành phố đã không nhận ra thời điểm ân sủng, thời điểm Thiên Chúa viếng thăm. Lời than thở: "Phải chi ngày hôm nay ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!" (Lc 19,42) vang vọng như một lời tiên tri buồn bã, nhưng đồng thời cũng là một lời mời gọi tha thiết đến sự tỉnh thức của chúng ta hôm nay!
Lời than thở ấy, hơn bao giờ hết, mang một âm hưởng thời đại sâu sắc khi chúng ta chứng kiến những đổ vỡ và khổ đau trong thế giới những ngày qua. Sau những cuộc chiến đẫm máu, thảm khốc và nhất là qua trận động đất kinh hoàng ở Myanmar, biết bao gia đình đã mất đi người thân, nhà cửa, và cả niềm hy vọng. Nhưng nỗi đau không chỉ dừng lại ở những thảm họa lớn lao ấy, nhưng nó còn hiện hữu ngay trong những vết thương âm thầm của đời sống thường nhật, như: sự phản bội trong hôn nhân, sự rạn nứt trong gia đình, sự cô đơn giữa những mối quan hệ hời hợt, gánh nặng bệnh tật và nghèo đói, cảm giác bị bỏ rơi và chìm trong tuyệt vọng. Những"Giêrusalem" của riêng mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Trong những khoảnh khắc đen tối ấy, câu hỏi "Thiên Chúa ở đâu?", “nếu có Thiên Chúa thật, liệu Ngài có còn xót thương nhân loại nữa không?”, “Ngài có còn nghe thấu nỗi đau tột cùng của những nạn nhân đau khổ đang ngày đêm kêu thấu đến tận trời cao hay không?”! Những lời ai thán đó có lẽ vang lên như một tiếng nấc nghẹn ngào trong lòng những nạn nhân đau khổ và trong lòng mỗi chúng ta. Nhưng chính trong những vực sâu của khổ đau, cộng đoàn được mời gọi nhìn lại con đường mà Đức Giêsu đã đi qua. Ngài đã không né tránh khổ đau, Ngài đã không chọn một lối thoát dễ dàng. Ngài đã chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha đến cùng, mang lấy mọi gánh nặng của tội lỗi và khổ đau nhân loại trên vai. Chính trên con đường vâng phục tuyệt đối ấy, tình yêu và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đã được tỏ lộ một cách trọn vẹn nhất, khai mở nguồn hy vọng và ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Con đường thập giá, con đường của sự từ bỏ và hy sinh tột độ, không phải là một ngõ cụt của tuyệt vọng, mà là một hành trình dẫn đến vinh quang phục sinh. Sự vâng phục của Đức Giêsu, ngay cả khi phải đối diện với cái chết, đã phá tan xiềng xích của tội lỗi và mở ra cánh cửa của sự sống vĩnh cửu. Chính trong sự vâng phục ấy, chúng ta tìm thấy sức mạnh để đối diện với những "Giêrusalem" đang sụp đổ trong cuộc đời mình, để không đánh mất niềm tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lời than thở của Đức Giêsu không chỉ là một lời ai oán cho một thành phố vật chất, mà còn là lời cảnh tỉnh cho mỗi tâm hồn trong cộng đoàn. Chúng ta có nhận ra "thời điểm Thiên Chúa viếng thăm" trong những biến cố của cuộc đời mình không? Mỗi người có mở lòng đón nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa giữa những khổ đau và mất mát không? Chỉ khi nhận ra và tin tưởng vào tình yêu ấy, chúng ta mới có thể tìm thấy bình an đích thực, một bình an không đến từ sự vắng bóng của khổ đau, mà đến từ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa những thử thách.
Trong Năm Thánh này, hành trình hy vọng của mỗi người được định hình bởi chính con đường vâng phục của Đức Giêsu. Chúng ta được mời gọi học lấy sự khiêm nhường, sự phục vụ, sự lắng nghe và lòng trắc ẩn của Ngài. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang chìm trong khổ đau, cho những "Giêrusalem" đang sụp đổ trên khắp thế giới, để họ nhận ra rằng, ngay trong bóng tối, ánh sáng của hy vọng vẫn luôn chiếu soi qua con đường thập giá dẫn đến phục sinh. Và trên hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người có trách nhiệm trong các xã hội trần thế, biết nhạy bén và nhận ra những dấu chỉ thời đại, qua đó, biết quy phục Thiên Chúa và hành động theo tiếng lương tâm mách bảo, ngõ hầu mang lại cho con người được hạnh phúc và bình an.
Cuối cùng, chúng ta hãy để cho tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành những vết thương trong tâm hồn mình, để mỗi người có thể trở thành những người hành hương đích thực của hy vọng, mang bình an và niềm tin đến cho những người xung quanh. Amen
Jos. Vinc. Ngọc Biển
==========
Suy niệm 4: LỄ LÁ TRONG ĐỜI TÔI
Lời Thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Phi-lip-phê, mà chúng ta vừa xướng lên trước bài Thương Khó theo Thánh Sử Lu-ca “Chúa Ki-tô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá…” (x. Pl 2, 8-9), nhắc nhở mỗi người chúng ta ngày càng tháp nhập sâu sắc hơn vào Cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su. Trong Chúa Nhật lễ Lá hay Chúa Nhật Lễ Thương Khó hôm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta tham dự vào Cuộc Tử Nạn của Chúa như những nhân vật đáng được chú ý, cụ thể bà thánh Vê-rô-ni-ca gan dạ dám lấy khăn của mình mà lau mặt cho Đức Giê-su trong khi đám đông xô đẩy nhau, chen chút nhưng dường như vô tâm trước sự thương khó tột cùng của Con Một Thiên Chúa; cũng như ông Si-mon thành Si-rê-nê, tuy không phải người Do Thái, chỉ là khách vãn lai qua đường, nhưng biết đồng cảm, chung tay vác đỡ thập giá Đức Giê-su đang trên đường tiến lên núi Cal-va-ri-ô, và rất nhiều nhân vật khác.
Thông thường, cứ mỗi năm khi cử hành Lễ lá, chúng ta hồi tưởng lại những giây phút được cầm lá vạn tuế hoặc chiếc lá dừa được tết thành hình đẹp đẽ lắc lư, đung đưa, vẫy chào tung hô tiến vào nhà thờ, và đến khi nghe bài Tin Mừng thì than ôi, than vắn than dài…, nhưng điều chính yếu cốt lõi của thánh lễ tưởng niệm Chúa Giê-su được nghênh đón vào thành Giê-ru-sa-lem là gì, và thánh lễ hôm nay ảnh hưởng, chi phối đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta như thế nào thì chúng ta lại ít để tâm!!!
Vì vậy, giờ đây chúng ta cùng nhau ngụp lặn sâu vào Phụng Vụ hôm nay. Các bài đọc chúng ta vừa được nghe, hướng ta đến sự vâng phục hoàn hảo, sự vâng phục tuyệt đỉnh, sự vâng phục ‘biến mình ra không’ (x. Pl 2, 6-11), một sự vâng phục mang lại ơn cứu độ cho chúng ta là những kẻ đáng phải chết vì sự bất tuân, bất tín, bất trung, v.v… trong đời sống đức tin, trong mối tương quan với Chúa, với anh chị em, bản thân và với môi sinh. Sự vâng phục dù phải lãnh án tử, chết nhục nhã, tất tưởi trên thập giá vì nhân loại được ngôn sứ I-sai-ah loan báo trong bài ca Tôi Trung thứ ba (bài đọc I): “Tôi đã đưa lưng cho người giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Ðức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50, 6-7). Là Con Thiên Chúa làm người, Đức Giê-su Ki-tô đã mặc lấy tận cùng nỗi khổ cực của kiếp con người, Ngài đến trần gian này không phải để giải thích vì sao con người chịu khổ đau, khốn cực, mà chính Ngài đã mang lấy, gánh lấy, mặc lấy cùng tận nỗi khổ nhục của nhân loại.
Hơn thế nữa, Lời Chúa soi sáng giúp chúng ta nhân ra sự khiêm nhường vô biên sâu thẳm của Đức Giê-su “Vốn dĩ là Thiên Chúa,…nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (X. Pl 2, 6-8). Một A-đam mới khiêm nhu, hạ mình mang lại sự sống vĩnh cửu, thay thế cho A-đam cũ cao ngạo, ngỗ nghịch, tội lỗi. Thánh Pi-ô từng nói: “Ma quỷ khiếp sợ và run rẩy trước những linh hồn khiêm tốn”. Thật vậy, con đường khiêm nhượng, quên mình, biến mình ra không, con đường hạ mình của Chúa Giê-su cũng chính là lời mời gọi chúng ta mỗi khi được lắng nghe bài Thương Khó. Một lần nữa, chúng ta cùng dành ít phút ngắn ngủi đọc lại, và đặt mình vào những nhân vật trong bài Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca. Kế tiếp, chúng ta đặt mình suy gẫm theo một số câu gợi ý dưới đây:
- Mỗi năm, tâm tình cử hành hay tham dự Lễ Lá của tôi ra sao? Có gì thay đổi hay chăng, hay chỉ vỏn vẹn là một thói quen không hơn không kém?
- Tôi có để cuộc Thương Khó Chúa Ki-tô hiện diện trong lối suy nghĩ, cung cách sống, mối tương quan của tôi hay không; hay nói cách khác, tôi có sống Mầu nhiệm Thương Khó-Phục Sinh của Đức Ki-tô trong đời sống thường nhật bằng việc chết đi những thói hư, tật xấu, và sống tốt, sống dồi dào cho Chúa và anh chị em?
- Đặt bản thân vào bối cảnh bài Thương Khó, nếu tôi hiện diện lúc ấy thì tôi thuộc thành phần nào? Tôi có dám tuyên xưng Chúa Giê-su là Thiên Chúa của tôi chăng?
- Trong đời sống hiện nay, nhiều người không muốn chịu đau khổ, xa lánh khổ đau, và có khi nguyền rủa mỗi khi đau khổ; còn tôi khi bị khổ đau, tôi có chạy đến với Chúa Giê-su đang chịu treo trên Thánh giá chết nhục nhã để cứu chuộc tôi?
Ước gì Lễ Lá năm nay là thánh lễ đặc biệt trong đời chúng ta. Xin Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa cải hoá, nuôi dưỡng chúng ta biết luôn trung tín, trung thành, luôn can đảm bước trên con đường mà chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đi:
Đường Thập Giá chông gai ngàn lối
Đường hy sinh giải thoát tăm tối
Đường cứu độ, thứ tha tội lỗi
Đường tín thác, cậy mến trong tôi.
Đường bỏ mình, ăn năn thống hối,
Đường khiêm hạ, bao dung tiếp nối,
Đường vinh quang Chúa tôi mở lối
Đường vâng phục, chịu chết vì tôi. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
==========
Suy niệm 5: Đường Tình Yêu
Mùa chay dần khép lại, hôm nay toàn thể Giáo hội bước vào Tuần Thánh. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật “hành trình đau khổ” đầy chông gai của Đức Giêsu, từ bữa tiệc sau hết, rồi Người bị bắt cho đến khi tắt thở trên thập giá. Đây là “đường trường đầy đau đớn khổ nhục cho đến chết”, nhưng là ĐƯỜNG TÌNH YÊU, Ngài đã nhẫn nhục chịu đựng trong vâng phục Chúa Cha để cứu độ con người tội lỗi.
Sau khi bị bắt, Người bị lôi hết tòa án này đến tòa án khác, bị tra hỏi, tạt vả. Trước tòa án Philatô, Ngài bị xử bất công, phải xử án chết oan nghiệt thay cho tên cướp Baraba, bởi sóng người hô hào đả đảo cùng các thượng tế nhà đạo. Tên cướp được tha bổng, còn Người vô tội thì phải chịu hành hình. Mấy năm trời bôn ba rao giảng cứu chữa, làm ơn cho đủ mọi hạng người, để đến hôm nay Thầy Giêsu phải tự vác Thập giá tủi nhục đớn đau, rồi bị căng thây đóng đinh vào đó mà treo lên cùng với hai tên trộm cướp.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng con nhìn lại bản thân mình. Con có thể là một trong số các môn đệ, khi Thầy giảng dạy như một Đấng có uy quyền thì hăng hái theo bước. Khi Thầy bị bắt bớ thì bỏ cuộc trốn chạy, chối từ như chưa bao giờ biết Thầy kẻo bị vạ lây. Con có thể là những người trong đám dân, khi vui thì sẵn sàng trải áo làm đường rước, hết lời tung hô ca ngợi, nhưng lúc khác lại hùa theo số đông mà trở lòng đả đảo chống đối, kết án xấu tha nhân... Nhưng có thể con cũng là một Simon Kyrênê sẵn lòng vác đỡ thập giá cho người khổ đau.
Đức Giêsu cam lòng chịu đựng tất cả vì tình yêu con người và vâng phục Ý Cha cho đến chết trên thập tự, đó là một minh chứng, tận cùng cho một tình yêu, yêu cho đến chết, mà chết cũng chỉ vì yêu. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 7-9). Bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá là lội ngược dòng đời, vác thập giá theo Chúa không phải dễ, nhưng có Chúa đồng hành và đỡ nâng, chúng con cũng từ thập giá bước vào vinh quang với Chúa.
Ôi Chúa Giêsu của lòng con Chúa ơi! Chiêm ngắm Chúa chịu căng thây trên thập giá, con nhận ra chẳng có tình yêu nào như tình Chúa yêu con. Chúa chết cho con sống muôn đời. Chúa chết vì yêu con. Vì con Chúa quên thân mình, đời con dám mơ gì hơn? Xin cho con tâm hồn chìm lắng trong cái chết của Chúa, để bao tội lỗi, đau khổ của con chìm xuống hòa nhập vào mầu nhiệm Thập giá, để Chúa ôm trọn lấy con trong tình yêu bao dung tha thứ. Xin cho con bước đi theo Chúa từng ngày trên CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU. Xin cho con được yêu mãi Người, Giêsu ơi!
Én Nhỏ
==========
Chúa Nhật Lễ Lá, năm C: Lc 19, 28-40
Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, các môn đệ đã công khai bày tỏ lòng tin tưởng và trung thành. Các ông lấy áo choàng phủ trên lưng lừa và đặt Ngài lên, còn dân chúng trải áo xuống đường đón rước Ngài đi qua. Cả đoàn môn đệ đều hô vang chúc tụng Ngài. Họ bạo dạn tôn vinh Thầy trước mặt những người biệt phái đang quyết liệt chống đối. Trước tình hình đó, những đối thủ xem ra tức tối, đòi Ngài quở trách các môn đệ, nhưng Ngài trả lời: "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên". Khi nói thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ của con người trước chân lý, nghĩa là không thể câm nín trước sự thật, trước những điều cao cả mà người ta cảm nhận từ chính trái tim mình.
Chúa Giêsu thường không muốn ồn ào, nhưng ở đây Ngài đã tán thành việc làm của các môn đệ, vì biến cố này biểu trưng một ý nghĩa sâu xa về sứ mạng của Ngài, và cũng đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Giacaria: “Nào thiếu nữ Xion…, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa...” (Dcr 9, 9). Các môn đệ có hiểu được ý nghĩa việc họ làm không? Hay chỉ là một cảm xúc bốc đồng, một phản ứng theo đám đông, mang tính cao trào trong phút chốc, nhưng sự chân thành của họ lại phù hợp với dự định của Thiên Chúa.
Chúng ta dễ làm chứng cho Chúa Giêsu trong cộng đoàn xứ đạo, vì nơi đây chẳng ai chống báng mình. Nhưng ít dám làm chứng cho Ngài nơi một môi trường khác biệt, và có khi còn thù nghịch với đạo giáo của mình. Trong hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh mà đức tin vẫn được tỏ bày, mới nói lên một sức sống mạnh mẽ của Chúa ở trong ta. Có nhiều trường hợp chúng ta không được im lặng mà phải nói lên: nói lên để bênh vực một người đang bị đối xử bất công, nói lên để khích lệ một người đang âm thầm đóng góp cho xã hội, nói lên sự thật để đầy lùi những lời dối trá… Là ánh sáng cho trần gian, ta phải làm chứng cho Chúa giữa chợ đời, vì: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta trên trời”.
Ađam đã đi tìm vinh quang bằng cách muốn được “ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhiều người cũng đã tìm vinh quang bằng cách khẳng định quá đáng về bản thân mình. Đức Giêsu không quy về mình, Ngài quy mọi sự về Thiên Chúa, nên Ngài sẵn sàng tự hạ, chọn con đường thấp nhất. Đó là con đường mà chẳng ai muốn chọn, vì là đường đau thương và tủi nhục, nhưng Ngài đã chọn vì là cách tỏ bày tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa đối với con người. Vì thế, Ngài không đến với quyền lực và binh mã hùng hậu để giương oai thống trị, nhưng Ngài đến trong cô đơn âm thầm để sống thân phận con người và hiến mạng vì con người, để làm giá chuộc cho nhiều người. Đó mới là con đường đưa đến vinh quang thật, không phải thứ vinh quang giả tạo được bao phủ bởi thanh thế hay lớp áo hào nhoáng bên ngoài.
Bước vào Tuần Thánh, chúng ta lại được nghe Bài Thương khó. Chúng ta thấy sự hèn nhát của các môn đệ; thấy lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do Thái; thấy sự tàn bạo của binh lính… Mọi tình tiết trong sự thương khó của Chúa Giêsu đều liên hệ với mỗi người chúng ta trong cuộc sống. Cần nhìn lại đời sống mình qua từng nhân vật trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Trong thinh lặng, chúng ta bước theo chân Ngài trong từng nỗi khổ nhục mà Ngài phải chịu vì lòng dạ bạc ác của con người chúng ta. Chúng ta vẫn còn hành hạ Ngài khi chúng ta tiếp tục đối xử bất công với nhau, khi chưa dám sống cho nhau, khi chưa dám nói lên tiếng nói của sự thật.
Dưới cái nhìn của thiên hạ, coi như Chúa Giêsu đã thất bại, nhưng sự thật lại là một chiến thắng: chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của tình yêu trên hận thù, của ánh sáng trên bóng tối, của sự sống trên sự chết. Trong cuộc thương khó, lòng Ngài chẳng có bức bách nào khác ngoài tình yêu: yêu Cha và yêu con người. Chính tình yêu Con Thiên Chúa làm cho đau khổ có một ý nghĩa nhiệm mầu và có một giá trị cứu chuộc. Vinh quang chính là tình yêu được tỏa sáng trong toàn thể đời sống của một con người. Đó cũng là dự định của Thiên Chúa trên cuộc đời của mỗi người chúng ta hôm nay và mãi mãi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Người ta bày ra mọi thứ vui chơi,
tránh khơi lên những buồn sầu thống khổ,
để đau thương không còn chỗ trong đời.
Nhưng chẳng ai thoát khỏi những khổ đau,
bởi thân phận con người là như thế,
và cuộc sống nhân trần như bến mê.
Nhưng khổ đau là một điều sâu nhiệm,
phúc cho ai nếu đã từng trải nghiệm,
nhìn khổ đau như thanh luyện chính mình.
Đau khổ có thể làm con giác ngộ,
khám phá ra con người và Thiên Chúa,
một con người mỏng manh và yếu đuối,
và Thiên Chúa là nguồn suối của tình yêu.
Chúa đã cứu chuộc con bằng đau khổ,
cho con thấy sức mạnh của tình yêu,
nên có thể gánh chịu muôn vàn nỗi,
để đánh đổi cho đời sống đẹp tươi.
Xin cho con đừng loại trừ đau khổ,
không tránh né để tìm chỗ yên thân,
nhưng giúp con luôn sẵn sàng tiếp nhận,
để đời con được thông phần với Chúa.
Con tin Chúa yêu con nhiều vô kể.
xin giúp con đón lấy mọi đau thương,
dám vượt trên những lối sống tầm thường,
về tới bến thiên đường con mong ước. Amen.
Noi gương Chúa Giêsu, kitô hữu chúng ta hãy chấp nhận những đau khổ. Nhưng không chỉ có thế, chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ ấy. Tình yêu làm cho đau khổ được thánh hóa. (FM)
6. Những đau khổ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn, với những bệnh nhân thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh giá.
Sau đó anh nhìn chung quanh mình và thấy cũng có một số người đang quỳ cầu nguyện trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó Bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an, có vẻ như Bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành Thánh giá của hy vọng, thân thể bì hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa và hòa giải… Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh thản.
Cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ, trong than xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (FM)