Thứ hai, 23/12/2024

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật II Phục Sinh năm A

Cập nhật lúc 11:12 13/04/2023
Suy niệm 1
Ga 20, 19 – 31
Đức Giêsu được mai táng trong hầm mộ của ông Giuse Arimathia vào xế chiều thứ sáu. Hừng đông Chúa nhật, đất rung chuyển, cửa mộ bằng đá bật tung. Đức Giêsu từ trong mộ đi ra.
Người đầu tiên được chứng kiến Chúa sống lại là lính gác mộ. Họ hốt hoảng chạy về báo tin cho thượng tế Caipha. Caipha quýnh quáng chẳng biết phải đối phó thế nào, ông đành lấy tiền đền thờ đút lót cho lính gác và dặn họ ra đường phố phổ biến tin bịa đặt như sau: “Đang đêm khi chúng tôi ngủ, thì đệ tử Giêsu đến ăn trộm xác đem giấu đi.” Tin bịa đặt một cách ngu xuẩn: lính gác mà ngủ; ngủ mà thấy người ta ăn trộm xác giấu đi; thấy người ta ăn trộm xác mà không chống đối? Phi lý vô cùng!
Sáng sớm Chúa nhật Phục Sinh Chúa có hiện ra với các bà phụ nữ trên đường đi thăm mộ về. Sau đó Chúa hiện ra với bà Maria Mácđala đang ngồi khóc tuyệt vọng bên cửa mộ.
Tối hôm đó Chúa hiện ra với tập thể tông đồ, nhưng vắng mặt một người là ông Tôma. Một điều khó hiểu và khó chấp nhận đó là Tôma vô tâm vô tình. Trong hoàn cảnh cực kỳ đau buồn như thế, thì anh em phải có mặt bên nhau, để an ủi nhau. Vậy mà Tôma nỡ tâm vắng mặt. Đi đâu? Không có quyền đi bất cứ nơi đâu trong hoàn cảnh cực kỳ đau khổ ấy. Tình huynh đệ tan biến thành mây khói.
Khi thấy tình hình tạm êm, Tôma trở về và được mọi người kể lại chuyện Chúa đã hiện ra. Mọi người ấy có mười tông đồ, trong đó có Gioan là người đầu tiên tin Chúa sống lại, vì ông được thấy khăn liệm của Chúa được xếp lại gọn ghẽ đúng như tập quán của Chúa. Mọi người ấy còn là các bà phụ nữ, trong đó có bà Gioanna, vợ của ông Khugia, quản lý của vua Hêrôđê. Những người có uy tín như thế kể lại chuyện họ đã thấy Chúa, cùng ăn bánh mì kẹp cá nướng với Chúa. Vậy mà Tôma cứ cãi bay, không nể mặt ai hết. Ông tuyên bố như người lớn trước mặt trẻ con: “Chừng nào ngón tay này rờ được vào vết đinh ở tay chân Thầy; chừng nào bàn tay này thọc được vào cạnh sườn của Thầy, thì thằng này mới tin.” Ngang như cua và hơn cua!
Tối Chúa nhật sau đó, Chúa lại hiện ra với tập thể, trong đó có Tôma. Chúa nhìn thẳng vào mặt Tôma và bảo ông hãy rờ tay vào các vết đinh và vết đòng ở cạnh sườn Ngài. Chừng đó Tôma mới quỳ mọp xuống mà tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” Sau đó Chúa cho Tôma và mọi người một bài học: “Phúc cho người không thấy mà tin.”
Câu nói này làm cho nhiều người ngỡ ngàng và không cảm phục. Họ cho rằng phải thấy mới tin. Thế mới khôn. Còn chưa thấy mà tin là thiếu thận trọng, dễ bị lừa.
Sự thật mà nói, những kiến thức chúng ta đang có trong đầu thì 99,9% đều do tin chứ không do thấy. Nếu phải thấy mới tin, thì khoa sử học phải tự giải thể. Chẳng ai trong chúng ta thấy ông Ngô Quyền đánh thắng quân Nguyên ở Sông Bạch Đằng. Nhưng chẳng ai dám từ chối sự kiện đó. Cũng chẳng ai trong chúng ta đã thấy Kim Tự Tháp ở Ai Cập và núi Himalaya ở Tây Tạng. Nhưng chẳng ai dám phủ nhận những kiến thức ấy. Nếu phải thấy mới tin, thì kiến thức trong đầu chúng ta chỉ bằng hạt cát trên bãi biển. Nếu ai bảo rằng đức tin của đạo là mơ hồ, vì chẳng ai thấy, thì cứ coi họ như con cua chỉ biết bò ngang mà không biết bò dọc.
Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
===================
Suy niệm 2
LÒNG THƯƠNG XÓT - PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:
- LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).
- LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Từ nay ngày Chúa Nhật sẽ thay thế cho ngày Thứ Bảy (Sa-bát) hưu lễ của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho Hội Thánh. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các phép bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thổi hơi để ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của mình.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc để xin Thầy giải đáp (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Tin Mừng Mat-thêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Tin Mừng Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Tin Mừng Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người lại thông cảm và kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
- C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất như sau: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”:  Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì tin vào mầu nhiệm ấy.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật để thay ngày Thứ Bảy (Sa-bát) của đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Chúa phục sinh có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và từ khi nào ? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma ? 9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của tông đồ Tô-ma ? 11) Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn vào mầu nhiệm phục sinh qua câu nói nào ? 12) Sự cứng lòng của Tô-ma xưa  có giá trị thế nào đối với đức tin của tín hữu hôm nay ?   
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐI THEO ĐẠO DO CẢM NGHIỆM ĐƯỢC LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA:
Có một phóng viên của một tờ báo chủ trương vô thần chống đối tôn giáo. Một hôm anh ta tìm đến gặp một người tân tòng để làm một cuộc phỏng vấn viết bài chống lại đạo. Anh hỏi người tân tòng:
- “Ông mới chịu phép rửa tội để gia nhập đạo Chúa phải không?
- Vâng.
- Thế thì chắc ông đã phải có kiến thức và hiểu biết nhiều về ông Giê-su. Vậy ông hãy cho tôi biết: ông Giê-su là người nước nào ?
- Rất tiếc. Nghe đâu Đức Giê-su là người Do-thái thì phải!
- Thế ông Giê-su đi giảng đạo được mấy năm và chết năm bao nhiêu tuổi?
- Tôi có nghe nói nhưng không nhớ rõ lắm.
- Vậy, anh có biết nội dung các bài giảng của ông Giê-su hay không?
- Điều này thì tôi xin chịu!
- Như vậy là anh đã biết quá ít và mơ hồ. Vậy tại sao ông lại quyết định đi theo đạo của ông Giê-su ?
- Anh nói như vậy cũng chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước đây, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, lại còn bị mắc nợ chồng chất không thể trả nổi. Mỗi tối, khi tôi về nhà trong tình trạng lè nhè, vợ và các con tôi đều bực tức và buồn tủi… Nhưng bây giờ thì tôi đã dứt khoát với quá khứ không tốt ấy: Tôi chừa được tật nghiện rượu và đã trả được hết nợ nần. Nhờ quen với một vị linh mục và vị này đã tận tình giúp tôi làm lại cuộc đời. Bây giờ gia đình tôi đã lấy lại niềm vui và hạnh phúc. Mỗi buổi chiều các con tôi đều mong đợi tôi về nhà sau ca làm. Tất cả những điều này, tôi xác tín là do Chúa Giê-su đã thương ban cho tôi. Và đó là lý do tại sao tôi quyết định theo đạo…
Nghe đến đó anh phóng viên đành hậm hực ra về. Anh không ngờ lại gặp một người tín hữu có một đức tin mạnh mẽ vào Đức Ki-tô như thế…
2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan ra thuyết phục thiên hạ nhưng chẳng có ai tin theo tôn giáo của ông. Ông bèn than thở với anh bạn thân là Na-pô-lê-ông thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh muốn người ta tin theo đạo của anh thì cũng dễ thôi: Anh hãy làm như thế này: Thứ năm hãy ăn bữa tiệc cuối cùng, rồi thứ sáu để người ta đóng đinh trên khổ giá rồi chôn cất trong mồ. Rồi đến ngày Chúa nhật thì sống lại! Chắc chắn sẽ có rất đông người tin theo đạo của anh !”.
Điều có sức lôi cuốn thuyết phục người ta tin theo chính là phục sinh từ cõi chết.
3) LÀM CHỨNG BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA :
Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm thủy thủ trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào Chúa.
Trong ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai như sau: “Chúa đặt con trên con tàu này là để con làm chứng nhân cho Người”.
Từ ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại, cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng hãy hồi tâm sám hối quay về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về với Chúa.
4) LỜI NÓI HƯƠNG BAY, GƯƠNG BÀY LÔI KÉO:
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục quỳ đọc kinh không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống hay sao?”
Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết anh là người Công giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có mình anh là người Công giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:
– Đến nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà tôi từng biết.
Anh đáp:
– Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt nhất, mà chỉ là người dám công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. ( Trích Tuyển tập chuyện hay).
3. THẢO LUẬN : Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, mỗi người chúng ta cần làm gì để giúp anh em lương dân tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ?
4. SUY NIỆM :
1) LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT :
- Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Chúa Thương Xót. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Ma-ri-a Faus-ti-na được phong thánh. Nữ tu này đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giê-su và bà đã diễn tả để vẽ lên bức hình của Chúa Thương Xót với hàng chữ: “Lạy Chúa Giê-su, Con tín thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giê-su đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Người phát tỏa ra hai luồng sáng là màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn, khi Trái Tim Người bị lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Ánh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn.
- Chúa Giê-su đã đặt nữ tu Faus-ti-na là thư ký và tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót. Người cho biết : Lòng Thương Xót của Người luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất và cả với người tuyệt vọng nhất. Người mong muốn mọi người hãy đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn nhận được ơn tha thứ trong ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì “Tình thương mạnh hơn tội lỗi”.
2) SỨ ĐIỆP CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:
- Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra và giúp tất cả các môn đệ được ơn hoán cải. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tất cả các ông đều bị vấp ngã: Các ông chạy trốn, vào trong nhà đóng cửa kỹ vì sợ người Do thái. Chính khi đó, Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Người không những chữa lành vết thương tâm hồn qua lời chào chúc: “Bình an » và thổi hơi ban Thần khí (Ga 20,19-20), mà Người còn sai họ đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đây chính là bằng chứng Lòng Chúa Thương Xót dành cho các ông.
- Riêng tông đồ Tô-ma còn cảm nghiệm được Lòng Chúa Thương Xót khi Người cho ông không những được nhìn thấy Chúa như các môn đệ khác, mà còn đáp ứng đòi hỏi của ông được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Trước tình thương của Chúa, Tô-ma đã biểu lộ lòng tin yêu qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Quả thực đúng như có người đã nói: “Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; chính bàn tay đa nghi của ông đã dạy cho mọi người sự thật này là: Chúa Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy”.
3) MẦU NHIỆM PHỤC SINH VÀ SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG:
- Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của các môn đệ, nên họ không thể không chia sẻ cho người khác: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã chạy về báo tin cho Phê-rô và Gio-an rồi hai ông đã chay ra mộ và đã đạt được đức tin; Chúa Phục Sinh cũng khiến hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan tin mừng các anh em; Và sau này, sau khi gặp Chúa Phục sinh tại thành Đa-mát, Sau-lô từ một kẻ bách hại đạo Chúa đã trở thành tông đồ hăng say đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại…
- Loan báo Tin Mừng là thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa nhờ ơn Thánh Thần như lời Chúa Giê-su: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
4) LOAN BÁO TIN MỪNGBẰNG THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT:
- Đức Thánh Cha Phao-lô VI dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự khi chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn rầu ? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng khi chính người rao giảng lại ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại sống ích kỷ vô cảm, khi gia đình họ lại luôn bất hòa và đổ vỡ hạnh phúc?
- Trong ngày Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ gặp phải trong cuộc sống như: bệnh tật, tai ương hoạn nạn và những điều rủi ro trái ý… kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su trên cây thập giá, để đền tội chúng ta và mọi người. Hãy noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai làm chứng về lòng Chúa thương xót bằng nếp sống như sau: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chính sự phục sinh của Chúa động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi gương Thiên Chúa giàu lòng thương xót: luôn gieo sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo niềm an ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát, giúp những ai đang lạc xa Chúa được mau trở về để nhận được ơn cứu độ của Chúa cùng với chúng con. – AMEN.
Lm Đan Vinh
===================
Suy niệm 3
Tình thương Thiên Chúa như đại dương
Như đại dương ôm trọn mọi loài tôm cá vào lòng mình, tình yêu cao sâu rộng lớn của Chúa Giê-su cũng bao trùm hết mọi người trên dương thế không trừ ai và Ngài mời gọi họ hãy “ở lại” trong tình yêu bao la của Ngài như cá bơi lội trong lòng đại dương. Ngài nói: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga, 15, 9).
Ngài đặc biệt yêu thương những thành phần dễ bị tổn thương nhất: Ngài quý mến con trẻ như mẹ thương con, ôm ẵm chúng vào lòng và chúc lành cho chúng[1];
Ngài chạnh lòng thương xót những kẻ tật nguyền, các bệnh nhân mắc đủ các chứng bệnh khác nhau và dành nhiều thời giờ, công sức cứu chữa họ[2]; Cụ thể “Ngài làm cho người mù xem thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng”[3];
Ngài đặc biệt yêu thương những người tội lỗi bị xã hội lên án, loại trừ và xa lánh. Ngài kết thân với họ đến nỗi bị người đương thời xầm xì trách móc, gọi Ngài là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi[4];
Ngài chạnh lòng thương người mẹ góa thành Na-in than khóc đưa tiễn đứa con yêu đến nơi an nghỉ cuối cùng, nên đã làm cho người thanh niên nầy sống lại để mẹ con được sum vầy bên nhau [5];
Ngài thổn thức và bật khóc trước mồ La-da-rô và đã dùng quyền năng làm cho anh sống lại để đoàn tụ với gia đình [6];
Ngài “chạnh lòng thương đám đông dân chúng vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” và đã lấy lời khôn ngoan nuôi dưỡng tâm hồn họ[7];
Ngay cả những người rắp tâm tiêu diệt Chúa Giê-su, đánh đập Ngài cách tàn bạo, khạc nhổ vào mặt Ngài, bắt Ngài vác thập giá và đóng đinh Ngài vào thập giá cách dã man… thì Ngài vẫn nhìn họ bằng ánh mắt xót thương. Vì thế, trước khi tắt thở, Ngài tha thiết cầu xinChúa Cha tha thứ cho họ là những kẻ gây đau thương khốn đốn cho mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”[8].
Đối với quân gian ác đã nhẫn tâm sỉ nhục, hành hạ và đóng đinh Ngài cách hung bạo đến thế mà Ngài vẫn bao dung, thương xót và cầu nguyện cho họ, thì chẳng còn ai trên đời lại bị Chúa bỏ rơi!
Như mẹ đại dương ôm trọn mọi loài tôm cá vào lòng thế nào thì tình thương bao la của Chúa Giê-su cũng ấp ủ hết mọi người như thế. Ngài không để bất cứ ai ở ngoài biển thương xót của mình; trái lại mỗi người đều có chỗ đặc biệt trong Trái tim Chúa Giê-su. Cho dù mọi người trên thế gian có ruồng bỏ bạn đi nữa thì Chúa Giê-su vẫn không bao giờ ruồng bỏ nhưng luôn ấp ủ bạn vào lòng.
Lòng thương xót Chúa được thể hiện trong Thánh lễ hằng ngày [9]
Điều tuyệt vời là lòng thương xót của Chúa Giê-su dành cho nhân loại không phải là chuyện dĩ vãng cách đây 2.000 năm, nhưng lòng thương xót đó vẫn được thể hiện hôm nay, trong các Thánh lễ hằng ngày.
Trong mỗi Thánh lễ, Chúa Giê-su tiếp tục hiến tế thân mình, để cho muôn người được tha tội và được sống đời đời.
Mỗi lần lời Chúa Giê-su ngân vang trong Thánh lễ: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”, là lúc Ngài đang nộp mình chịu chết thay cho chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn, tội lỗi.  Thế mới biết lòng thương xót Chúa bao la, vĩ đại biết dường nào!
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con luôn tìm đến tôn vinh lòng thương xót Chúa đang thể hiện trong Thánh lễ hằng ngày, để chiêm ngắm đại dương lòng thương xót Chúa, để múc lấy muôn vàn ân sủng Chúa ban. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

[1]Mc 10.13-16
[2]Mt 9,35
[3]Mt 11, 5
[4]Mt 11, 19
[5]Lc 7,13
[6]Ga 11, 43
[7]Mt 9, 36
[8]Lc 23, 34
[9]GLHTCG số 1365, 1366, 1367
===================
Suy niệm 4
SUỐI NGUỒN XÓT THƯƠNG
 
Anh chị em rt thân mến, vi lòng biết ơn cm tạ sâu sc, chúng ta hãy cùng nhau tán tng danh Chúa vì Ngài đã thương trao ban chính Con Mt yêu du ca Ngưi cho chúng ta, hu gii thoát nhân loi khi bóng đêm tử thn và đem ngun ánh sáng vinh quang vĩnh cu cho mi ngưi qua biến c Tử Nn và Phc Sinh ca Đc Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong tâm tình hân hoan, hôm nay Giáo Hi cử hành thánh lễ Chúa Nht thứ hai Phc Sinh cũng đưc gi là Chúa Nht về Lòng Thương Xót ca Thiên Chúa mà chính Chân Phưc Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã công b trong bài ging ca Ngài vào ngày 30 tháng 4 năm 2000 nhân dp tôn phong hin thánh cho nữ tu Faustina Maria Kowalska như sau: ‘Vy, đây là mt vic quan trng để chúng ta công nhn trn vn thông đip đến vi chúng ta từ nơi Thiên Chúa trong ngày Chúa Nht thứ hai Phc Sinh này, mà từ nay toàn thể Giáo Hi sẽ gi là Chúa Nht Thương Xót’. Lòng thương xót ca Thiên Chúa dt dào, tuôn trào qua muôn thế h, từ trưc khi vn vt thành hình và cho đến thi sau hết. Và lòng thương xót này đưc din tả qua các bài đc ngày hôm nay. Vì thương xót nhân loi yếu hèn, đam mê, đm chìm trong ti li, Thiên Chúa đã không ngn ngi ban chính Con Mt Ngài, Ngưi đã yêu thương thế gian đến ni không tiếc gì vi chúng ta, kể cả sự sng thn tính ca mình. Ngài đã ban ân sng di dào cho chúng ta, để ri chúng ta biết tin nhn Ngài chính là ngun an vui và cùng đích ca đi sng chúng ta. Và đc tin này đưc tỏ lộ mt cách huyn nhim qua chng từ Tô-ma. Vy, xin mi anh chị em cùng bưc vào hành trình tìm hiu và hc hi để sng đc tin y trong mi hoàn cnh cuc đi ca chúng ta, để trở nên chng tá kiên vng cho Đc Ki-tô.
Trưc hết, chúng ta hãy đt mình vào trong khung cnh sau khi Chúa Giê-su chu Tử nn, các thánh Tông Đồ hoang mang, lo s, luôn khép mình trong nhà, các ca đu đóng kín; bng nhiên Chúa Giê-su xut hin gia các ông và nói: “Bình an cho các con!” và ri Ngài cho ông Tô-ma xem các du đinh nơi chân tay và cnh sưn Ngưi. Khi đưc thy tn mt và đưc sờ vào các vết đinh vi chính đôi tay ca mình, Tô-ma sp ly và tuyên xưng: “Ly Chúa ca con, ly Thiên Chúa ca con”” (Ga 20, 28). Mt li tuyên xưng đc tin đy xác tín, vưt trên sự nghi ng, yếu đui, nhút nhát và yếu hèn mà Tô-ma nói riêng và các Tông đồ nói chung đã tri qua. Thưa anh chị em, đc tin là ơn sng cao quý mà Thiên Chúa ban tng cho chúng ta, nhưng thử hi chúng ta đã biết đón nhn vi cả lòng mến và trung thành sng chng tá cho Chúa qua cuc sng thưng ngày chưa? Để ri chúng ta ngày càng trưng thành trong đi sng đc tin hay không? Nếu chúng ta không đc kỹ đon Phúc Âm này (Ga 20, 19-29), chúng ta ddàng quy kết Tô-ma là ngưi kém lòng tin. Ngưc li, Tô-ma chính là mt gương sng đc tin mnh m. Đc tin ca ông không da trên nhng li các Tông đồ kể li, không da trên nhng li bình phm, li đn đi, nhưng đc tin ca ông chính là mt đc tin nhân v, mt đc tin sng đng qua cuc gp griêng tư vi Chúa Ki-tô Phc Sinh. Và nhờ cuc hi ngộ đy tính biến cố này, Tô-ma đã can đm, ra khi con ngưi nhút nhát, sợ st ca mình mà tht lên li tuyên tín “Ly Chúa ca con, ly Thiên Chúa ca con”. Nói cách khác, đi vi Tô-ma, ngoài Chúa Ki-tô Phc Sinh ra, không mt ai làm chủ con ngưi ông, không mt ai có thể lay chuyn đc tin mà ông đt trn vn vào mt vị Thiên Chúa đã mc ly xác phàm con ngưi, đã chu chết và sng li, đem tình thương, lòng thương xót ca Thiên Chúa Cha và ơn cu độ đến cho chúng ta là nhng ngưi ti li. Dù có phi chu cnh tù đày, bt b, gươm giáo, gian truân, đói khát, khn kh, đói rách, him nguy, nhưng chng có điu gì, chng có ai có thể tách Tô-ma ra khi chính Đc Ki-tô Phc Sinh, Đng mà Tô-ma hoàn toàn tín thác. Anh chrt yêu mến, đc tin ca Tô-ma là mt bng chng hùng hn, là mt tm gương sng đi sng đc tin cho chúng ta, nht là trong thi đi hin nay. Mt thế gii dưng như không có chỗ cho Thiên Chúa, Đng tác thành và làm chủ muôn loài. Mt xã hi chỉ đt nim tin vào nhng gì chóng qua, nhng phương pháp kỹ thut ti tân, nhng trào lưu cp tiến đưc trang bị bi nn khoa hc hin đi, mà quên đi mt điu thiết yếu và căn bn nht, đó là: biết đt lòng tin tưng nơi anh chị em mình, và tín thác vào Thiên Chúa, Đng có quyn ti thưng trên sự sng và sự chết.
Hơn na, đc tin này không phi chỉ giữ khư khư riêng cho mình, mà trái li phi đưc chia san qua đi sng yêu thương tha nhân, hip nht vi nhau, sng chan hòa, tha thứ cho nhau, đng tâm nht trí vi nhau như Giáo hi Tiên khi đã tri nghim mà chúng ta đưc nghe trong bài đc mt, trích trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 4, 32-35). Nói như thánh Gia-cô-bê “đc tin không có hành đng thì quả là đc tin chết” (Gc 2, 17) Sng đc tin là hãy để Chúa Ki-tô Phc Sinh thúc bách chúng ta làm vic cụ th, hãy để Thn Khí Ngưi đánh đng tâm hn và làm chủ con ngưi ta, để ri chúng ta trở nên can đm sng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Vì khi chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta cũng tuân gigii răn ca Ngài (x. 1Ga 5, 3), và thc hành nhng gì chúng ta đã cam kết vi Ngưi khi đưc lãnh nhn bí tích Thanh Ty. Nhìn vào thc tế cuc sng gia đình hin nay, cũng như nhng chuyn biến trong xã hi mà ta đang sng ti xứ sở Phù Tang này, chúng ta cũng có nhiu ni ưu tư, hoang mang, lo sợ trưc sc nh hưng khôn lưng ca mt thế gii tiên tiến, phát triển khoa hc vưt bc, cuc sng tt bt, lo toan vt cht cũng như nhng thao thc về đi sng đo đc trong các gia đình. Nhiu ni phin mun, thách thc đi tìm ý nghĩa ca đi sng tn hiến trong mt bi cnh xã hi hoàn toàn khác, và có thể nói xa lạ đi vi chúng ta. Đng trưc nhng thách đố ấy, có thể nói, không mt ai trong chúng ta chưa mt ln tri qua nhng giây phút vp ngã hay cm tưng chùn chân tiến bưc trên hành trình sng đc tin, tình bác ái và nim cy trông vào lòng lân tut vô bờ ca Thiên Chúa! Vì vy, chúng ta cùng nhau hc theo gương thánh Tô-ma, biết can đm ra khi tính tự ti, ni sợ hãi ca mình mà biết đt hết nim tin nơi Thiên Chúa, để chỉ mt mình Ngài làm chủ tâm hn ta. Và từ đó, chúng ta sng chng tá cho Chúa Ki-tô Phc Sinh qua cử chỉ biết cm thương, cm thông vi hết mi ngưi, qua li nói đng viên chân thành, khuyến khích nhau ‘nhân rng nhng ơn lành mà Chúa đã ban cho ta’, hãy đy xa nhng gì tách lìa chúng ta khi Đc Ki-tô và chia rẽ chúng ta vi nhau bng đi sng cu nguyn, và lòng vị tha.
Sau cùng, con xin anh chị em dành mt phút ngn ngi thinh lng trưc Chúa, không phi để xin điu này, hay điu kia, nhưng để nói lên li cm t Ngài. Và trong tâm tình tạ ơn, chúng ta cùng cu nguyn: Ly Chúa Ki-tô Phc Sinh, xin gia tăng đc tin, canh tân đc ái, và nuôi dưng đc cy cho chúng ta, đchúng con hết lòng tin tưng và tín thác cuc sng này cho Chúa như thánh Tô-ma Tông Đồ đã can đm tht lên li tuyên xưng vào Chúa Giê-su Phc Sinh “Ly Chúa ca con, ly Thiên Chúa ca con”. Nguyn xin Chúa cũng chúc lành cho nhng nỗ lc ca mi ngưi anh chị em chúng con qua đi sng chng tá cho Chúa và vic bác ái trong mi hoàn cnh cuc đi. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
===================
Suy niệm 5
LÒNG THƯƠNG XÓT

Ga 20, 19-31
Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng sự chết của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các tông đồ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng trọng đại: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách,nên ông thẳng thừng từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình.Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Con người Tôma có cái gì bất thường, lập dị, nhưng may là ông trở về với cộng đoàn, nên chứng kiến việc Chúa phục sinh.
Khi hiện ra, Đức Giêsu nói với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây…Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Tôma kinh hoàng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa phục sinh không phải là vinh quang chói lọi hay điều gì kinh khủng, mà là chính dấu đinh. Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang hay quyền lực của mình để khuất phục thế gian, mà chỉ dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn Ngài.Đức Giêsu thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” nghĩa là khi Ngài bị hành hình, bị sỉ nhục; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá và sống lại vì chúng ta, để ta cùng được sống lại với Ngài.
Thánh giá Chúa mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ mong cho mình được vinh hoa phú quí hay quyền cao chức trọng, vì như vậy chúng ta muốn sống khác biệt với Chúa. Lối sống đó đối nghịch với thập giá Chúa và không đạt tới sự phục sinhvới Ngài. Lối sống đó đào hố sâu ngăn cách giữa người với người, không thể hiện được tình yêu mà chỉ là sự ích kỷ, làm điên đảo và tổn thương đời sống con người.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người, chứ không ai khác. Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.
Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó… 
Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là:đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của con người, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa trong đời sống. Thương xót là muốn nâng nhaulênmột cuộc sống tốt lành hơn, chân thật hơn, thiện hảo hơn, theo đường nẻo của Thiên Chúa.
Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của bạn đi!MahatmaGandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.
Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra mình là người được Chúa thương xót, để suốt cuộc đời ta là trở nên lòng thương xót của Chúa cho mọi anh chị em, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”. 
Cầu nguyện
Lạy Cha!
Thương xót là hành động của Cha,
là tiêu chuẩn để biết ai con cái,
là sống với tất cả lòng nhân ái,
nhưng bao hàm công bằng và sự thật.

Thương xót không dung túng điều xấu xa,
nhưng đòi con phải kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.

Thương xót là hành động cao quí nhất,
đó chính là phẩm chất của con người,
là hành vi thờ phượng rất đẹp tươi,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà trước tiên là sống với lòng nhân,
để trở nên ánh sáng giữa cuộc trần.

Đức Giê-su đã trở nên người thế,
để thể hiện lòng thương xót của Cha,
trên thập giá Ngài cũng đã thứ tha,
trước lòng dạ bạc ác của con người,
ngay cả ông Tô-ma cứng lòng tin,
Ngài cũng đã hạ mình cho xem thấy.

Chúa muốn con nên hoàn thiện như Cha,
không phải là không còn gì thiếu sót,
mà là sống nhân từ và tha thứ,
không xét đoán và càng không lên án,
luôn bao dung và đại lượng vô vàn,
vì thương xót là tình yêu vô giới hạn.

Xin cho con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy phát sinh con người mới,
để tình Chúa sáng tỏa khắp muôn nơi,
là niềm vui ơn cứu độ cho đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
===================
Suy niệm 6
Vết thương của Đấng Phục Sinh
Ga 20, 19-31
Tin Mừng thánh Gioan (Ga 20, 19-31) mô tả, Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra tỏ cho các Tông Đồ, đặc biệt thánh Tôma đã tận mắt thấy những vết thương của đôi tay, chân và cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh.
Câu hỏi lớn được đặt ra: Tại sao Chúa Giêsu sống lại rồi mà trên thân thể vẫn con mang những vết thương ?
Thưa: Hơn bao giờ hết, nhân loại đang cần Chúa bị đóng đinh và phục sinh mang những vết thương. Chỉ có một mình Chúa Giêsu Phục Sinh mang những vết thương mới có quyền nói với chúng ta về hòa bình. Những vết thương ấy là của chúng ta, vì tội lỗi chúng ta đã gây ra cho Chúa, và cả sự cứng lòng cũng như sự thù hận anh em của chúng ta. Những vết thương trên thân thể của Chúa Giêsu Phục Sinh là dấu chỉ của trận chiến mà Người đã chiến đấu và chiến thắng cho chúng ta, đã chiến thắng bằng vũ khí của tình yêu, để chúng ta có được hòa bình và sống trong bình an.
Vết thương mang lại bình an
Tin Mừng mô tả: Khi các môn đệ đang khóa mình sau những cánh cửa đóng kín, đầy sợ hãi, đau khổ. Bỗng Chúa Giêsu hiện ra đứng giưa các ông và nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Chúng ta tự hỏi: Các môn đệ Chúa Giêsu đang cần gì ? Thế giới đang cần gì? Nước Việt nam cần gì? Bản thân chúng ta cần gì? Thưa: Bình an !
Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Ðây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là ơn quí trọng Chúa Kitô Phục Sinh cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã trải qua cái chết thương đau.
Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Đây là hồng ân phát sinh từ những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau. Thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trao ban bình an cho các môn đệ như lời Người đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Bình an này là chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh, hoa trái tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ và tha thứ. Các môn đệ hết sức vui mừng khi Chúa trao ban bình an. Sợ hãi cũng biến mất nơi các ông.
Hơn một năm qua, trên các phương tiện truyền thông báo chí, chúng ta vẫn nghe chiến tranh tại Ucraina. Vậy nhân loại cần gì? Thưa: Bình an, chỉ có Chúa Kitô Phục Sinh mới cứu con người khỏi chiến tranh và ban bình an cho thế giới. Nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng đều cần bình an. Nếu con người biết yêu thương nhau, thì con người mới xứng đáng lãnh được bình an của Chúa Kitô, và chiến tranh mới lui dần. Con người càng thương xót nhau, càng yêu thương nhau, thì chiến tranh càng bị đẩy lùi. Vì vậy chúng ta phải thành thật nhận lỗi của mình thì chúng ta mới có thể xây dựng môt thế giới hòa bình. Chúng ta hãy xin với Chúa Giêsu Phục Sinh xót thương và ban bình an cho thế giới.
Vết thương của sự tha thứ
Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ và tha thứ đổ xuống trên toàn thế giới, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho thế giới niềm hy vọng. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những được thứ tha và thành thừa tác viên của Bí tích Hòa giải.
Từ sợ hãi đến niềm vui
Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái” (Ga 20,19). Không phải sợ. Hầu như sợ hãi là không thể nhưng chúng tồn tại và có thật. Sợ hãi làm cho cửa lòng mình đóng lại với người khác. Sau khi Chúa chết, nhà các môn đệ giống như ngôi mộ, họ sống với sự sợ hãi, sợ chết. Chúa Giêsu không còn ở trong Mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống“ (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Cái chết đã bị đánh bại: vậy thì còn gì phải sợ? “Họ vui mừng khi thấy Chúa”: các môn đệ từ sợ hãi đến vui mừng.
Chúa vui, các môn đệ vui, niềm vui của tình Thầy trò bén dễ sâu trong tình yêu. Niềm vui này không tách rời khỏi Thập Giá, nhưng trong khả năng của mình, con người có thể hiểu được Thập Giá và thảm kịch của con người. Bình an và niềm vui là những “món quà” của Chúa Kitô, đồng thời “dấu chỉ” để nhận biết Người. Sự bình an và niềm vui nảy nở trong tự do và hy sinh.
Lạy Mẹ maria, Mẹ của lòng nhân từ và hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Đấng cứu chuộc chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
=================== 
 Suy niệm 7
                   Lạy Thiên Chúa của con!                  
Ga 20, 19-31
Sau cái chết như “một tử tội” của Thầy Giêsu, các môn đệ vô cùng khiếp sợ. Ngay cả sau khi Thầy đã sống lại, các ông vẫn chưa hoàn hồn vì nỗi sợ người Do Thái. Vào buổi chiều Chúa nhật, phòng ở của các ông còn đang đóng kín các cửa, bỗng Chúa hiện đến đứng ngay giữa và trấn an: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19b). Vì sợ hãi làm cho tâm hồn các ông bị khép kín, sống co cụm, cách biệt các mối tương quan, không gặp gỡ giao tiếp với ai. Khi có Chúa ở giữa với lời ban bình an, các ông như được cởi bỏ mối lo sợ đang ngập tràn. Để họ an tâm xác nhận, Người cho các ông xem chân tay và cạnh sườn rồi thổi hơi (ban Thánh Thần) cho các ông. Người truyền sai đi và ban quyền tha tội cho các ông. Có sự hiện diện với ơn bình an của Chúa Phục Sinh, các ông như được mở tung cõi lòng, như tia nắng mới, làn gió mát ùa vào khiến họ tự tin vững vàng để làm chứng cho Thầy mà không sợ hãi. Sự bình an của Chúa là ơn đặc biệt mà “thế gian chẳng thể ban được”. Sự bình an luôn là niềm khát vọng ngàn đời của cả nhân loại.
Lần trước Chúa hiện đến với các môn đệ thì ông Tôma vắng mặt. Các môn đệ khác nói lại nhưng ông không tin. Có lẽ nhiều người hôm nay chê trách Tôma quá cứng lòng. Nhưng thật ra, Chúa Giêsu đã chết rồi “tự sống lại” là chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử, ông lại không nhìn thấy nên thật khó để tin. Ông đại diện cho những người không sống theo dư luận, không hùa theo đám đông khi chưa nhìn rõ sự việc gì hệ trọng, mà phải là mắt thấy, tai nghe và tay rờ. Tin Mừng hôm nay là chuyện tám ngày sau, hôm ấy ông Tôma cùng ở đó và đã nhìn rõ Thầy mình. Chắc chắn ông đã tin, nhưng biết lòng người môn đệ này, Chúa còn lấy tình thân thương mà “nhắc nhủ” riêng ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27). Lúc này ông vừa tin, vừa yêu, vừa kính sợ và chỉ còn biết kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Tình yêu và sự bình an của Chúa Phục Sinh đã tràn ngập tâm hồn ông, khiến ông cảm nhận thật rõ lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Hôm nay là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, vì tình yêu và lòng xót thương, Chúa đã chịu chết, chịu lưỡi đòng đâm thấu Trái Tim, để từ đây Máu và Nước đã tuôn trào như suối nguồn thương xót chúng con. Như thánh Tôma Tông đồ, xin Chúa cho chúng con luôn cảm nhận, tin yêu và tín thác trọn cuộc đời mình trong Trái Tim yêu thương của Chúa, để đời chúng con luôn sống trong sự bình an của Chúa, lạy Thiên Chúa của con! Amen.
Én Nhỏ
 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Kinh Năm Thánh 2025
Kinh Năm Thánh 2025
Đây là Kinh Năm Thánh 2025 được Đức Giáo hoàng Phanxicô soạn. Bản dịch Việt ngữ do Linh mục Giuse Lê Công Đức, PSS thực hiện và đã được Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam phê chuẩn.
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log