Thứ hai, 25/11/2024

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 30 Thường Niên

Cập nhật lúc 10:52 24/10/2019
Suy niệm 1
Khi người công chính giả dối và khi người tội lỗi thành thật ăn năn
Hoàn toàn công chính
Qua dụ ngôn trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy điều gì là trọng tâm của người Pha-ri-siêu khi lên Đền thờ cầu nguyện. Ngài cho chúng ta biết những gì ẩn giấu trong mắt mọi người: nội dung lời cầu nguyện, hay nói cách khác, những gì chỉ một mình Thiên Chúa biết. Nhờ đó, chúng ta có nhiều bằng chứng để tin rằng những gì người Pha-ri-siêu nói là sự thật:
- Anh biết ơn Thiên Chúa…
- Anh không tham lam, không bất công và không ngoại tình…
- Anh không chỉ tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa mà còn làm nhiều hơn: ăn chay mỗi tuần 2 lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi…
Như vậy, anh là mẫu mực về việc vâng giữ Luật Chúa và cứ nhìn bề ngoài như thế, anh là người công chính.
Hoàn toàn giả dối
Người Pha-ri-siêu hoàn toàn công chính theo luật Thiên Chúa, nhưng lại hoàn toàn không công chính dưới con mắt của Chúa Giêsu. Thật vậy,
- Lời cầu nguyện của anh cho thấy anh không yêu ai.
- Anh không thích người khác. Anh chỉ thích trở thành cấp trên của người khác vì anh nói: “Tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác”.
- Anh giả vờ mọi thứ. Anh làm hư hỏng tất cả. Anh đi xa đến mức muốn Thiên Chúa xác nhận anh là người mẫu mực nhân đức và trở thành bề trên. Anh lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng anh chỉ nói chuyện với Chúa để chiêm ngưỡng chính mình trong Thiên Chúa như một cấp trên và một hình mẫu.
- Anh sử dụng Luật của Thiên Chúa để tôn thờ chính mình. Một người như vậy đã tự tách mình khỏi nguồn Tình yêu. Người Pha-ri-siêu này có thể chỉ theo luật Thiên Chúa hoặc Giáo Hội, nhưng lại không tìm cách dẫn dắt người khác đến với Thiên Chúa. Anh dẫn người khác đến với anh. Anh không thích những người anh dạy, anh thích mình là bề trên.
Vì thế, Chúa Giêsu kết luận về anh khi nói về người thu thuế: “ Người thu thuế tội lỗi này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”. 
Thái độ giả hình này thường rất khó phát hiện. Mọi thứ dường như đúng nhưng cuối cùng lại là sai. Ngày nay, cũng như trong thời của Chúa Giêsu, chúng ta phải chiến đấu chống lại thói giả hình của chúng ta, cũng như của các tôn giáo, đặc biệt là của tôn giáo chúng ta.  Thánh Phaolo nói: "Dù tôi có thể nói tất cả ngôn ngữ của thiên thần và loài người, tôi có thể bố thí tất cả của cải cho người nghèo…Nhưng nếu không có lòng mến, thì chỉ như não bạt âm thanh inh ỏi…”
Sự công chính của người tội lỗi
Phải chăngThiên Chúa không thích người thu thuế khốn khổ này mà Tin mừng nói tới, vì anh là người mà mọi người dân coi anh là tội nhân công khai: anh ta bỏ túi một phần tiền thuế thu được vào tài khoản riêng của anh? 
Dù sao, ít nhất chúng ta thấy:
- Anh không coi mình là một người mẫu mực. Khi lên Đền thờ cầu nguyện, anh không dám ngước mắt lên trời. Anh không so sánh mình với bất cứ ai. Anh rất nhận thức được thân phận tội lỗi của mình.
- Anh là một người bị tổn thương. Anh cầu xin Thiên Chúa đoái thương anh mặc dù anh là con người như thế…
- Anh kêu cầu Thiên Chúa cứu anh. 
- Tình trạng tội lỗi của anh khiến anh kêu tới một Đấng hoàn toàn khác. Thiên Chúa không thể làm bất cứ điều gì cho một người không có con tim mà chỉ có hòn hòn đá như người Pha-ri-siêu. 
Chúng ta cần phải xác tín lại rằng: Thiên Chúa là cha nhân hậu luôn trả lời những người đau khổ. Thánh vịnh 33 nói: “Thiên Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề”. Người thu thuế không có một chút gì là công chính dưới con mắt của anh cũng như dưới con mắt của mọi người dân. Anh chỉ là công chính dưới cái nhìn của Thiên Chúa: "Tôi nói các ngươi, người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”, hay nói cách khác người thu thuế này công chính hơn người Pha-ri-siêu giả hình.
Vì thế chúng ta hãy nhớ rằng những gì là bề ngoài có thể là giả dối:
- Rất có thể những người bị đánh giá là tội lỗi công khai lại là những người công chính trước mặt Thiên Chúa và những người có vẻ là mẫu mực nhân đức lại là người tai ác.
- Rất có thể những kito hữu giống như người Pha-ri-siêu trong Tin mừng hôm nay: có nhiệm vụ dạy mọi người phải nêu gương về sự vâng lời, nhưng lại không yêu những người được giao phó cho mình mà chỉ thích người ta gọi mình là bề trên.
Chúng ta đừng bị họ lừa nhưng đừng khinh thường họ. Đừng khinh thường bất cứ ai. Chúng ta hãy cảnh giác! Hãy nhớ rằng người nào khinh chê người khác, thì người đó đã là một Pha-ri-siêu giả hình rồi!
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
====================
Suy niệm 2
Bông lúa cúi đầu
Lc 18, 9 - 14
Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:
- Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?
Người cha đáp:
- Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.
Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.
Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu.” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín.”
Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.
Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.
Bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến hai nhân vật, một người cúi đầu và một người huênh hoang ngẩng đầu cao.
Người biệt phái được Chúa Giê-su đề cập trong Tin mừng hôm nay thuộc dạng bông lúa vểnh đầu cao. Ông ta là người đầy tự phụ, huênh hoang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác. Ông cầu nguyện với Chúa bằng những lời lẽ trịch thượng như sau: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Còn người thu thuế thuộc dạng bông lúa cúi đầu. Ông ta vốn biết thân, biết phận thấp hèn, tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 9-14).
Thái độ khiêm tốn của người thu thuế làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên cho dù ông mang nhiều tội, ông cũng được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc; trái lại, thái độ tự phụ tự cao của người biệt phái bị Chúa Giê-su chê trách và lên án.
Tại sao vậy? Chúa Giê-su cho biết lý do: “Vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
Ngoài ra, vì khiêm tốn là đức tính cao đẹp và cần thiết nên Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29).
Ngoài ra, Mẹ Maria cũng răn dạy chúng ta phải coi chừng hậu quả của thói kiêu căng, qua câu nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” và Mẹ khuyến khích chúng ta sống khiêm nhường, qua lời dạy: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (Luca 14, 7-11).
Xin cho chúng con biết cư xử khiêm nhường như Chúa để được Chúa rót đầy ân sủng và đổ đầy tình yêu thương.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
====================
Suy niệm 3
Người Pharisêu và người thu thuế
(Lc 18,9 - 14)
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta: một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo, bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người " tốt ", không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng "cho những ai hay tự hào mình là người công chính." (x.Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông "tạ ơn Thiên Chúa" ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát: "Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. " (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: "Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con." Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: "Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần! "
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: "Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin. "
Một kết luận thực tế : Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
====================
Suy niệm 4
CẦU NGUYỆN VÀ KHIÊM NHƯỜNG
(Hc 35,12-14.16-18; 2 Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14)
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của ma quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.
Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
1.      Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập
Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề, và có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà ông đã nhận được, thì ông lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “Cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Vì trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.
Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi , tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. 
Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình  (x. Hc 10, 28).
Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52).  
Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.
2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa
Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.
Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh, kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo mình. Với Đức Thánh Cha, ngài luôn coi vị linh mục này là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: "Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con" (x. Đường Hy Vọng).
Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).  
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời, biết yêu thương anh chị em mình thật lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa.  Amen.
Tu sĩ: Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
====================
Suy niệm 5
Biết Mình Để Khiêm Hạ
Hc 35,15-17.20-22a; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14
Bởi một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác, nên Đức Giêsu mới kể dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, với tâm tình và hai thái độ khác nhau. Người Pharisêu ngẩng cao đầu, vừa kiêu ngạo mà khinh chê người khác rằng “con không tham lam, ngoại tình... như tên thu thuế kia...”, rồi kể một lô thành tích cá nhân của mình. Còn người thu thuế thì đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực nhìn nhận mình và xin ơn thương xót. Đức Giêsu chấm kết quả rõ ràng: trở về người thu thuế được “nên công chính”, còn người Pharisêu thì không. Người chấm bằng một thang điểm như đảo lộn ngược đời: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (Lc 18,14).
Người Pharisêu chỉ nhìn thấy những điều tốt của mình, không thấy chi tội lỗi nên dường như không cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, thì làm sao mà được đón nhận ơn cứu độ? Xem ra ông là người công chính mà lại bị mất điểm của người công chính rồi. Còn người thu thuế thì ngược lại, ông nhận biết thân phận tội lỗi của mình và thấy mình cần đến lòng thương thứ tha của Thiên Chúa. Khi biết nhìn nhận sự thiếu thốn, phận hèn tội lỗi của mình và mở lòng khát khao ơn Chúa, ắt sẽ được Chúa đổ đầy ơn thương xót và thứ tha. Hay hơn nữa, từ thận phận tội lỗi kém cỏi, trở về ông lại được Chúa nâng lên, đã được “nên công chính rồi”.
Sách Huấn ca trong bài đọc một cũng mô tả kết quả của thái độ kiêu căng hay khiêm hạ khi cầu nguyện: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng. Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc người tiêu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân.” (Hc 35,15-21).
Theo tiêu chí của Đức Giêsu, như người thu thuế, tôi cần trở về mà “học biết mình” trong mối tương quan với Chúa. Nhưng biết mình không phải là chuyện dễ, biết được lầm lỗi của mình lại càng khó hơn. Chính con mắt của ta, nó gần mình nhất mà lại khó thấy nhất. Ta không thể biết mắt mình đẹp hay xấu nếu không soi gương hoặc nhận biết từ người khác. Thầy Giêsu từng dạy muốn “dẫn dắt người” thì phải tự xét mình, phải biết mình trước đã. Khổ nỗi nhìn người khác thì chỉ thấy rõ những cái xấu chình ình mà không thấy điều tốt lành của họ. Nếu có nhìn vào mình thì chỉ thấy “ngon”, chẳng thấy được “cái tôi to đùng” bên trong. Vậy làm sao để biết được mình? Thánh Augustinô cho thấy ta  không tự mình biết được, mà phải xin Chúa: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Chỉ khi nào biết trở về với Chúa, trong ánh sáng của Người soi chiếu vào mọi ngõ ngách sâu thẳm hồn ta, mới thấy rõ con người thật của mình. Chính Chúa sẽ hoán cải, đổi thay, chữa lành, thanh tẩy bụi bẩn, giải thoát ta khỏi những ngộ nhận và làm cho ta có sức thay đổi cách sống. Trong khiêm nhường, ta sẽ biết được phận mình mà không còn dám phê bình, chỉ trích tha nhân nữa.
Lạy Chúa! lòng yêu thương, quảng đại bao dung của Chúa ngàn lần lớn hơn những gì chúng con đang có và nghĩ suy. Xin Chúa cho chúng con biết khiêm hạ với những gì chúng con đang có, biết nhìn nhận và tạ ơn vì điều ấy, vì tất cả là nhờ bởi ơn Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn nhận anh em bằng ánh mắt yêu thương của Chúa, để đỡ nâng và cùng nắm tay chung xây hạnh phúc  nước trời. Amen.
Én Nhỏ 
  

 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log