Thứ bảy, 08/11/2025

Suy niệm Tin mừng Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời (G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11; Ga 6,37-40)

Cập nhật lúc 20:00 01/11/2025
 
Bài đọc 1

Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống.

Bài trích sách Gióp.

1 Bấy giờ, ông Gióp lên tiếng nói:

23“Ôi, những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại,
phải chi có người ghi vào sách,
24có người đục bằng sắt, trám bằng chì,
tạc vào đá cho đến muôn đời !
25Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống,
và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất.
26Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ,
thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa.
27aChính tôi sẽ được ngắm nhìn Người,
Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.”


Đáp ca: Tv 26

Đ.Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.

1Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào ?
Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa ?

Đ.Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.

4Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.

Đ.Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.

7Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại.8bLạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài,9axin Ngài đừng ẩn mặt.

Đ.Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.

13Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.14Hãy cậy trông vào Chúa,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào !
Hãy cậy trông vào Chúa.

Đ.Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban

trong cõi đất dành cho kẻ sống. 

Bài đọc 2: Rm 5,5-11

Chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

5 Thưa anh em, trông cậy không làm chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi ; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 9 Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. 11 Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.


Tung hô Tin Mừng

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Ý của Cha tôi là tất cả những ai tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Ha-lê-lui-a.


Tin Mừng: Ga 6,37-40

Ai tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với dân chúng rằng: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
 

=======================

Suy niệm 1: Thông công trong tình yêu và hy vọng

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng các thánh, những người được coi là diễm phúc ở “đô thành thiên quốc, thành Giê-ru-sa-lem trên trời là mẹ của chúng ta” (Tiền tụng lễ Các thánh). Thì hôm nay, mùng 02 tháng 11, tiếp liền sau Lễ Các Thánh, Giáo hội cử hành lễ các đẳng linh hồn với màu sắc, âm thanh, phụng ca của ngày lễ hướng tâm hồn chúng ta về các thực tại mai hậu, tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời “những người đã ra đi trước chúng ta với dấu ấn đức tin và nay đang nghỉ giấc bình an” (Kinh nguyện Thánh Thể số I), ở nơi luyện ngục, là ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu, những người thân yêu, và cả những linh hồn đang cần ơn tha thứ của Chúa, để dâng lễ cầu nguyện cho họ.

Trong nhãn quan Ki-tô giáo, chết không phải là hết. Đức Ki-tô đã chết và sống lại để cho chúng ta là những kẻ phải chết được sống.

Các Thánh Thông Công

Chân lý Đức tin Ki-tô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục, nơi ấy dành cho các tâm hồn chết khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, trong một mầu nhiệm đáng sợ mà thánh Gio-an Thánh Giá gọi là “Lửa Tình Yêu”.

Chúng ta lo lắng cho những người thân đã qua đời con đang bị giam cầm nơi luyện ngục, chịu khổ đau là phải. Việc những kẻ con sống cần phải làm là đọc kinh cầu nguyện, hy sinh, làm phúc, nhất là xin Lễ Misa cho những người ấy. Điều trên giúp chúng ta hiểu việc chúng ta phải làm cho họ. Dù đang sống cuộc sống dương gian, hay hưởng phúc thiên đàng hoặc đang thanh luyện nơi luyện ngục, tất cả mọi người đều liên đới với nhau trong Đức Ki-tô. Đó chính là ý nghĩa của tín điều các Thánh Thông Công mà chúng ta tuyên xưng và thực hành, một trong những điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Vì thế, Lễ Các Đẳng Linh Hồn diễn tả mầu nhiệm hiệp thông của toàn thể Hội Thánh: Hội Thánh khải hoàn là (Các Thánh trên Trời) với Hội Thánh đau khổ (Các Linh Hồn đang được thanh luyện), và Hội Thánh lữ hành là (chúng ta nơi trần thế) đều thông công với nhau trong ân sủng: Các bổn đạo tôn kính cầu xin Các Thánh, và Các Thánh cầu bầu cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. Các bổn đạo dâng việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn ở luyện ngục, mà khi các linh hồn ấy đã được lên thiên đàng thì cùng cầu bầu cho các bổn đạo nữa. Các bổn đạo có lòng kính mến Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau thì chẳng những lập công cho mình mà lại làm ích cho kẻ khác nữa. (Sách Bổn Hà Nội tr. 39-40)

Việc cầu nguyện cho người đã qua đời không chỉ là việc là đạo đức, nhưng là biểu hiện của tình yêu hiệp thông, và là cách thức tham dự vào ơn cứu độ của Đức Ki-tô, Đấng đã hòa giải trời và đất, người sống và người chết.

Ơn thiêng cho kẻ sống và người chết

Theo giáo huấn của Hội Thánh, các linh hồn nơi luyện ngục không còn có thể lập công cho chính mình, nhưng vẫn được trợ giúp nhờ lời cầu nguyện, việc hy sinh, và đặc biệt là Lễ Misa do người sống dâng lên. Thánh Tô-ma A-qui-nô khẳng định: “Khi chúng ta dâng lễ cầu cho người đã chết, chúng ta thực sự đưa họ vào trung tâm mầu nhiệm cứu độ.” (Summa Theologiae, Supp. 71,9). Nhờ đó, các linh hồn được thanh luyện mau hơn và sớm được chiêm ngắm Nhan Thánh Chúa. Mọi việc lành ta làm cho họ đều trở nên hồng ân cụ thể của tình hiệp thông, bởi “tình yêu không bao giờ mất đi” (1 Cr 13,8).

Lễ các đẳng linh hồn giúp Hội Thánh lữ hành ý thức về cùng đích cuộc đời và sự thật rằng mỗi người đều sẽ “trình diện trước toà Đức Ki-tô” (2 Cr 5,10). Với ánh sáng đức tin, cái chết là lời mời gọi hoán cải, sống thánh thiện. Việc cầu nguyện cho các đẳng linh hồn nuôi dưỡng nơi ta lòng bác ái và sự hiệp thông, giúp ta sống không chỉ cho bản thân mà còn cho tha nhân, kể cả những người đã khuất. Ngày lễ này cũng khơi dậy nơi người còn sống niềm hy vọng phục sinh, một giá trị mà thế giới hưởng thụ dễ lãng quên. Khi tưởng nhớ người chết, ta học sống trọn vẹn, yêu thương sâu sắc và tin tưởng mạnh mẽ hơn vào tình yêu Thiên Chúa.

Lễ các đẳng linh hồn còn là dịp loan báo Tin Mừng về sự sống đời đời, giúp mọi người hiểu rằng chết là cửa ngõ dẫn vào sự sống viên mãn trong Thiên Chúa. Đây cũng là cơ hội để cộng đoàn thể hiện lòng đạo đức qua việc tham dự Thánh lễ, viếng phần mộ, lãnh ơn toàn xá và làm việc bác ái.

Hy vọng trong Đức Ki-tô phục sinh

Trong niềm hy vọng vào Đức Ki-tô phục sinh, Hội Thánh không than khóc nhưng cất lên lời ca tin tưởng: “Lạy Chúa, sự chết của các tín hữu không phải là chấm dứt, mà là khởi đầu cho cuộc sống mới.” (Lời Tiền Tụng Lễ An Táng). Vì thế, ngày 02 tháng 11 không phải là ngày của tang thương, mà là ngày của ánh sáng và hy vọng, nơi tình yêu Chúa vượt qua ranh giới sự chết, tuyên xưng rằng ơn cứu độ của Đức Ki-tô lan tỏa đến mọi người ở mọi nơi mọi thời.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

====================

Suy niệm 2: TÌM VÀ CỨU NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT
(CHÚA NHẬT TUẦN 31 TN NĂM C)
 
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 31 Thường Niên, Năm C này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
 
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, Chúa sửa phạt, rồi lại xót thương, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Chiến thắng của người Hylạp. Trong một đoạn văn ngắn nhưng dễ gây cảm xúc, tác giả trình bày những nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc bách hại: Alêxanđê đại vương, sau các cuộc chinh phục, đã chết sớm; một bộ phận quan trọng của dân Dothái bị nền văn minh Hylạp mê hoặc; các cuộc chiến của vua Antiôkhô dẫn đến những khó khăn tài chánh, rồi đến việc cướp phá Đền Thờ lần đầu tiên, khai mào cho bao tai họa sẽ xảy tới… Nếu Đức Chúa hằng sống đã giáng cơn thịnh nộ xuống chúng tôi trong chốc lát, để sửa phạt và giáo huấn, thì Đức Chúa lại cho các tôi tớ được hòa giải với Người. Ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.
 
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, Chúa thiết lập hòa bình trên tình yêu thương, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng: Cổ võ hòa bình… Lạy Chúa, Ngài vĩ đại quyền năng, Ngài nắm giữ vương quyền, và địa vị tối cao, vượt trên tất cả. Xin ban bình an cho những ngày chúng con đang sống. Lạy Đức Chúa, Đấng tạo thành vạn vật, Đấng oai nghiêm dũng mãnh, công chính và khoan dung.
 
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, Chúa tìm và cứu những ai tin, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Khôn Ngoan: Chúa thương xót mọi người, vì Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144: Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, trích thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica: Danh của Chúa Kitô sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người.
 
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, Người đến tìm và cứu chữa những gì đã hư mất. Quả thế, chính Con Thiên Chúa nhập thể, Thủ Lãnh hòa bình, đã dùng thập giá mà hòa giải mọi người với Thiên Chúa, Người đã làm cho mọi người lại được hợp nhất trong một dân tộc, một thân thể duy nhất. Nơi chính thân xác mình, Người đã tiêu diệt hận thù, và sau khi phục sinh vinh hiển, Người đã tuôn đổ Thánh Thần tình yêu vào tâm hồn mọi người. Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận, giàu tình thương, xử khoan dung với mọi loài, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ, cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa. Chiếu theo ân sủng của Đức Kitô, Thiên Chúa dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí và mọi công việc ta làm vì lòng tin. Đức Giêsu nói: Này ông Dakêu, hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi ông đã tin, nên ông cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Chúa giáng cơn thịnh nộ, để sửa phạt, ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú, nhưng, ai chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, chúng ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

=======================

Suy niệm 3: AI ĐẾN VỚI TÔI, TÔI SẼ KHÔNG LOẠI RA NGOÀI
Hôm nay, Hội Thánh long trọng cử hành Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, một ngày đặc biệt thấm đượm tình yêu thương, sự hiệp thông và niềm hy vọng phục sinh. Trong ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không chỉ tưởng nhớ người đã khuất, mà còn cầu nguyện để họ được thanh luyện, sớm hưởng vinh quang thiên quốc. Qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay, nhất là nơi Tin Mừng theo thánh Gioan 6,37-40, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta chân lý nền tảng về ơn cứu độ và niềm hy vọng vững chắc vào sự sống đời đời: “Tất cả những kẻ Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài.” Câu nói này chứa đựng một lời hứa đầy dịu dàng và bảo đảm, làm ấm lòng những ai đang sống trong thế gian lữ hành, và an ủi những người đã bước vào ngưỡng cửa sự chết.
Để hiểu rõ hơn chiều sâu của sứ điệp này, trước hết ta cần đặt bản văn Tin Mừng trong toàn bộ bối cảnh của diễn từ Bánh Hằng Sống ở chương 6 Tin Mừng Gioan. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông, Đức Giêsu không dừng lại ở việc thoả mãn cơn đói thể lý, nhưng hướng họ đến một thứ lương thực cao quý hơn: chính Người là Bánh ban sự sống. Trong khung cảnh đó, lời Người hôm nay không chỉ mang tính khuyến khích, mà còn là mặc khải về mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và con người trong kế hoạch cứu độ. “Tất cả những kẻ Chúa Cha ban cho tôi” – một cách nói nhấn mạnh sáng kiến cứu độ hoàn toàn bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính Chúa Cha là Đấng yêu thương trước, chọn gọi, và ban con người cho Đức Giêsu, nghĩa là dẫn họ đến nguồn sự sống thật. Ơn cứu độ vì thế không phải là kết quả của công trạng con người, nhưng là quà tặng nhưng không, là kết quả của một tình yêu đi bước trước, luôn chủ động tìm kiếm con người lạc lối. Điều này có sức an ủi lớn lao khi ta tưởng nhớ những người thân yêu đã qua đời – vì sự sống đời đời của họ không lệ thuộc vào việc họ đã hoàn hảo đến đâu, nhưng trước hết là ở tình yêu và lòng xót thương vô biên của Thiên Chúa.
Tiếp theo đó, Đức Giêsu tuyên bố: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài.” Đây là một trong những câu nói dịu dàng nhất trong toàn bộ Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả lòng bao dung, sự đón nhận không điều kiện, và tính phổ quát trong ơn cứu độ. Không ai bị loại trừ nếu họ khao khát đến với Đức Kitô. Dù quá khứ họ thế nào, dù yếu đuối, tội lỗi, dù bị xã hội lãng quên hay lên án, nếu họ mở lòng đón nhận ánh sáng, họ sẽ không bị xua đuổi. Trong cái nhìn đó, cái chết không còn là sự loại bỏ hay chấm hết, mà là cánh cửa dẫn vào vòng tay yêu thương của Đấng không bao giờ từ chối một ai đến với Người. Câu nói ấy vang vọng đến tận những linh hồn đang được thanh luyện trong luyện ngục – những người đã đến với Chúa trong đức tin, dù còn nhiều thiếu sót, vẫn được giữ trong lòng Người.
Phần tiếp theo của bài Tin Mừng làm nổi bật sứ mạng của Đức Giêsu: “Vì tôi từ trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” Ý muốn của Chúa Cha là gì? Chính Người khẳng định: “Ý của Đấng sai tôi là: tôi không để mất điều gì trong tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Một lần nữa, Đức Giêsu mạc khải rằng ơn cứu độ không phải là ý tưởng của riêng Người, mà là kế hoạch của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha sai Con Một đến trần gian không để luận phạt hay bỏ rơi, nhưng để cứu độ, để bảo vệ, để gìn giữ và phục sinh những ai thuộc về Người. Ngay cả trong sự chết, họ vẫn không bị đánh mất. Một người tín hữu dù yếu đuối, nếu gắn bó với Chúa Kitô, họ thuộc về Người, và Người cam kết gìn giữ họ cho đến ngày sau hết.
Câu kết luận của đoạn Tin Mừng là một trong những lời hứa phục sinh rõ ràng nhất: “Ý của Cha tôi là: hễ ai thấy Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Đây không chỉ là một lời an ủi, mà là nền tảng đức tin của người Kitô hữu. Cái chết không còn là hố sâu của sự thất vọng, mà là điểm hẹn của lời hứa. Người tin vào Đức Kitô không sống trong nỗi sợ hãi, vì họ biết có một Đấng đã xuống thế để chết thay cho họ, để rồi sống lại và dẫn họ vào sự sống muôn đời.
Chính cái chết của Người là bảo chứng cho sự sống đời đời của chúng ta. Như thánh Phaolô nói trong bài đọc II: “Nếu ngay khi còn là thù địch mà chúng ta đã được giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì phương chi nay đã được giao hoà, chúng ta sẽ được cứu thoát nhờ sự sống của Người.” Sự cứu độ không phải là điều xa vời, mà đã được thực hiện nhờ thập giá và phục sinh của Đức Giêsu. Người tín hữu không còn phải lo âu cho số phận của mình hay của người thân đã qua đời, vì chính Đức Kitô là Đấng bảo vệ họ cho đến ngày sau hết.
Trong bối cảnh ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn cái chết không còn bằng ánh mắt của người đời – sợ hãi, né tránh, hoặc tuyệt vọng – mà bằng ánh sáng đức tin. Cái chết là một bước chuyển, một cuộc vượt qua, một ngưỡng cửa đi vào vòng tay Thiên Chúa. Như tổ phụ Gióp trong bài đọc I đã tuyên xưng: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống… sau khi da tôi bị tiêu huỷ, tôi sẽ từ xác thịt tôi chiêm ngưỡng Thiên Chúa.” Một lời tuyên tín thấm đẫm hy vọng, nói thay cho bao thế hệ tín hữu đã sống và chết trong đức tin, tin rằng cái chết không có tiếng nói sau cùng, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng chiến thắng.
Và vì thế, trong ngày đặc biệt này, chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các linh hồn, mà còn khơi lại trong lòng mình niềm hy vọng vào sự sống đời sau. Chúng ta cầu cho các linh hồn sớm được thanh luyện, được thứ tha, được hoàn tất hành trình đức tin để hưởng vinh quang. Đồng thời, chúng ta cũng được nhắc nhớ về sự mỏng giòn và hữu hạn của thân xác con người – để biết sống tỉnh thức, sống có trách nhiệm, sống trong tình yêu và gắn bó với Chúa Kitô. Khi chúng ta sống như người đang trên đường về quê thật, chúng ta sẽ biết trân quý từng giây phút, biết tha thứ, biết yêu thương, biết chọn Chúa làm gia nghiệp.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn lại chính đời sống mình: ta đang hướng về đâu? Ta đang sống như thể mọi sự kết thúc trong nấm mồ, hay đang sống như người chờ đợi sự sống đời đời? Đức tin Kitô giáo không chối bỏ nỗi đau của cái chết, nhưng chiếu ánh sáng phục sinh vào đó. Mỗi khi chúng ta tưởng nhớ người thân đã qua đời, hãy để lòng mình mở ra với lòng thương xót Chúa. Hãy dâng những hy sinh nhỏ bé hằng ngày, những lời kinh, những việc bác ái để cầu nguyện cho các linh hồn. Và trên hết, hãy sống sao cho cuộc đời chúng ta là hành trình “đi về với Chúa”. Vì như Đức Giêsu đã hứa, “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài.”
Vậy thì, hãy đến với Người, bằng lòng tin, bằng đời sống thánh thiện, bằng tấm lòng yêu mến tha nhân, để ngày ra đi của chúng ta – dù bất ngờ hay chậm rãi – cũng là ngày hội ngộ, ngày được Chúa đón nhận và ban cho sự sống đời đời. Cầu chúc cho tất cả chúng ta – những người còn đang trên đường lữ hành trần thế – luôn sống trong ân sủng và niềm hy vọng, và một ngày kia, khi cánh cửa sự chết mở ra, chúng ta sẽ nghe chính tiếng của Đấng Phục Sinh nói với mình: “Ta không loại con ra ngoài, nhưng đón con vào nơi Ta ở.” Và nơi ấy – chính là nhà của Cha chúng ta. Amen.

Lm. Anmai, CSsR
 

========================

Suy niệm 4: VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU (Mt 25, 31- 46)
    Hôm nay Chúa mở ra cho các môn đệ chuyện ngày cánh chung. Chuyện thì dài cả trang mà ngày nay chúng con ai cũng thuộc nằm lòng từ đầu đến cuối. Chiên thì ở bên phải, còn dê thì ở bên trái… Chung cuộc những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời, bởi hàng loạt những việc bác ái mà họ đã làm. Số còn lại ra đi để chịu cực hình muôn kiếp vì đã không làm cho anh em những việc đó.
  Trong “Vương Quốc Nước Trời” này thật là lạ, Vua gì mà lại đi đồng hóa mình với những người đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù nhỉ? còn đâu phẩm vị oai phong Đức Vua nữa? “Vì xưa Ta đói… Ta khát… là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Sách Lêvi hôm nay dạy rằng: “… Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh…Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”. Mọi điều phải làm rút lại chỉ còn là mến Chúa yêu người. Các bé đi học giáo lý vẫn hát: “Chúa đã dạy em yêu Chúa và yêu người… Em luôn giữ Lời Ngài em luôn sống vì mọi người. Em tuân giữ Lời Ngài để chứng tỏ là em yêu Chúa.” Yêu Chúa thì ra sức giữ Lời Chúa. Chúa dạy yêu người. Yêu người chứng tỏ là yêu Chúa, gọn lại chỉ cò một chữ… YÊU.
   Ngày nay ngắm trước bức tranh ngày phán xét cuối cùng, chúng con an tâm nghĩ mình được đứng bên phải. Chúng con đã làm rất nhiều việc cho người đói khát trần truồng… đóng góp sau trận bão lũ, tham gia công tác từ thiện trong cộng đoàn… chứ đâu có làm ngơ? Ngày xưa Chúa luôn chạnh lòng thương không thể đi tiếp, mà phải dừng lại ngay bên người què quặt đui mù chết chóc khòm lưng, toàn hạng làm rối cả chợ đời, rủ rê cả người tội lỗi… Con Tim yêu của Đấng Thánh chỉ hạnh phúc khi họ được Ngài chữa cho lành mạnh, hết đau khổ tủi nhục, được hạnh phúc tràn đầy. Ngày nay nếu gặp người hành khất chúng con thương quá mời vào nhà, vài lời cảm thông, chưa kịp gì mời tạm ly nước trắng cho đỡ khát, họ uống vào mát họng mát ruột mát cả con tim! Chúng con cũng “mát lòng” khi tim mình cùng nhịp, cùng nhóm máu với Tim Chúa. Đằng này mới thấy người ta từ ngoài ngõ đã chẹp miệng khó chịu, “bố thí” xong lên lớp cho bài học dạy phải làm ăn chứ khỏe mạnh hơn tôi nhiều. Nghe thấy kẻ nào bị vào tù thì tặc lưỡi: “đáng kiếp”! Nếu vậy thì dù là chiên khéo chúng con cũng phải đứng bên trái thôi. Tấm hình Đức Gioan Phao lô II ngồi bên cạnh Ali Agca, kẻ ám sát Ngài đang ngồi trong tù mới đẹp làm sao?
   Vì thấy tôi không tự đi bằng đôi chân của mình, bao người đã vì yêu Chúa, hay “nhìn thấy Chúa trong tôi” nên sẵn sàng làm chân làm tay cho tôi đi lại. Được yêu thương, tôi càng thấy họ giống như Chúa vậy. Tôi hạnh phúc vì được Chúa yêu, họ hạnh phúc vì được yêu Chúa. Chúa ơi! cứ như vậy thì ngay lúc này chúng con đang hưởng hạnh phúc tràn đầy trong Vương Quốc Tình Yêu của Chúa đấy thôi.

                                                              Én Nhỏ

=======================

Suy niệm 5: CÁI CHẾT ĐÁNG SỢ CHĂNG?
 
Đã là con người xác phàm nhân thế, thì đứng trước cái chết, ai mà chẳng sợ. Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Gét-si-ma-ni) đối diện với cuộc tử nạn, Ngài cũng sợ, nhưng không thoái lui: "...Xin vâng theo ý Cha, đừng theo ý con” (x. Mt 26, 39).

Lẽ thường tình, cái chết là một sự dứt bỏ, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì  phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất (người thân yêu, tiền tài, địa vị, chức tước, thành công, thành đạt, kể cả những gì nuối tiếc). Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.

Thế nhưng, với nhãn quan của người Ki-tô hữu, chúng ta nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin, chan chứa niềm cậy trông Phục sinh của Đức Giê-su. Thật vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết chẳng phải là một chấm dứt/kết thúc, mà là một khởi đầu/khởi sự; chẳng phải là một chuyến ra đi vô định, mà là cuộc trở về nhà Cha mãi mãi; chẳng phải là một chia lìa vĩnh viễn, nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, với chư Thánh nam nữ, với anh chị em (những người ra đi trước chúng ta). Từ đó chúng ta rút ra rằng: trước cái chết, ai cũng sợ, nhưng thực sự không "đáng" sợ!

Xin tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quý cha, sơ, thầy, gia đình, bạn bè thân hữu, anh chị em giáo dân, nạn nhân của mọi tai ương-tội ác-bệnh dịch, các hài nhi, thai nhi chưa một lần được 'khóc' chào đời. Nguyện xin lòng nhân hậu Chúa vượt trên mọi nỗi sợ hãi, yếu hèn, thiếu thốn của con người mỏng dòn chúng con, thương đón nhận các linh hồn ấy vào Nước Trời. Amen!
 
Sau cùng, chúng ta cùng suy gẫm thêm qua bài thơ này:
 
Giả như chết là hết
Sống tốt để làm gì
Học hành có nghĩa chi
Nỗ lực thành mây khói
Giàu có rồi cũng chết
Khó nghèo chẳng khác chi
Văn minh, danh tiếng gì
Ra đi trong quên lãng.
 
Thế nên chết chưa (là) hết
Chỉ chuyển tiếp mà thôi
Chết không là đoạn kết,
Bước sang thế giới khác
Chẳng giống chốn dương gian
Chẳng dựng vợ gã chồng,
Không duy trì nòi giống,
Sống như các thiên thần.
 
Ai rồi cũng ra đi
Sớm hay muộn can gì
Nhắm mắt và xuôi tay!
Chết là một chuyến đi
Bước vào đời hằng sống
Khép lại bao sầu khổ
Bình an hằng ngự trị
Hạnh phúc thật mãi liên.

Lm. Xuân Hy Vọng

=====================

Suy niệm 6: BÊN KIA SỰ CHẾT

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ!

Bước vào Tháng 11 - thời khắc mà Giáo Hội cách riêng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Tại châu Âu, Nhật Bản hay miền Bắc Việt Nam, đây cũng là lúc sắc thu, lá phong, lá vàng rực mọi nơi, như nhà thơ Lưu Trọng Lư trong ‘Tiếng Thu’ đã diễn tả mùa thu:      “Em không nghe mùa thu,

                                                      Lá thu kêu xào xạc,

                                                      Con nai vàng ngơ ngác

                                                      Đạp trên lá vàng khô”.

Chỉ một làn gió nhẹ đủ làm những chiếc lá vàng rơi lã chã: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (‘Thu điếu’ của Nguyễn Khuyến). Lá vàng rơi làm trơ trụi cây cành, chẳng còn sức sống trong băng giá mùa đông lạnh rét sau đó. Đặc biệt, tháng 11 là thời khắc nhớ đến thân phận các tín hữu đã qua đời đang được thanh luyện cho ngày sum họp diện kiến Thiên Chúa. Mong trở về hạnh phúc bên Chúa như cây cối đợi xuân sang: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3,1), và “sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu” (Kn 3,5-6). Tác giả sách Khôn Ngoan đã đưa ra lí do rất sắc bén: “Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn” (Kn 3,9).

Chắc hẳn, ai trong chúng ta ít nhiều cũng tự vấn: bên kia cái chết là điều gì đang chờ đợi ta? Là người Công Giáo, chúng ta tin và xác tín: mầu nhiệm các Thánh Thông công, tin phép tha tội, tin xác loài người ngày sau sống lại, tin sự sống đời đời. Vì vậy, chúng ta hết lòng tín thác vào lòng thương xót Chúa, và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn trong suốt cuộc đời, chứ không chỉ những ngày giỗ chạp, hay tháng 11. Nhớ lại câu chuyện: Trên giường hấp hối, thánh Mô-ni-ca nhắn nhủ thánh Âu-gus-ti-nô con ngài rằng: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mỗi khi con tới bàn tiệc Thánh”. Đâu đó, chúng ta cũng đã nghe nhiều về lời nhắn nhủ tương tự từ người thân trước khi từ giã cõi đời như thánh nữ Mô-ni-ca, nhưng rồi ký ức nào cũng phôi phai, và nỗi buồn nào cũng vơi đi, nên nhiều người trong chúng ta lãng quên cầu nguyện hoặc xin lễ như được học giáo lý từ lúc còn bé. Khát vọng tự nhiên nơi mỗi người chính là cần được yêu thương, cần được nhớ tới. Hơn nữa, chẳng ai muốn mình trở nên một hoang đảo cô đơn cả. Nhìn dưới lăng kính đức tin, lời nhắn nhủ van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn là dấu chỉ của lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận giới hạn mong manh bất lực của bản thân.

Để sống mầu nhiệm “các Thánh Thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Ki-tô giáo đã khuyến khích, cổ vũ việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Các thế kỷ sau đó đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức này. Hai ngày lễ Mừng kính Các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định tương ứng vào ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Va-ti-can II trong Hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…” Hơn nữa, đề cập tới sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha…” Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái, vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Vì vậy, Thánh Phao-lô đã khẳng khái: “Chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà” (Rm 5,11). Bởi lẽ, qua Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta biết và tin tưởng vào Thánh ý Chúa Cha: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).

Sau cùng, với niềm tín thác vào Chúa, chúng ta cùng lắng nghe tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa Chay năm 1922, nữ tu Jo-sé-fa xin Chúa cho mình được liên hệ với thế giới luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận: Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho. Một linh hồn nói: “Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó bị đau ốm ba năm, tôi từ chối không muốn xưng tội. Như thế, tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho mình. Tuy nhiên, nhờ những lời kinh cầu và hy sinh của mẹ tôi, mà tôi đã ăn năn thống hối trở về với Chúa. Giờ đây, tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục; tôi van xin soeur cứu giúp để tôi được mau chóng ra khỏi tình trạng này….”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho các linh hồn mau được hưởng nhan Thánh Chúa, cùng với các Thánh trên Thiên đàng. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

======================

Suy niệm 7:  CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI (G 19, 1.23-27a; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37-40)

   Tiếp nối diễn từ về bánh Trường Sinh, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi...” (Ga 6, 37-38).
   Thánh Ý của Cha giàu lòng thương xót là cứu độ tất cả những ai tin vào người Con. Ngày sau hết Người sẽ cho họ sống lại. Nhưng không phải ai cũng hiểu biết Thánh Ý này, nên trước cái chết, người ta hình dung phải ra trước vị thẩm phán công minh, xét xử theo công trạng, đáng tội mỗi người nên càng sợ hãi. Lời hứa trên đây bảo đảm cho con xác tín một người Cha nhân hiền, luôn bao dung tha thứ, mở rộng cung lòng và giơ tay đón lấy từng đứa con trở về, dù quá khứ có xấu xa bẩn thỉu, để hồi sinh, làm mới lại cuộc đời và cho hưởng sự sống muôn đời.
    “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 40).
    Người tin vào Chúa Giêsu là người tha thiết khát mong được đến với Người, để gặp gỡ và được sống mật thiết với Người. Sự sống đời đời không phải chỉ khi nhắm mắt xuôi tay mới bắt đầu, nhưng với người tin thì đang bắt đầu từ ngay hôm nay trong cuộc sống này, khi sống gắn bó với Chúa.
    Thánh lễ hằng ngày là bàn tiệc thánh của Thiên Chúa, tái diễn lễ Vượt Qua. Trong thánh lễ, chúng con được đồng bàn và thông phần vào Thịt Máu của Đấng Phục Sinh, là lương thực nuôi sống muôn đời. Chúng con tin và đón nhận với lòng cảm mến tin yêu. Nhờ siêng năng rước Chúa, chúng con được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
   Cảm tạ Chúa đã ban chính Thịt Máu Chúa cho chúng con được nuôi sống bằng sự sống thần linh. Xin cho mỗi người chúng con đều nhận ra cơn đói khát trong sâu thẳm cõi lòng, để chúng con biết đến lãnh nhận nguồn ân phúc bất tận là chính Chúa. Ước mong mỗi lần tham dự thánh lễ và rước lễ sẽ là cơ hội quý báu, cho chúng con lãnh nhận sự sống đời đời từ chính Chúa.
     Hôm nay cả Giáo Hội dâng lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời. Ước mong qua tháng cầu hồn này, chúng con luôn luôn nhớ đến, dâng lễ và cầu nguyện cho thân nhân, ân nhân và mọi người đã ra đi trước chúng con. Xin cho chúng con biết sống với niềm hy vọng tuyệt đối vào Chúa, Đấng cứu độ, ủi an và sẽ lau sạch nước mắt những người khổ đau, để chúng con cảm nếm được sự dịu ngọt của tình Chúa và được sống viên mãn trong Nước Cha, như niềm hy vọng mạnh mẽ của ông Gióp trong bài đọc I (lễ I): “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị thiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người. Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ” (G 19, 25-27a).

                                                                     Én Nhỏ

===================

Suy niệm 8: SỰ SỐNG THAY ĐỔI CHỨ KHÔNG MẤT ĐI
Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời (2/11): Ga 6,37-40
1. Tiếng kêu của Gióp và khát vọng bất tử nơi con người
Trong bài đọc thứ nhất, ông Gióp – con người đau khổ tột cùng – đã thốt lên một tiếng kêu xem ra tuyệt vọng, nhưng lại tràn đầy niềm tin: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất này. Khi da tôi đây bị tiêu hủy, tôi sẽ được thấy Thiên Chúa.” (G 19,25-26)
Giữa cảnh thân xác mục nát, ông Gióp vẫn khẳng định niềm tin vào Đấng Cứu Chuộc. Đó là tiếng vọng của linh hồn con người muôn thuở: khát vọng được sống mãi, được nhìn thấy Thiên Chúa “bằng chính đôi mắt của mình”.
Con người không được dựng nên để chết, nhưng để sống. Trong sâu thẳm, chúng ta luôn cảm thấy sự chết là một điều phi lý — bởi vì nơi tận cùng của nỗi đau, vẫn có tiếng vọng của sự sống. Chính tiếng vọng ấy là dấu chỉ của Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã đặt vào lòng ta niềm khát mong vĩnh cửu.
2. Đức Giêsu – Lời đáp trọn vẹn cho niềm khát vọng ấy
Tin Mừng hôm nay chính là câu trả lời cho tiếng kêu của Gióp: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không loại ra ngoài... Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,37.40)
Nếu Gióp chỉ “tin mơ hồ” vào Đấng Cứu Chuộc chưa biết tên, thì hôm nay, Đức Giêsu Kitô chính là Dung mạo cụ thể của Đấng Cứu Chuộc ấy. Ngài đến để bảo đảm với nhân loại rằng sự chết không còn là vực thẳm vô định, nhưng đã trở thành cánh cửa mở vào sự sống đời đời.
Cái chết trong Đức Kitô không còn là mất mát, nhưng là cuộc “vượt qua” (pascha) — từ thân phận hữu hạn đến sự sống viên mãn trong Thiên Chúa. Người tin không rơi vào hư vô, nhưng được ôm ấp trong vòng tay của Đấng đã chết và sống lại vì họ.
3. Niềm hy vọng phục sinh – ngọn lửa giữa bóng tối chia ly
Khi ta đến nghĩa trang trong ngày lễ hôm nay, nhìn những nấm mồ phủ đầy hoa và khói hương, lòng ta gợi nhớ bao khuôn mặt thân thương. Có thể thân xác họ đã tan trong lòng đất, nhưng trong Đức Kitô, họ vẫn sống và chờ đợi được phục sinh. Mỗi nén hương thắp lên là sự kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ hay người thân đã qua đời. Nhưng hơn cả nỗi nhớ, là niềm tin rằng chúng ta sẽ gặp lại nhau, vì Thiên Chúa không để mất một ai đã được trao cho Con của Người.
Khi ta cầu nguyện cho người đã khuất, ta không chỉ tưởng nhớ quá khứ, mà còn hướng tới tương lai — nơi chúng ta và họ cùng thuộc về một gia đình vĩnh cửu trong Nhà Cha.
Cầu nguyện cho các linh hồn vì thế là ngôn ngữ của tình yêu vượt qua ranh giới thời gian trong mầu nhiệm “các thánh thông công” (communio sanctorum): người sống cầu cho kẻ đã qua đời, và các thánh cầu thay cho người đang sống.
4. Sống hôm nay trong ánh sáng của sự sống đời đời
Ngày lễ hôm nay không chỉ hướng lòng ta về những người đã khuất, mà còn nhắc ta đang đi trên cùng một hành trình. Cái chết không xa ta như ta tưởng: nó ẩn trong từng hơi thở, trong từng ngày trôi qua.
Nhưng người tin không sợ chết, vì biết rằng sau cửa tử là ánh sáng vĩnh hằng. Thánh Phaolô đã nói: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người.” (2 Tm 2,11)
Vì thế, sống tốt hôm nay chính là cách chuẩn bị cho ngày mai được sống mãi. Sống yêu thương để không hối tiếc; sống quảng đại để cái chết không thể cướp đi điều gì; sống hiệp thông để một ngày kia ta được ở cùng Thiên Chúa và những người ta yêu.
5. Sự sống đời đời – niềm hy vọng cho những kẻ tin
Đức Giêsu khẳng định: “Ý của Cha Ta là tất cả những ai thấy Con và tin vào Con thì có sự sống đời đời.” (Ga 6,40) Những ai tin vào Chúa, dù đã chết, cũng sẽ sống. Những ai đang sống, nhưng tin tưởng vào Ngài, đã mang trong mình mầm sống vĩnh cửu.
Ngày hôm nay, khi thắp nén hương tưởng nhớ người thân, ta hãy để niềm hy vọng phục sinh sưởi ấm lòng mình: Sự sống không bị xóa bỏ, chỉ biến đổi. Cái chết không chia lìa mãi mãi, chỉ mở ra cuộc đoàn tụ trong ánh sáng. Và tình yêu — khi đã bén rễ trong Thiên Chúa — thì không bao giờ chết.
 “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, và chính mắt tôi sẽ được thấy Người.” (G 19,25-27) Đó cũng là niềm tin của ta hôm nay — niềm tin biến nước mắt thành lời cầu, biến nấm mồ thành khởi điểm của hy vọng, và biến cái chết thành cánh cửa dẫn về Sự Sống.
 

Lm. Thái Nguyên

====================

Suy niệm 9: XUỐNG MAU ĐI!
“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn hối cải ăn năn!”.
“Ai leo lên cây? Khỉ! Ai leo xuống cây? Người! Dẫu đó là một mô tả giản lược về ‘sự tiến hoá’, nhưng nó vẫn nói lên một điều gì đó hối thúc bạn “Xuống mau đi!” để gặp ‘Một Ai đó’ mà người ấy có thể khiến niềm vui của bạn vỡ oà!” - Tgm. Michel Aupetit.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay man mát một niềm vui. Giakêu không còn leo lên cây như ‘khỉ’; nhưng theo lời gọi “Xuống mau đi!” của Chúa Giêsu, ông tụt xuống để làm ‘người’ và niềm vui vỡ oà.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, Giakêu tìm cách nhìn Ngài. Khổ nỗi, ông thấp bé! Giakêu trèo lên một cây sung; Ngài dừng lại, gọi ông, “Giakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. “Khi Chúa Giêsu dừng lại, thế giới của những kẻ bị lãng quên bắt đầu chuyển động trở lại!” - Jean Vanier. “Xuống mau đi” vì tôi đã quá vất vả, nay mới tìm được ông! “Xuống mau đi” vì tôi không cần phải đi đâu xa nữa, tôi đã tìm được người tôi tìm! “Xuống mau đi” vì người ta khinh dể ông bao nhiêu, tôi trân quý ông bấy nhiêu! “Xuống mau đi” vì tôi đang đói, không phải một bữa ăn nhưng đói linh hồn ông! Những lời ấy là một hối thúc dịu dàng, một đề nghị bất chợt, một thỉnh cầu đến kinh ngạc. Trước ánh mắt ấy, trước lời gọi ấy, Giakêu tưởng như mơ… ông vội vàng leo xuống.
Giêricô là thành được sử sách gọi là “Thành Bị Lãng Quên”. Về mặt địa lý, thành này thấp hơn mực biển; về mặt xã hội, thành này chỉ dành cho tiện dân. Ấy thế, Chúa Giêsu vẫn đi vào, dừng lại, Ngài không sợ đến với tầng lớp thấp nhất, ty tiện nhất mà đại diện là Giakêu - một người xấu xa, không thể được cứu thoát. Vậy mà, điều đó không có trong cái nhìn của Chúa Giêsu, Ngài gọi ông bằng tên, “Giakêu” - nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Thú vị thay, trong ‘thành bị lãng quên’, ‘Thiên Chúa nhớ đến’ một người tội lỗi; Ngài đã gọi ông, “Xuống mau đi!” và ông được biến đổi! “Nơi mỗi tội nhân, Thiên Chúa thấy một câu chuyện nên thánh đang chờ được viết!” - Henri Nouwen.
Anh Chị em,
“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi!” - đó là khởi điểm của mọi ơn cứu độ. Chính vì lòng thương xót vô biên ấy, Thiên Chúa không huỷ diệt, nhưng chờ đợi để con người hối cải - bài đọc một. Giakêu đã cảm được ánh nhìn xót thương ấy nơi Chúa Giêsu - ánh nhìn khiến trái tim bằng đá tan chảy, lòng băng giá bừng lửa yêu thương. Gặp được lòng Chúa, Giakêu xé nát lòng mình; ông đứng lên xưng thú và làm việc đền tội - bù đắp và chia sẻ. Cũng thế, ai biết “xuống mau đi”, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo, để Chúa bước vào ‘nhà’ mình, người ấy sẽ được nên công chính, “xứng đáng với ơn gọi” - bài đọc hai - “Khi Thiên Chúa chậm lại, ấy là vì lòng thương xót thích chờ đợi hơn là huỷ diệt!” - Fulton Sheen. Và bấy giờ là niềm vui ắt sẽ đến, “Xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi ngày con lén lút, lập lờ, lây lất đời ‘khỉ’; chỉ khi con chạm đất, con mới gặp được Chúa - Đấng gần con biết mấy - và bấy giờ, con được lại niềm vui!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

=====================

   

Thông tin khác:
 

 

 
 
 
 
Bản tin Giáo phận Hưng Hóa: Từ ngày 27/7 - 02/8/2025
Liên kết website

 

 

 

Tiêu điểm
Bộ Giáo lý Đức Tin công bố văn kiện về các tước hiệu của Đức Mẹ
Bộ Giáo lý Đức Tin công bố văn kiện về các tước hiệu của Đức Mẹ
Ngày 4/11/2025, Bộ Giáo lý Đức Tin đã công bố “Ghi chú tín lý” về các tước hiệu của Đức Trinh Nữ Maria. Văn kiện mang tựa đề “Mater populi fidelis” (“Mẹ của Dân Thánh Chúa”) được Đức Thánh Cha Lêô XIV phê chuẩn ngày 7/10/2025, tái khẳng định nền tảng Kinh Thánh và truyền thống của lòng sùng kính Đức Mẹ, đồng thời định hướng mục vụ đối với những tước hiệu dễ gây hiểu lầm.
Website giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log