Trong xã hội đầy chuyển biến, thế giới với biết bao nhiêu nhiễu nhương, mâu thuẫn giữa các quốc gia, giữa các châu lục, nhất là thời điểm dịch bệnh ngày càng gia tăng, hơn ai hết, con người chúng ta cần đến sự bình an tâm hồn thật sự, cần đến tình yêu mến, lòng tương thân tương trợ, và đoàn kết vượt qua cuộc khủng hoảng chung này.
Đối với mỗi người, được bình an trong đời có thể khác nhau ở cách diễn tả, khác nhau cách biểu lộ, cũng như những biểu hiện của nó. Tuy nhiên, với người Công giáo chúng ta, sự bình an thật sự nơi tâm hồn không gì khác chính là được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô Phục Sinh, và được cảm nghiệm niềm vui Phục Sinh mà chính Ngài đã mang lại cho chúng ta trong đời sống thường nhật, qua việc tham dự bàn tiệc Thánh, qua việc đọc-suy gẫm Lời Chúa, qua việc cầu nguyện không ngừng mỗi ngày, qua việc bác ái, tha thứ, chia sẻ với tất cả mọi người, nhất là những ai túng thiếu kể cả về vật chất cũng như tinh thần.
Khi ngẫm suy các trình thuật Kinh Thánh về Chúa Phục Sinh, chúng ta biết rằng: sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Ki-tô thấu tỏ nỗi bất an trong tâm hồn, tâm trí của các môn đệ. Ngài biết rõ sự sợ hãi, e dè, nhút nhát sâu kín nơi họ. Ngài hiểu thấu các ông đang trong tình cảnh tinh thần sa sút, thái độ bỏ cuộc, tâm lý ‘nhắm mắt đưa chân’ thà về quê làm lụng vất vả còn hơn ở lại Giê-ru-sa-lem với tâm thế bị dằn xé, hồi tưởng thời khắc Thầy mình chịu khổ hình nhục nhã, rồi bị đóng đinh trên thập giá như một tên tử tù! Chính vì vậy, mỗi lần hiện ra với các ông, điều Ngài làm trước hết, chẳng phải nhắc lại chuyện cũ, hoặc than phiền trách móc vì sự bỏ mặc, chạy trốn của các ông, mà là trao ban bình an từ chính Ngài, Đấng đã chiến thắng sự chết, chiến thắng bức tường ngăn cách cuối cùng trên dương gian mà mỗi con người sớm muộn gì cũng phải đối mặt, “bình an cho các con, Thầy đây, đừng sợ!” (Lc 24, 36). Nói cách khác, Chúa Giê-su rất ư tâm lý, Ngài chỉ muốn lấp đầy con tim, tâm trí các môn đệ với sự yên hàn, an bình thật sự mà thôi.
Thế nhưng, với bản tính yếu đuối con người, các môn đệ chưa ra khỏi tình trạng bối rối, hoang mang, thậm chí mơ tưởng, nghi ngờ, không dám tin vào đôi mắt bản thân đang được nhìn thấy Thầy mình đã sống lại, hiện diện trước mặt. Sự bất an nơi tâm hồn kéo theo vô vàn hệ luỵ trong đời. Tương tự như các Tông đồ, mỗi lúc bất an, bất ổn, chúng ta thường rơi vào tình cảnh rối bời, lo âu, mất niềm tin, trở nên ngờ vực, đa nghi…, và nếu cứ để hoài như vậy, thì chúng ta sẽ chẳng thể nào cầu nguyện được, chẳng thể nào làm việc, hay sinh hoạt ở bất cứ bậc sống nào, kể cả đời sống tu trì, đời sống gia đình, cũng như đời sống thường ngày. Hiểu rõ điều này, nên sau khi chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Ki-tô Phục Sinh cho họ tương tác thân tình như Ngài đã từng hiện diện trực tiếp, cùng đi, cùng sống với các ông trong ba năm ròng rã đó đây rao truyền Nước Trời, “hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây” (Lc 24, 38); ngoài ra, “Người ăn trước mặt các ông, và đưa phần còn lại cho họ” (Lc 24, 43). Người mà các ông kề cận, thân tình trước kia, giờ đây vẫn với thân hình ấy, với đôi mắt nhân ái ấy, với đôi tay, đôi chân bị đóng đinh ấy, người mà đã cùng ngồi chung, ăn uống với các ông…chứ đâu phải một người nào khác xa lạ. Thật sự, khi tảng băng bất an tan chảy, nhường cho sự tin tưởng, kết thân tình, tương tác mến thương, thì đây chính là kết quả của bình an đích thật chân chính, mà Chúa Ki-tô Phục Sinh trao ban.
Kế đến, niềm bình an Chúa Ki-tô Phục Sinh được toả lan, sưởi ấm cái lạnh giá, khô cứng, đóng băng trong tâm hồn các môn đệ, và hơn hết, mở đôi mắt, mở đôi tai, mở lòng trí các ông ra, ngõ hầu biết đón nhận, am hiểu Kinh Thánh: “đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh” (Lc 24, 44). Thế nên, dần dần tâm hồn các ông được tràn đầy sự bình an của Chúa Ki-tô, tâm trí các ông được khai sáng, hiểu ra sứ mệnh của Thầy mình, đó là: phải chịu tử nạn, nhưng ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Lc 24, 47). Và khi đã được thấm nhuần, các môn đệ can đảm ra đi làm chứng cho Thầy Giê-su. Điển hình, Thánh Phê-rô trở nên chứng tá cho Chúa Ki-tô Phục sinh: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Ki-tô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ" (Cv 3, 18-19). Nói cách khác, khi được đón nhận sự bình an đích thật của Chúa Ki-tô Phục Sinh, các môn đệ ‘chiến thắng chính bản thân’, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, vì tin chắc: Chúa Ki-tô Phục Sinh đang hiện diện, đang cùng sống, đang cùng đi với các ngài, nên chẳng cần lo chi! Theo Thánh Gio-an, “…thì chúng ta có Đức Giê-su Ki-tô, Đấng công chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian” (1Ga 2, 1-2)
Sau cùng, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận sự bình an nơi Chúa Ki-tô Phục Sinh, và can đảm ra đi chia san với hết mọi người trong mọi lĩnh vực, mọi thời, mọi nơi như Lời Chúa nhắn nhủ chúng ta: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48).
Chúa Ki-tô Phục Sinh
Đem an bình khắp nơi
Nào ta hãy nhớ Lời:
Loan truyền người muôn nơi. Alleluia. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
====================
Suy niệm 5
CHỨNG NHÂN
Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm hân hoan vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Vui Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Tin mừng hôm nay kể chuyện, hai môn đệ nhận ra Chúa cho nên như mọc thêm cánh bay về Giêrusalem, loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, khi đó chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (c 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (c 40). Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (c 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng, Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Chúa Phục Sinh xuất hiện như người mục tử đứng giữa đàn chiên vừa gom về. “Bình an cho anh em”.Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Chúa phải ổn định tinh thần các ông, ban bình an để làm cho tâm trí các ông bình tĩnh mà sáng suốt nhận định rõ ràng. Rồi Chúa các ông thấy vết đinh ở tay, chân của Chúa, cho các ông sờ để thấy đúng là Chúa,Đấng có xương có thịt vẫn ở giữa các ông. Chúa còn cho thêm một dấu hiệu khác nữa là ăn trước mặt các ông. Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Chúa ăn là để cho các môn đệ yên lòng và thấy rằng Ngài sống lại thật rồi. Một hành động tức thời và rất tâm lý của Chúa là ăn để đảm bảo rằng mình đang sống. Chúa ăn để minh chứng rằng Chúa sống và Ngài vẫn là “một” trước khổ nạn cũng như sau sống lại…Ma thì không có thân xác nên không thể ăn được. Chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát. Chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống. Chúa Phục Sinh không phải vì đói mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ biết rằng Ngài đã sống lại.Một người sống thì đứng được, đi được, nói được, ăn được. Chúa cho các ông tất cả các bằng chứng ấy để nhận biết chính là Chúa đang sống và đứng giữa các ông.
Sau khi các môn đệ vững tin, Chúa dạy dỗ các ông. Ngài nhắc lại những lời đã nói khi còn ở giữa các ông liên quan tới sự ứng nghiệm mọi lời chép về Chúa trong Cựu ước. Trên đường Emmau, Chúa giải thích cho hai môn đệ “tất cả những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh”, bây giờ Chúa tóm tắt nội dung gồm hai phần:sứ mạng của Chúa và sứ mạng của các môn đệ. Chúa đã hoàn thành sứ mạng của Chúa. Bây giờ đến phiên các môn đệ phải thi hành sứ mạng của mình. Chúa đã chết và phục sinh đem lại ơn tha tội. Đến phiên các môn đệ phải rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Họ phải rao giảng với tư cách là chứng nhân. Để thực thi sứ vụ này, các môn đệ phải lãnh nhận Thánh Thần là quyền năng từ trên cao ban xuống.
Trong bài đọc 1, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2,41).
Bài đọc 2, thánh Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi hãy làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống, đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
Đức Giêsu Phục Sinh đã làm nhiều cách để chứng minh rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu thế hệ tín hữ nối tiếp đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Các ngài làm chứng nhân bằng việc từ bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính mạng sống.
Ngày nay, chúng ta làm chứng về Chúa Phục Sinh bằng cách thuật lại cho người khác về cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu; bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua môi miệng chúng ta; bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái; bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…
Xin Chúa cho chúng con biết chuyên chăm năng học hỏi Lời Chúa hằng ngày, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con biết chu toàn sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
=====================
Suy niệm 6
Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh
( Lc 24, 35 – 48 )
Sự kiến Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê (x. Lc 24, 1 - 12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Galilêa, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp lòng họ sốt sáng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 - 35).
Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ "bối rối tưởng mình thấy ma" (Lc 24, 37).
"Bình an cho các con ! Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ "vẫn còn chưa tin" (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng : "Chính Thầy đây" (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).
Lời Chúa sưởi ấm con tim
Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộc bạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và "giải thích" Kinh Thánh, "bắt đầu từ Môsê và các tiên tri", giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ðấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó : "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn " ( Lc 24, 29 ).
Thánh Thể mở mắt đức tin
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giêsu chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi " bẻ bánh " đơngiản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ " chỗi dậy trở về Giêrusalem " ( Lc 24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho " mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp " (Lc 24, 33).
Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã "nhận ra" Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giêrusalem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra.Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta: " Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến" ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với họ.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
===================
Suy niệm 7
Chính anh em là chứng nhân
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24, 35-48