Chúa nhật, 24/11/2024

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B

Cập nhật lúc 08:29 17/03/2021
Suy niệm 1
Chúa Giêsu xao xuyến !
Ga 12, 20 - 33
Giờ chết đến
Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa biết trước giờ Chúa được tôn vinh.
- Giờ Chúa như hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi để sinh nhiều bông hạt.
- Giờ Chúa phải chết để cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Vào ngày lễ Vượt qua hôm đó, có mấy người Hy Lạp muốn gặp Chúa. Họ muốn tôn vinh Chúa.
- Nhưng chính lúc đó Chúa lại chọn để thông báo cho các môn đệ rằng: Chúa sắp biến khỏi thế giới này.. 
- Đối với những người tìm cách giải mã vinh quang của Chúa Cha trên khuôn mặt của Chúa Giêsu, Chúa lại loan báo cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì chưng Chúa là Con Thiên Chúa, Chúa biết sẽ chết bằng cách nào. Chúa biết rằng Vinh quang của Chúa phải trải qua Thập giá.
Khi từ trời phát ra một giọng nói khẳng định chiến thắng của Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại trả lời trước đám đông rằng: Tiếng đó phán ra không phải vì Tôi, nhưng vì các ngươi.
- Chúa Giêsu không cần bằng chứng sống động về chiến thắng của Ngài.. 
- Ngài biết Ngài là Con Thiên Chúa đến để khai trừ thủ lãnh thế gian.
- Ngài biết, qua cái chết, Chúa Cha sẽ làm cho Ngài sống lại và chiến thắng. 
- Ngài biết, Vinh quang của Chúa Cha là nhân loại được sống, mà Ngài là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. 
- Ngài biết, Thập giá là dấu chỉ của chiến thắng!
Giờ xao xuyến
- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, Chúa Cha sẽ chiến thắng tất cả các quyền lục của tử thần
- Chúa Giêsu biết rằng khi đặt sự sống của Ngài trong tay Chúa Cha, khi hy sinh sự sống thể lý của Ngài trên trần gian này để cứu nhân loại, Chúa Cha không chỉ giữ gìn Ngài, mà còn cho Ngài sinh nhiều hoa trái.
- Chúa Giêsu biết rằng nếu chúng ta theo Ngài, chúng ta sẽ được mời gọi tôn vinh Chúa Cha, Đấng ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
- Chúa Giêsu biết cái chết và biết chiến thắng. Ngài luôn biết trước mọi thứ. Và, ngày hôm đó, Ngài xao xuyến: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”!
Chúa Giêsu được đảm bảo sẽ chiến thắng. Nhưng sự đảm bảo này không hề làm lu mờ thử thách lớn lao cao độ.
- Giờ đó, Chúa Giêsu xao xuyến! Ngài là Con Thiên Chúa, đã kết hôn với nhân loại đến mức chia sẻ với chúng ta thử thách khắc nghiệt này của cái chết. 
- Chúa Giêsu tự nguyện gánh lấy trọng lượng nỗi thống khổ căn bản của chúng ta. 
- Chúa Giêsu xuống đáy vực thẳm. Ngài là ánh sáng thế gian, nhưng lại sống giờ bóng tối này.
- Chúa Giêsu đảm nhận nỗi lo sợ của chúng ta để chúng ta cũng có thể gặp được Chúa!
Giờ vượt qua
Chúa Giêsu nói: “Nếu ai phụng sự Tôi, hãy theo Tôi, và Tôi ở đâu, thì người phụng sự Tôi cũng sẽ ở đó”.
- Chúng ta biết rằng khi theo Chúa chúng ta sẽ chiến thắng tội lỗi, đau khổ và sự chết. 
- Chúng ta đảm bảo rằng Chúa Giêsu làm cho chúng ta sống lại từng ngày. 
- Chúng ta tin rằng vào ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ bẻ gãy then chốt của sự chết cho chúng ta.
Chúng ta rất muốn có đức tin như vậy! Đức tin như vậy giúp chúng ta thoát khỏi mọi lo lắng sợ sệt! Nhưng ngay lúc này, chúng ta rất muốn được đảm bảo phục sinh để thoát khỏi mọi thử thách, thoát khỏi cái chết! Tuy nhiên, đó chỉ là một giấc mơ! Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi giấc mơ đó. Để có được một sự sống khác, không ai có thể thoát khỏi nỗi thống khổ của cái chết trên trần gian này!
Khi màn đêm buông xuống, chúng ta có thể kêu lên: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”! Ngay cả trong nỗi thống khổ không biết làm gì được, chúng ta cứ hãy kêu lên tiếng kêu này, vì đó là tiếng kêu của Chúa Giêsu. Nhiều khi chúng ta không thể nhận thức được rằng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, đã không bỏ rơi chúng ta. Những lúc như thế, chúng ta tưởng rằng Thiên Chúa vắng mặt. Dù sao, chúng ta hãy kết hợp mật thiết với Ngài, hãy cứ kêu lên Ngài và Ngài sẽ có mặt trước chúng ta!
Con Thiên Chúa đã làm cho tiếng kêu của Ngài thành tiếng kêu của chúng ta. Thiên Chúa không chỉ ở trong niềm vui Phục Sinh, Ngài còn ở trong nỗi thống khổ và sợ hãi về sự trống rỗng đang hành hạ nhân loại. Chúng ta sẽ không thấy được Ngài trong cuộc sống nếu không muốn trải qua sự từ bỏ.
Khi gặp nỗi thống khổ, theo gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để có thể nói: “Giờ này linh hồn con xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”! Và chúng ta hãy kêu xin Ngài dẫn chúng ta từ cái chết đến sự phục sinh! Amen!
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
==================
Suy niệm 2
Ga 12, 20 – 33
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê su đang thưởng thức hai niềm vui cực ký lớn.
Niềm vui thứ nhất: Đón tiếp lương dân đến chào thăm.
Suốt ba năm truyền đạo, Chúa ưu tiên đến với dân Do Thái. Nhưng sau đó lương dân là mục tiêu tối ưu. Chúa yêu người ngoại tới mức độ Chúa cho người ngoại đóng vai lý tưởng trong dụ ngôn “Người Samari nhân từ”. Trong khi người Do Thái kỳ thị người ngoại, thì Chúa đã đề cao ông sĩ quan ở Caphacnaum vừa là người ngoại, vừa là quân xâm lược. Chúa tuyên bố với người Do Thái đang theo Người rằng: “Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Israel”. Trước khi về trời, Chúa đã gửi lại lời trăng trối linh thiêng: “Chúng con hay đi khắp trần gian loan báo Tin Mừng”.
Cái tâm của Chúa dành cho người ngoại là vậy. Vì thế mà hôm nay người ngoại đến chào thăm Ngài, Ngài mừng quá!
Nhưng niềm vui lớn này được trả giá rất cao. Chúa ví von rằng: muốn có một bông lúa nặng hạt, thì hạt giống phải rơi xuống đất, phải tự hủy trước đã. Phải cho đi tất cả, rồi mới có được tất cả. Phải cho đi, thì mới được nhận lại. Cái giá mà Chúa phải trả là Chúa phá luật, băng qua miền Samari bị vạ tuyệt thông. Lãnh đạo Do Thái chống đối Chúa về hành động này, nhưng nhờ đó mà Samari sau này trở thành một Giáo hội phồn thịnh và bình an.
Niềm vui thứ hai: Đến lúc vinh quang của Chúa Cha được thể hiện. Vinh quang Chúa Cha được thể hiện bằng cách nào? Bằng cách Chúa Con bị đóng đinh theo ý của Chúa Cha, để mọi người tin vào Chúa Con sẽ được cứu độ. Việc hy sinh cao cả này được tiên báo bằng hình ảnh con rắn bằng đồng được Mô sê treo lên cành cây. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì thoát chết.
Cuộc hy sinh này khiến cho Chúa phải thốt lên trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu được, thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Chúa Con tôn vinh Chúa Cha tới mức đó là tận cùng rồi. Chúa Con hy sinh trọn vẹn theo ý Chúa Cha để trở nên Đấng Cứu Độ loài người.
Chúa Cha yêu loài người đến mức độ đòi hỏi Chúa Con phải hy sinh đến như thế. Chúa Con cũng đã yêu thương Chúa Cha và loài người đến mức độ phải chết đau chết nhục như thế. Thế mới biết loài người chúng ta được Chúa yêu thương biết dường nào! Hiểu như vậy, chúng ta phải cảm động và biết ơn Chúa biết bao nhiêu cho vừa. Quả thật, như Chúa đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người chết cho người mình yêu”. Yêu đến thế là cùng! Liệu chúng ta có cảm nghiệm được điều đó không?
Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
==================
Suy niệm 3
CHUYỂN HOÁ GẤP TRĂM
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được.
Giá như có bí thuật nào giúp ta làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giê-su tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy? 
Dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy được rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương cho thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi.  Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề của người đi đường dẫm đạp lên nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe tải ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.  
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Nhưng lạ lùng thay, sự chuyển hoá nhiệm mầu nầy chỉ xảy ra khi nó chịu phân hủy trong bùn!
Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế. Ngài nói: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (nghĩa là hy sinh thân mình vì Chúa), thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi Chúa Giê-su bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Ngài đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn hèn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giê-su, xoá sổ Đức Giê-su... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giê-su đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Thế là, giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa không muốn chúng con sống như hạt lúa nằm yên bên vệ đường, nghĩa là sống ích kỷ, chỉ biết chăm lo cho riêng mình để rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Chúa muốn chúng con hiến thân vì Chúa để có thể chuyển hoá gấp trăm.
Xin cho chúng con chấp nhận hy sinh quên mình để phụng sự Chúa và phục vụ những người đang cần đến chúng con; nhờ đó, chúng con mới được sống đời đời với Chúa. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
================== 
 Suy niệm 4
Giao ước tình thương
(Gr 31,31-34; Ga 12, 20 – 33)

Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực nữa.
Phản bội giao ước
Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.
Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về "giao ước mới", ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngọai mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm : “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.
Giao ước tình thương
Nội dung của giao ước mới là : “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia : “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em " (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: "Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước "khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân" (Gr 31, 34 ). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong "giai đoạn" vượt qua.
Đức Kitô kiện toàn giao ước
Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng, nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với Thiên Chúa.
Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì Ðến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).
Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x.Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vây, bằng lời hứa bất biến Thiên Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa: “Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.

Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl 8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed 20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).
Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x.Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

=================
Suy niệm 5
DẪU LÀ CON THIÊN CHÚA

Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ bậc quan hệ: quân - sư - phụ (vua - thầy - cha [ba, bố]) được nhấn mạnh, thậm chí được truyền tụng đến tận ngày nay. Một điều theo lẽ thường tình, rằng: vua, con vua (hoàng tử) và hoàng tộc chẳng phải làm những gì thường dân làm, nhất là: vua chẳng đời nào cúi xuống ‘rửa chân’ cho người dân, và chưa bao giờ gọi dân thường là ‘bạn hữu’!
Thế nhưng, chuyện ấy lại xảy ra đối với Đức Giê-su Ki-tô đầy lòng thương xót của chúng ta. Tuy Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2, 7). Chưa hết, Ngài “lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 8). Nếu theo quan điểm cấp bậc trong xã hội, hoặc tư tưởng con người, Ngài đã làm những chuyện đáng lẽ không nên làm! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta nhớ lại lời Ngài phán dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45); hơn nữa, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (x. Is 55, 8), thì ắt hẳn chúng ta hiểu phần nào hành động của Đức Giê-su. Chính vì vậy, Ngài vâng theo thánh ý, chương trình, tư tưởng của Chúa Cha, và thực hiện chúng, hơn là bước theo lối riêng mình hoặc cách thức, quan điểm, quan niệm, tư tưởng của con người. Mặc khác, Ngài sống đúng mực, nhất quán với những gì Ngài giảng dạy. Ngài không hề thương thuyết, hay thương thảo, hoặc tìm con đường trung lập dễ giải, hầu làm hài lòng mọi người. Đúng hơn, Ngài dành toàn tâm toàn ý sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha, “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5, 8; x. Pl 2, 8). Noi gương Ngài, chúng ta biết vui tươi hoàn thành trách vụ, phận vụ của mình, dù mức độ đòi hỏi, yêu cầu khác nhau, nhưng ở bậc sống nào đi chăng nữa, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, Đấng mà chúng ta tín thác, tôn thờ, và cậy trông.
Dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng khi còn sống kiếp phàm nhân, với bản tính con người, Ngài “đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết…” (x. Dt 5, 7). Là con người, ai mà không sợ hãi khi đối diện với cái chết, với bức tường vô hình sau cùng của đời dương thế! Đức Giê-su cũng vậy, Ngài lo sợ, đến nỗi lớn tiếng kêu van khóc lóc, khẩn nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu trước khi chịu cuộc thương khó, tử nạn (x. Mt 26, 37-45). Tuy nhiên, Ngài vẫn một lòng vâng phục, không hề quên thực thi thánh ý Chúa Cha “…xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39). Chúng ta cùng nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bài đọc I hôm nay: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33; 24, 7; 32, 39-40; x. 2Cr 3, 3; Dt 10, 16). Như thế, với bản tính con người, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Is-ra-el và với chúng ta. Ngài thực hiện cách hoàn mỹ ý định, chương trình của Thiên Chúa Cha nơi dương gian. Từ đó, soi chiếu bản thân mình, chúng ta nhận ra vô số thiếu sót, vì biết bao lần, chúng ta không thực hiện hoặc chưa sống giao ước, giới răn mà Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm khảm, vào lương tâm chúng ta, cũng như qua lời giảng dạy của Giáo hội, qua lời nhắn nhủ, nhắc nhở của thừa tác viên có chức Thánh!
Ngoài ra, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su Ki-tô đã trở nên hạt lúa miến, chịu gieo vào lòng đất, chịu thối đi, hầu trổ bông, sinh hoa, kết trái, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng ta, cho những ai “hy sinh mạng sống mình ở đời này để được sự sống đời đời” (x. Ga 12, 25), và cho tất cả mọi người phụng sự Ngài (x. Ga 12, 26) như lời tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã xác tín: “…và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (x. Dt 5, 9). Quả vậy, là những người mang danh Ki-tô hữu, những người thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ‘hạt lúa miến gieo vào lòng đất, chịu mục nát’, chết đi với biết bao tội lỗi, thói hư tật xấu, bỏ đàng ngỗ nghịch, vô luân, bất tuân phục Thiên Chúa, v.v…, để rồi được trổ sinh kết trái là những ơn lành, sự sống mới, ân thiêng, sức mạnh, nhiệt thành thực hiện sứ mệnh loan truyền tình Chúa, và làm chứng tá cho Ngài trong cuộc sống thường nhật.
Giờ đây, chúng ta cùng hướng nhìn lên Thánh giá Chúa chịu treo, và thầm thì nguyện cầu:
Dẫu là Thiên Chúa cao sang
Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm thế nhân.
Chịu cuộc thương khó, hiến thân
Hy sinh tử nạn, thánh ân tuôn tràn.
Xin cho con bước hiên ngang
Một đời theo Chúa, bình an cõi lòng.
Vai mang thập tự, cậy trông
Trung thành, tín thác, khát mong tâm hồn.
Chúa phục sinh, Đấng chí tôn
Ân ban trìu mến, thiên môn mở đường. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

==================
Suy niệm 6
Chúa chết để con được sống

Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33

“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Theo định luật tự nhiên, để có bông hoa đẹp tươi nở khoe sắc lung linh trên cành, thì nguồn gốc trước kia nó từng là một hạt nhỏ xấu xí, khô lóc. Nhưng khi gặp đất và nước, nó chương lên, nứt nẻ rồi bung ra, ngoi lên mầm sống mới, cây từ từ phát triển đến lúc nở hoa sinh trái. Hạt lúa được gieo vào ruộng bùn cũng phải chương lên, hư thối để mọc lên cây mạ, rồi thành cây lúa tươi tốt và cuối cùng sinh bông hạt trĩu nặng, từ một hạt chịu thối đi thành trăm triệu hạt mới. Đó là một cuộc đánh đổi tự nhiên mà vô cùng lời lãi. Bởi vì “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15, 42-44). Chính Đức Giêsu đã từ bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự, để rồi sinh ơn cứu rỗi, cho muôn người được ơn cứu độ và bước vào sự sống mới.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa thật dễ hiểu để áp dụng cho cuộc đời của Người, đồng thời là qui luật chung cho những ai muốn bước theo Ngài. Người chính là hạt lúa được gieo vào lòng đất. Cuộc thương khó và cái chết của Người dẫn tới sự sống bất diệt, để quy tụ dân Do Thái và dân ngoại thành một cộng đoàn vô cùng đông đảo những người được cứu.
Trong cuộc đời người Kitô hữu, nếu tôi sẵn sàng chịu bung vẩy trày sứt vì lội ngược dòng đời, để sống theo Lời Chúa dạy, chết đi cho những tội lỗi, nết xấu, thì chính Chúa sẽ biến đổi, làm cho tôi được lại sự sống mới.
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” (Ga 12, 25-26). Đức Giêsu quả quyết: “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” Cái được- mất trong sự bỏ mình hay giữ lấy, Người đã chứng minh bằng luật tự nhiên: “Nếu hạt giống rơi xuống đất không thối đi, nó sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ nảy sinh hàng trăm những hạt khác”. Với ý nghĩa này, ta có thể nhận ra lý do phải hy sinh, “chết” đi để được “sống”. Ai chăm lo tìm kiếm lạc thú ở đời này thì sẽ mất đời sống vĩnh cửu. Còn ai dám từ bỏ bản thân vì Chúa và vì Tin Mừng thì sẽ được hưởng sự sống đời đời mai sau. Người môn đệ - “kẻ phục vụ Thầy” cũng phải đi cùng một con đường như Đức Giêsu để đạt tới vinh quang. Như hạt lúa, chúng con cũng phải chết đi cho tội lỗi để sinh nhiều bông hạt.
Lạy Chúa! Chúa chính là hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa chịu chết cho chúng con được sống muôn đời, cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để cho nhiều bông hạt. Chúa đã thí mạng vì chúng con, nên mẫu gương hy sinh cả mạng sống mình cho muôn thế hệ. Xin cho chúng con mỗi ngày biết hy sinh, đánh đổi cho những giá trị cao cả của Tin Mừng, để mỗi ngày đời con trở nên như một của lễ đẹp lòng Chúa. Amen.
Én Nhỏ
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log