Suy niệm 1
Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người...và chúng tôi đến để triều bái Người ------------------- Giáng sinh và Hiển Linh là 2 ngày lễ trọng nối tiếp nhau của Giáo Hội Công Giáo. Chúng ta có thể nói cách khác, 2 ngày lễ này có thể gọi là hai mặt của cùng một ngày lễ: Đấng Cứu Thế được biểu lộ cho toàn thể nhân loại.
- Lễ Giáng sinh, chỉ biểu lộ cho người Do Thái, trong đó có các mục đồng tại Belem, làm nhân chứng.
- Còn lễ Hiển Linh được biểu lộ cho dân ngoại. trong đó các đạo sỹ từ phương Đông đến làm nhân chứng.
Một cách nào đó, ngày lễ Hiển Linh liên quan đến chúng ta rất nhiều, vì chúng ta không thuộc về dân Giao Ước cũ nữa, mà là dân của Giao Ước mới. Tất cả chúng ta đều là dân Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II: "Các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng với các nhà đạo sỹ đến thờ lạy Chúa Hài nhi là ánh sáng chiếu soi muôn dân mà tiên tri Isaia nói trong bài đọc I: “Mọi dân nước sẽ lần bước tìm về ánh sáng của ngươi và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi”. Các vua mà tiên tri Isaia nói đến ở đây theo các nhà chú giải Kinh Thánh là các nhà đạo sỹ đại diện các châu lục trên thế giới:
Vào thế kỷ VI, người ta goi tên các nhà đạo sỹ đó là: Melchior là người da trắng, Balthazar là người da đen, và Gaspar là người da vàng. Đồng thời các nhà đạo sỹ này cũng được phác họa để đại diện cho 3 loại tuổi của đời sống con người: Melchior là một ông già râu dài, Balthazar là người trung tuổi, Gaspar là một thanh niên không râu. Tất cả những điều đó muốn nói lên rằng mọi dân tộc, mọi da mầu và mọi lứa tuổi đều được mời gọi theo các nhà đạo sỹ đi tìm kiếm Thiên Chúa.
“Mọi dân nước sẽ lần bước tìm về ánh sáng”.
- Ánh sáng trước hết để làm gì? Để xem và để thấy! Các nhà đạo sỹ nói như vậy: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người”.
- Và điều gì xẩy đến với họ sau khi họ xem thấy ngôi sao? Tin Mừng trả lời: “Khi nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy bà Maria mẹ Người, và họ đã quỳ xuống sụp lạy Người”.
Như vậy, các mục đồng và các đạo sỹ với con mắt xác thịt của họ đã thấy Thiên Chúa Hài Nhi và họ đã thờ lạy Người. Phần chúng ta, điều gì làm cho chúng ta thấy? Chúng ta có xem thấy Thiên Chúa Hài Nhi với con mắt của đức tin của chúng ta không?
Tin mừng đã cho chúng ta thấy và chiêm ngắm câu chuyện tình tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại. Câu chuyện tình đó chính là lịch sử cứu độ. Lịch sử cứu độ, lịch sử về một mối tương quan mà chúng ta vừa là nhân chứng đã được nghe trong Tin Mừng, vừa là nhân chứng được tham dự vào tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại chúng ta.
Vâng, chúng ta cũng có thể thấy Thiên Chúa Hài Nhi bằng con mắt đức tin của chúng ta! Nhận ra Thiên Chúa Hài Nhi và Thiên Chúa Hài Nhi sẽ làm chúng ta tới gần Chúa Cha. Nhận ra Thiên Chúa Hài Nhi, chúng ta sẽ cùng với các nhà đạo sỹ dâng tiến hương lên tôn vinh Chúa Hài Nhi là Thiên Chúa.
Từ lúc còn là Thiên Chúa Hài Nhi nằm trong hang đá cho đến khi lớn lên, trưởng thành và chết trên Thập giá, chúng ta thấy Thiên Chúa hoạt động với bản tính nhân loại khiêm cung và đích thực. Nếu con tim và trí óc chúng ta mở ra, chúng ta thấy Ngài là một Thiên Chúa đáng kinh ngạc...
“Thấy và thờ lạy Thiên Chúa”, là:
- Quyết định đi theo con đường đức tin,
- Ý thức và chấp nhận một mối quan hệ thực sự với Thiên Chúa như thế.
- Khi có mối quan hệ như vậy, chúng ta phải đổi chỗ, phải vất vả tốn công sức, phải đi một con đường khác, phải cam kết biến đổi và phải trở về với Thiên Chúa đang sống. Thiên Chúa đang sống là Đấng đã trải qua cái chết và đã chiến thắng nhờ sự phục sinh.
Thờ lạy Thiên Chúa, đó là:
- Đi vào con đường sự sống, con đường lắng nghe lời Chúa.
- Là nói không với tính ghen tương, dối trá và giết người của một Herode nào đó cám dỗ, và làm chúng ta sa ngã...
“Quỳ gối xuống, sụp lạy Thiên Chúa...” Sụp lạy đó là cử chỉ thờ lạy khiêm nhường và dâng chính bản thân chúng ta cho Ngài. Dâng cho Ngài lòng phó thác tin tưởng, cuộc sống chúng ta như là vàng mà các nhà đạo sỹ ám chỉ vương quyền của Thiên Chúa Hài Nhi. Vì vậy, với tất cả những quà tặng này, chúng ta sẽ trải nghiệm một niềm vui trọng đại và lớn lao như các nhà đạo sỹ: “Họ hết sức vui mừng”.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
=======================
Suy niệm 2
Ánh nến toả sáng trong gia đình
Mt 2, 1-12
Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.
Chính vì thế, khi Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài nhi Giê-su mới hạ sinh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn kêu gọi chúng ta trở nên ánh sao mới để dẫn đưa những người chưa nhận biết Chúa tìm đến với Ngài.
Từ lâu, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sai-a mà nói với chúng ta: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất” (Is 49,6).
Chúa Giê-su cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…” (Mt 5, 14).
Và Thánh Phao-lô tiếp tục kêu mời chúng ta: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Philip 2,15).
Xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình
Trở nên ánh sáng soi dẫn bao người về với Chúa là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì hãy là ánh lửa trên non cao.
Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”
Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì “gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.” Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.
Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:
Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích Thánh tẩy cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.
Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.
Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được dạy cho biết Chúa và giáo lý… Nhờ ơn Chúa, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày Chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đến thờ phượng Chúa trong các ngày Chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: “Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây.”
Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho cô dượng tiến đến gần Chúa hơn.
Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:
“Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì xin hãy là ánh lửa non cao.
Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,
Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
=======================
Suy niệm 3
MỤC ĐỒNG VÀ ĐẠO SĨ
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh.
Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasas là ba nhà đạo sĩ nổi tiếng ở Ðông phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđêa để thờ lạy Ðấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chỉ có hai hạng người đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem. Đó là các mục đồng và những nhà đạo sĩ.
Ðức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,10-12). Còn các đạo sĩ ở bên kia xứ Mêđia và Ba tư nghiên cứu bầu trời, đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng.Thiên Thần cho biết, Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của họ.
Các đạo sĩ là những người thông thái đi tìm gặp Ðấng Cứu Thế. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo, họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng khôn ngoan.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: “Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc” (Ðức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri...nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Ðiều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen với các Mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn (Ðức Cha Fulton Sheen).
Các Đạo sĩ là những người thông thái, học thức, được mọi người trong đất nước mình nhìn nhận khả năng. Chính nhờ kiến thức, tính toán mà họ có thể khám phá ra Ngôi Sao dẫn đưa họ đến tận hang đá. Nhưng một khi đặt chân đến Giêrusalem, những con người khoa học này không còn cậy dựa vào kiến thức của mình nữa: họ dò hỏi các luật sĩ và tiến sĩ Luật, các nhà chuyên môn về Kinh Thánh là chính Mạc Khải của Thiên Chúa. Cũng thế, kiến thức của chúng ta không đủ để giải thích tất cả: như các đạo sĩ, cần phải lắng nghe các ngôn sứ, cả thời xưa lẫn thời nay, để nhờ họ mà có thể nhận biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và tình yêu Ngài mang đến cho mọi loài thụ tạo (Jean Luc Muller, Église en fêtes, Tequi, 1990, tr. 51-59. Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ). Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng tế, các Kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ.
Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
=======================
Suy niệm 4
ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN
(Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a. 5-6; Mt 2, 1-12)
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có nhiều lần Đức Giêsu nói về mạc khải. Tức là Thiên Chúa dùng nhiều thể nhiều cách để tỏ lộ cho con người biết về chính Ngài.
Nói cách khác, Thiên Chúa không tự mạc khải mình ra cho nhân loại, thì con người có cố gắng thế nào cũng không thể biết gì về Ngài được!
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Hiển Linh, lễ này, trước kia gọi là lễ Ba Vua.
Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”.
1. Ý nghĩa “ngôi sao lạ”
Với người Á Đông, theo quan niệm từ ngàn xưa, mỗi khi xuất hiện một ngôi sao lạ trên bầu trời, thì dưới trần, một nhân vật sẽ được chiếu mạng. Đây cũng là lý do khởi điểm của môn chiêm tinh học thời bấy giờ.
Ba nhà thông thái mà Tin Mừng hôm nay nhắc tới, các ngài là những nhà chiêm tinh và thiên văn học, vì thế, công việc chính yếu của các ngài là nghiên cứu về những dấu lạ trên bầu trời bằng kiến thức khoa học và kinh nghiệm.
Khi thấy điềm lạ xuất hiện trên không trung qua vì sao lạ, với khả năng chuyên môn và ơn trên soi sáng, các Đạo Sĩ biết rõ ngôi sao lạ ấy là dấu hiệu loan báo về Đấng Cứu Thế đã giáng trần, vì thế, Đấng mà muôn dân mong đợi cũng là Đấng mà các Đạo Sĩ đang khao khát đợi trông, nên các ngài đã lên đường để đi tìm.
Khi đến Belem, các ngài đã tiến vào triều đình nơi vua Hêrôđê trị vì và mang hai câu hỏi để đệ trình lên vị vua sở tại: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2,2).
Khi hỏi vua Hêrôđê như vậy, các ngài đã chứng minh sự mạc khải của Thiên Chúa cho mình và thể hiện niềm xác tín mạnh mẽ vào Đấng Cứu Thế, nay đã đến và ở giữa nhân loại, quả đúng với lời tiên báo: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Chính sự mong mỏi, khao khát và niềm tin của các Đạo Sĩ đặt nơi Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ, thế nên, dù đường xa dặm thẳm, dù mệt nhọc khó khăn, phải băng rừng vượt biển, trèo đèo lội suối, dãi nắng dầm mưa, lặn lội đêm ngày, nhưng các ngài đã không quản ngại để cùng nhau đi tìm cho thấy “Đấng Mêsia xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” để phủ phục tôn thờ và dâng tặng những kỷ vật quý giá gồm vàng, nhũ hương và mộc dược.
Qua việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ hôm nay, chúng ta nhận thấy: lễ Hiển Linh mở ra cho dân ngoại một chân trời mới với biết bao hy vọng! Điều mà dân Dothái từ xưa đến nay luôn nghĩ chỉ có mình mới được cứu độ, thì với sự tỏ mình ra của Đức Giêsu cho các nhà chiêm tinh chứng minh cho nhân loại thấy ơn cứu độ không thể bị đóng khung cho một quốc gia, một dân tộc, hay một nhóm người nào, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời, để “... tất cả mọi người đều được chia sẻ cùng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, sứ điệp Lời Chúa gợi mở cho chúng ta thấy:
Nếu các đạo sĩ Đông Phương đã nhờ ngôi sao lạ dẫn đường để đến Belem và gặp được Hài Nhi Giêsu, thì mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng soi đường cho người khác đến với Chúa như lời dạy của Đức Giêsu: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14); hay như lời nhắc nhở của thánh Phaolô: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta ngồi ù lỳ trong bóng tối và nguyền rủa bóng đêm! Không! Bởi vì: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,1516). Ánh sáng mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta chiếu tỏa chính là đời sống bác ái, yêu thương và liên đới; sống công bình và làm chứng cho sự thật...
Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Mặt khác, sự kiêu ngạo, hóng hách và tự tôn khi cho rằng mình mới xứng đáng được Chúa thương bởi vì mình xuất thân từ một gia đình đạo hạnh, nề nếp, lễ giáo gia phong... còn những kẻ đã vướng vào vòng lao lý của tội lỗi một thời, hay không cùng niềm tin với mình thì không bao giờ được Thiên Chúa đoái thương và cứu độ! Tuy nhiên, việc Thiên Chúa tỏ mình cho các Đạo Sĩ là những người dân ngoại hôm nay sẽ cật vấn lương tâm của chúng ta nếu đã có lần chúng ta an tâm tự tại để yên bề như những người Pharisêu, Luật Sĩ, Kinh Sư khi có thẻ kinh trên tay, quanh cổ, nơi gấu áo và tự cho mình được quyền đặc tuyển, thì hôm nay cần phải xem lại, bởi vì ơn cứu độ là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ai là tùy ý của Ngài. Mặt khác, những khái niệm đạo đức do chính mình đặt ra và mặc cho nó một tiêu chuẩn rồi uốn nắn, gán ghép Thiên Chúa phải theo thiển ý của mình... những thứ ấy không đủ để đảm bảo phần rỗi, vì nó không được xây dựng trên tình yêu và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được nhạy bén và nhận biết Chúa qua các dấu chỉ, nhất là qua Lời Chúa. Xin ban cho chúng con có được lòng khiêm tốn và yêu mến Chúa như các Đạo Sĩ. Và, xin ban cho chúng con tránh xa thái độ ích kỷ, tàn ác của vua Hêrôđê khi xưa. Amen.
Tu sĩ: Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
=======================
Suy niệm 5
Hãy Làm Cho Ánh Sáng Tỏa Sáng
(Mt 2, 1-12)
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, Thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.
“Epiphaino” có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho Ba Ðạo Sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật dấu ẩn của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, trong Trẻ Thơ Belem. Thì trong lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các Ðạo Sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết như sau: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.” (Is 66, 1-3).
Ðây là một lời mời hướng tới Giáo Hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp thế gian. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo Hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời của nó. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân…
Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: “Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải (là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà Đạo Sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởmg và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
Linh mục Antôn Nguyễn Văn Độ
=======================
Suy niệm 6
Họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người
(Mt 2, 1-12)
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa không những chỉ xuống thế làm người trên mặt đất này, mà còn để cho con người nhìn thấy ; Người không chỉ có sinh ra, nhưng còn để con người biết đến và thờ lạy. Đây là sự thật nhãn tiền được biểu lộ trong ngày lễ Hiển Linh, ngày Chúa tỏ mình ra cách rõ nhất mà hôm nay chúng ta mừng kính.
Hôm nay, các đạo sĩ từ phương Đông đến tìm, họ tìm ai ? Tìm “sự lóe rạng mặt trời đức nghĩa” (Ml 3, 20) như Malaki đã loan báo, tìm Đấng mà chúng ta đọc thấy trong sách Dacaria: “Này có một người, hiệu là ‘Chồi lộc’” (Dc 6, 12). Ai tìm thì sẽ thấy. Họ mỏi công đi tìm theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ và họ đã thấy, họ đến thờ lạy Hài Nhi mới sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do lòng nhân hậu, Chúa tự tỏ mình ra cho người ta thấy như thánh Phaolô viết: “Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh… không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người” (Tt 3,4-5).
Xin hỏi các đạo sĩ : Các ngài đang làm gì, hỡi các đạo sĩ, các ngài làm chi vậy? Các ngài thờ lạy một Trẻ Thơ măng sữa, mới sinh nơi xóm nhỏ đơn nghèo ư? Các ngài tin rằng, Trẻ Thơ ấy là Thiên Chúa sao ? Nhưng “Thiên Chúa ở trong thánh điện của Người, ngai của Người đặt ở trên cao” (Tv 10,4). Còn các ngài, các ngài tìm Chúa nơi hang bò lừa đang nằm trong vòng tay mẹ ẵm sao ? Các ngài làm chi vậy? Tại sao các ngài lại dâng vàng ? Trẻ Thơ này là vua ư ? Nhưng đâu là cung điện cũng như ngai vàng của nhà vua, và đâu là quần thần của nhà vua ? Chuồng bò là cung điện, máng cỏ là ngai vàng, Đức Maria và thánh Giuse là quần thần của vua sao ? Làm sao những người thông thái không thờ lạy Hài Nhi, họ đã bị điên dồ hết rồi sao, phải chăng họ coi thường sự non nớt và cái nghèo của Trẻ Thơ ?
Để nên người thông thái, các đạo sĩ đã trở nên điên dồ; Thánh Thần đã dạy bảo họ trước: “Vì chưng một khi thế gian, đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu những kẻ tin” (1Cr 1, 21). Vì vậy, họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Hài Nhi nghèo này, thờ kính như một vị vua, vị thần. Một ngôi sao hướng dẫn họ bên ngoài đã chiếu tỏa nơi họ ánh sáng huyền nhiệm của chính vì sao.
Chúa là Ánh Sáng
Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, ánh sáng được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là Nguồn Sáng thật, là “Mặt Trời mọc lên từ trên cao” (x. Lc 1,78) chiếu tỏa trần gian và lan ra theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết trên Ðức Maria và Thánh Giuse được chiếu sáng bởi sự hiện diện thần linh của Hài Nhi Giêsu, kế đến là các mục đồng tại Bêlem; khi được thiên sứ báo tin, các ngài mau mắn chạy đến hang đá và gặp thấy nơi đó “dấu chỉ” đã được báo trước cho họ: một con trẻ được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ (x. Lc 2,12). Các mục đồng, cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, đại diện cho “nhóm nhỏ còn lại của Dân Israel”, những người nghèo, những kẻ đã được loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng của Chúa Kitô cuối cùng chiếu toả đến các vị đạo sĩ, quả đầu mùa từ các dân ngoại : “Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng… và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11). Trong khí đó, “cả nhà vua cùng các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân” (Mt 2,3) còn nằm trong bóng đêm, nơi mà tin tức về Ðấng Thiên Sai sinh ra, được thông báo một cách nghịch lý cho họ biết qua các vị đạo sĩ, và khơi dậy không phải niềm vui mừng, nhưng sự lo sợ và những phản ứng thù nghịch (x. Mt 2,3). Ý định của Thiên Chúa quả thật là nhiệm mầu: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” (Ga 3,19).
Nhưng thử hỏi ánh sáng đó là gì đây? Nó chỉ là một biểu tượng gợi ý, hay có một thực tại thật được nói lên qua hình ảnh này? Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là sự sáng, tối tăm không hề có nơi Người” (1Ga 1,5). Và thêm: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Hai lời quả quyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng: Ánh sáng bừng lên trong đêm Giáng Sinh là Tình Yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi chính Lòng Thương Xót Nhập Thể.
Chúa Giêsu “là Ánh sáng đã chiếu soi lương dân và Vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,32); Ðược Thiên Chúa linh ứng, cụ Simêon đã thốt lên như thế. Ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc, ánh sáng của lễ Hiển Linh phát xuất từ vinh quang của Israel dân Chúa, vinh quang của Ðấng Thiên Sai, mà theo Kinh Thánh, đã giáng sinh tại Bêlem, “thành của Vua Ðavít” (x. Lc 2, 10-11). Các đạo sĩ thờ lạy một Hài Nhi đơn sơ nằm trong đôi tay Mẹ Maria, bởi vì các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ này nguồn mạch của hai ánh sáng đã hướng dẫn các ngài: ánh sáng của ngôi sao và ánh sáng của Kinh Thánh. Các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ vị Vua của người Giuđêa, vinh quang của dân Israel, và cũng là Vua của tất cả mọi dân nước.
Giáo hội là ánh sáng
Trong khung cảnh phụng vụ của lễ Hiển Linh cũng được biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Giáo Hội được mời gọi chiếu sáng trong thế giới ánh sáng của Chúa Kitô, vừa phản chiếu ánh sáng đó nơi chính mình, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt trời. Trong giáo hội đã được hoàn tất những lời tiên tri xưa nói cho thành thánh Giêrusalem: “Hãy chỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng, bởi vì ánh sáng của ngươi ngự đến… Các dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của ngươi, các Vua Chúa sẽ đi theo vinh quang của Nguồn Sáng ngươi” (Is 60, 1-3). Người kitô hữu sẽ phải thực hiện điều này: sau khi đã được Chúa huấn luyện sống theo các Mối Phúc, nhờ qua chứng tá của tình thương, phải lôi cuốn mọi nguời đến cùng Thiên Chúa. “Như thế phải chiếu toả ánh sáng của chúng con trước mọi người, ngõ hầu nhờ thấy những việc tốt chúng con làm mà họ tôn vinh Cha chúng con trên trời” (Mt 5,16).
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
=======================
Suy niệm 7
Lên Đường Tìm Thiên Chúa
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại hành trình của các nhà chiêm tinh, thành tâm đi tìm Hài Nhi Giêsu, vị vua Do Thái mới sinh. Họ từ phương đông lặn lội đến Giêrusalem tìm hỏi, chỉ nhờ một ngôi sao dẫn đường. Với sự kiện ba nhà đạo sĩ đi tìm và gặp Chúa Hài Nhi, chứng tỏ Thiên Chúa đã tỏ mình ra không chỉ cho các mục đồng trong ngày giáng thế, mà Chúa còn tỏ mình cho các dân ngoại, cho tất cả mọi người, không loại trừ ai, không phân biệt màu da sắc tộc.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2b). Sự khao khát mãnh liệt được thúc đẩy từ bên trong, khiến các nhà đạo sĩ khao khát tìm kiếm, không gì ngăn cản được, họ quyết tâm mò mẫm lên đường theo dấu chỉ từ ngôi sao lạ. Họ trung thành đi theo ánh sao, dù khi trèo đèo lội suối, lúc gặp đường gai góc quanh co, chắc sẽ có lúc như ngõ cụt, bế tắc, hoặc bóng tối đêm đen, nhưng họ không chán nản, vẫn bền chí trung kiên, cho đến đích cuối cùng nơi Hài Nhi ở: “họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người”. (Mt 2,10). Đây là bài học lớn cho chúng con trong hành trình tìm và bước theo Chúa. Lắm khi cuộc đời gặp sóng gió nổi trôi, thất bại, niềm tin bị lung lay... Nếu chúng con biết tìm đến với Chúa, ánh sáng của Chúa sẽ chiếu soi giúp chúng con biết đi theo đúng đường ngay nẻo chính.
Nhưng ngày nay đâu là ánh sao để chúng con dõi bước tìm theo? Trong Thánh lễ, nơi Lời Chúa và Thánh Thể, trong các Bí tích, giờ kinh Phụng vụ, giờ cầu nguyện riêng và cả những người có kinh nghiệm chỉ lối hướng dẫn, là như ánh sao để chúng con tìm về bước theo. Khi xưa ba nhà đạo sĩ đã phải nhờ đến các vị lãnh đạo tôn giáo, để tìm hiểu và nhận ra đúng địa chỉ mà sách ngôn sứ đã báo trước trong Kinh Thánh.
Lạy Chúa! ngày nay chúng con cũng được mời gọi lên đường tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Ba nhà đạo sĩ đã thờ lạy và dâng Chúa Hài Nhi những của lễ cao quý. Khi chúng con được gặp gỡ Chúa, xin cho chúng con biết hiến dâng tất cả những gì tốt đẹp, cao quý mà chúng con có được. Bằng cả đời sống theo ơn Chúa, chúng con con sẽ trổ sinh những hoa trái tốt lành, khởi đi từ những nghĩa cử đẹp, lòng nhân hậu, quảng đại sẻ chia, để vinh quang Chúa được tỏ hiện rõ trong cuộc đời chúng con. Amen.
Én Nhỏ
========================= Suy niệm 8 CHÚA TỎ MÌNH, CON GIẤU MÌNH
Câu truyện Tin Mừng ngày lễ Hiển Linh hôm nay thuật lại sự kiện các nhà chiêm tinh ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine, đã thấy ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời, điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, và họ đã đi theo ánh sao để tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Các ông phải tìm đến hỏi vua Hê-rô-đê, rồi sau đó ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi. Các ông bái lạy Hài Nhi và lấy các lễ vật ra dâng tiến. Sau đó các ông trở về quê hương mình trước âm mưu và cơn thịnh nộ của vua Hê-rô-đê.
Đã hẳn tôi cũng như nhiều ông bà anh chị em hiểu rằng lễ Hiển Linh nghĩa là kỷ niệm việc Chúa Giê-su tỏ mình ra cho thế giới biết về Ngài. Cụ thể ở đây, Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ mới giáng sinh đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh từ bên phương đông qua ngôi sao lạ dẫn đường.
Nhưng tôi lại có những thắc mắc tại sao Con Thiên Chúa lại tỏ mình cách đơn sơ như vậy? Ngài là chủ tể của vũ trụ vạn vật này mà tại sao lại không dùng những dấu lạ cả thể để tỏ mình ra cho thế giới? Mà lại dùng chỉ một ngôi sao lạ trên bầu trời bao la để tỏ mình.
Rồi tôi đã tìm ra cho mình câu trả lời qua lời của thánh Augustino, mà đã dệt thành bài hát: “Chúa dựng nên con chẳng cần đến con, nhưng cứu độ con, Ngài cần con đáp lời”. Nghĩa là để thực hiện công trình cứu độ của mình, Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta. Nghĩa là để muôn dân biết Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa cần đến những ánh sao là mỗi người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình cho thế giới qua những ngôi sao là mỗi ki-tô hữu chúng ta.
Tuy nhiên, để ngôi sao tôi và ngôi sao ông bà anh chị em sáng, thì cần phải có ánh sáng. Nghĩa là chúng ta phải tỏa sáng. Là người có Đạo, hãy xưng mình ra là người có Đạo, đừng giấu mình. Là người có Đạo, hãy sống can đảm làm chứng cho Đạo Chúa, đừng nhân nhượng với thế tục.
Như vậy, mỗi ki-tô hữu chúng ta cũng phải xưng mình, tỏ mình mỗi ngày bằng chính đời sống Đạo của mình, qua đó Chúa mới được tỏ ra cho mọi người xung quanh. Nhưng thực tế ngày càng có rất nhiều người sống ẩn mình, giấu mình là người có Đạo. Trước những lợi nhuận, hưởng thụ của thế gian, nhiều người đã không dám tuyên xưng mình là người có Đạo. Khi chúng ta tham công tiếc của, tham quyền tiếc vị... mà bỏ bê lễ cả, lễ Chúa nhật là chúng ta đang giấu mình là có Đạo. Thậm chí có những người tạm gác mình là người có Đạo lại và sống như người vô đạo. Có người giấu mình là người có Đạo mãi đến khi già yếu rồi mới thò đầu ra. Cứ như thế thì hỏi làm sao mà Thiên Chúa được tỏ mình, được hiển linh cho thế giới.
Trong gia đình, ngôi sao bố sao mẹ cũng chẳng sống tỏa sáng ra cho con cái nữa, thì hỏi làm sao mà con cái tỏa sáng được. Hỏi được bao nhiêu người lấy vợ lấy chồng khác tôn giáo đã tỏa sáng để dẫn đường soi lối cho chồng hay vợ mình sống tin vào Chúa và yêu mến Chúa chưa? Hay hầu hết ánh sao của chính con nhà có Đạo lại cứ bị tắt dần và tắt hẳn. Tất cả bởi vì chúng ta chưa dám sống can đảm xưng mình ra là ki-tô hữu.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta rằng Chúa đã tỏ mình, còn chúng ta đừng có giấu mình nữa. Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi chúng ta hãy là những ngôi sao tỏa sáng để dẫn đường cho nhiều người đến với Chúa. Đó cũng chính là việc truyền giáo.
Tác giả: RA ĐI