Suy niệm 1
"Ai đến với Tôi sẽ không hề đói, ai tin vào Tôi sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 24 - 35) -------------------------------------- Nhiều người thời xưa cũng như thời nay đòi hỏi Thiên Chúa dấu chỉ, thích phép lạ, thích những bằng chứng có thể trông thấy được. Họ rất giống đám đông dân chúng của bài Tin Mừng hôm nay theo Chúa vì rình chờ Chúa làm phép lạ. Họ quan tâm tới Chúa như một người có phép thần thông biến hoá hơn là người rao giảng. Họ thích chữa bệnh hơn là những bài giảng hay. Nói chính xác hơn họ chạy theo tính tò mò không thể che giấu được: “Ngài sắp làm dấu lạ gì đây để chúng tôi tin Ngài?” (Nhiều giáo dân đến với cha Long cungzx chỉ vì mục đích này).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không phải là người dễ bị đánh lừa. Ngài biết rõ tại sao họ theo Ngài. Tin tức về phép lạ Ngài làm hôm trước đã lan đi rất nhanh. Hôm qua, Ngài đã nuôi trên 5 ngàn người ăn no mà chỉ cần có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một đứa trẻ. Tính tò mò và cơn đói đã kéo theo nhiều thính giả. Bấy giờ, Ngài nói với họ: “Tôi biết tại sao quí vị tìm tôi, quí vị tìm tôi vì quí vị đói và đã được ăn bánh no nê. Đúng vậy, quí vị đói bánh và của ăn vật chất. Nhưng quí vị còn một cơn đói khác sâu xa hơn và khó thoả mãn mà chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể lấp đầy. Con tim quí vị cũng đói, đói cái vô tận ”!
Như vậy, chúng ta nhận ra cách hành động của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Ngài khởi đi từ những như cầu sơ đẳng nhất của con người và mạc khải cho con người thấy những nhu cầu đó chỉ là dấu chỉ của những ước muốn sâu xa hơn đang tiệm ẩn trong họ mà thôi. Ngài đã làm như thế với phụ nữ Samaria: từ cơn khát nước bình thường đến cơn khát nước trường sinh, chính là tình yêu Thiên Chúa. Ngày nay, nếu Chúa Giêsu trở lại với chúng ta, chắc chắn Ngài sẽ nói với các bạn trẻ biết bao điều mà họ không thoả mãn và không được lấp đầy trong một thế giới tiêu thụ có đủ mọi thứ. Nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta, Ngài cũng sẽ chỉ cho chúng ta rằng tiện nghi và tiền bạc không thể lấp đầy cơn khát con tim của chúng ta. Ngài cũng sẽ mạc khải rằng chúng ta đang mang cơn đói khát đích thực trong chính chúng ta, đó là của nuôi sống thiêng liêng...Chúa Giêsu luôn biết và cảm nhận được con người là hữu thể bằng xương bằng thịt và phải đói khát. Vì thế Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi họ. Nhưng cơn đói khát vật chất không phải là chính yếu.
- Con người trước hết đói khát phẩm giá. “Cái lớn nhất mà chúng ta có thể cho người khác không phải là chỉ là chia sẻ cho họ sự giàu có của chúng ta, nhưng là cho họ biết phẩm giá của họ”. (Louis Lavelle)
- Con người đói khát tình bạn tương giao. Cái đau khổ nhất của những người nghèo, chính là không có ai chia sẻ tình bạn bè với họ và cho họ. Con người đói khát sự tận tâm, một sự cần thiết sâu xa để cho đi. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II nói: “Con người toàn diện là con người được dựng nên để mở ra cho cái tuyệt đối và cảm giác nóng rực tình bác ái”.
- Và nhất là con người đói khát Thiên Chúa: “Cái nghèo lớn nhất của con người không phải là nghèo đói vật chất, nhưng nghèo vì Thiên Chúa vắng mặt”(Jacques Loew).
Chúng ta nhận thấy xã hội tiêu thụ ngày nay có thể dư thừa vật chất, nhưng vẫn để lại cho con người hiện đại cơn đói khát. Có thể cơn khát Thiên Chúa bị che lấp bởi sự no thoả vật chất. Nhưng cũng chỉ là tạm thời. Khi cảm thấy của cải vật chất chỉ là tạm bợ, lúc đó cơn khát giá trị đích thực lại nổi lên.
Một thầy tu khổ hạnh Hồi Giáo kể cho chúng ta dụ ngôn về một ông vua. Vua này nghĩ rằng mình có khả năng làm thoả mãn tất cả mọi ước muốn của một người hành khất. Vua ra lệnh đổ đầy bát của người hành khất toàn là những đồng tiền vàng, nhưng khi bỏ tiền vào thì những đồng tiền vàng đó lại biến mất vào túi người hành khất.
Vua bực tức hỏi người hành khất:
- Mày hãy nói cho ta biết cái bát làm bằng gì và có tính ma thuật phải không?
Người hành khất trả lời:
- Đó là một sọ người. Nó được làm bằng những ý tưởng và ước muốn không bao giờ thoả mãn được và vì thế nó luôn luôn trống rỗng..
Đúng thế! Con người luôn đói khát. Con người cần được tạo dựng, được cứu độ và được thăng tiến. Con người qui hướng vềThiên Chúa là Cha của mình. Trái đất ban cho con người cơm bánh để nuôi xác. Nhưng ai sẽ ban cho con người thứ bánh mà con tim con người đang rất cần ?
Để trả lời cho cơn đói khát đích thực của con người, Chúa Giêsu đến trần gian để giới thiệu thứ bánh đích thực, một thứ thức ăn loại trừ tất cả mọi cơn đói khát. Chúng ta cũng như đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng chỉ hiểu một phần: “Lạy Ngài, xin Ngài cho chúng tôi thứ bánh đó để chúng tôi không bao giờ phải đói nữa”. Hoặc như người phụ nữ Samaria: “Xin Ngài cho tôi thứ nước đó để tôi không phải đến giếng này múc nước nũa”. Chúa Giêsu đã phải giải thích thêm cho người ta hiểu: “Bánh đó đến từ trời là quà tặng của Chúa Cha, không thể so sánh với manna trong hoang địa được. Bánh đó chính là Tôi, là ân ban của Cha Tôi”.
Mẹ thánh Teresa Calcuta nói: “Chúa Giêsu đã trở nên bánh nuôi sống để làm no thoả cơn đói khát Thiên Chúa của con người, nhưng Ngài cũng trở nên bánh để chúng ta đáp trả tình yêu mà Ngài đem đến cho chúng ta.”
Hiệp lễ chính là để cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. Nếu để cho Thánh Thể biến đổi, chúng ta sẽ sát nhập vào Chúa Kitô, sống như Ngài, yêu như Ngài và như vậy chúng ta cũng sẽ hạnh phúc như Ngài.
Nếu có điều kiện, mỗi ngày hoặc mỗi tuần chúng ta hãy đến với Bí Tích Thánh Thể để kín múc nguồn suối bất tận này!
Chúng ta có thể đặt cho mình câu hỏi: Tôi đang là người no thoả hay còn đang đói khát?
- Nếu cho mình là người đã no thoả rồi, thì đã tự lừa dối mình.
- Nếu thực sự chúng ta đang đói khát Thiên Chúa, thì hãy cùng với tác giả Thánh Vịnh kêu lên: “Linh hồn con đang khao khát Chúa, Chúa Trời ơi, Chúa Trời Hằng Sống”.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
==========================
Suy niệm 2
Đối xử công bằng với linh hồn ta
Ga 6, 24 - 35
Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Ngài cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Ngài nói thẳng với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo tìm kiếm lương thực phần xác mà lãng quên lương thực cho tâm hồn nên Chúa Giêsu răn bảo họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật phi lý khi người ta đầu tư toàn bộ vốn liếng mình có cho thân xác: dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc, chỉ “thu hoạch” được một nắm bụi tro!
Qua sứ điệp Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời bất diệt thì đáng phải được chăm sóc chu đáo hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”
Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian (Ga 6, 32-35).
“Ăn” Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Ngài: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Bánh ban sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con thường xuyên “ăn” Bánh này, tức là tìm đến với Chúa, học với Chúa, sống như Chúa để đào tạo bản thân mình nên người có phẩm chất cao đẹp. Nhờ đó, mỗi người chúng con trở thành hình ảnh sống động của Chúa giữa trần gian và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
==========================
Suy niệm 3
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: "Bên Ai cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai cập! Thà làm nô lệ Ai cập còn hơn chết trong sa mạc!" (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?" (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a. Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b. Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
2. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về "Vị Tiên Tri" đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh" (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
3. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ xuống thuyền đi sang "bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận". Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô : "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
==========================
Suy niệm 4
Thực thi ý Chúa để sống muôn đời
(Ga 6, 24 – 35)
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn bà và con trẻ đi theo Chúa, họ đã được nghe Chúa giảng dạy, chữa lành bệnh tật, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhất là được ăn bánh và cá no nê. Một ngày kết thúc, Chúa giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Tất nhiên là họ không thấy Chúa nữa, các môn đệ Chúa cũng không, nên họ cũng xuống thuyền hướng về Capharnaum để tìm gặp Chúa. Thấy Chúa họ hết sức vui mừng và ôn tồn hỏi Chúa : "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" (Ga 6, 25). Câu hỏi này không làm Chúa vui, nên Chúa buôn lời phán với họ rằng: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Họ đã cất công tìm Chúa, ấy vậy khi gặp chẳng thấy Chúa an ủi vỗ về lại nhận được lời quở trách tìm Chúa vì cái bụng, thật là buồn. Chúa khuyên họ : "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên nơi họ sự sống đời đời để dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì thì cũng phải nhắm tới mục tiêu tối hậu là sự sống đời đời, khiến họ khao khát thưa Chúa rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến" (Ga 6, 29).
Từ trên cung thánh nhìn xuống dưới, bên trong và bao quanh nhà thờ giờ đây cũng có một đám đông với đủ mọi tầng lớp, đàn ông, đàn bà và con trẻ, chắc số đàn ông chừng vài trăm. Nếu trong Tin Mừng, những người tìm kiếm Chúa với những thái độ khác nhau: có người tìm Chúa vì đã được ăn bánh no nê, có người thì mong gặp Chúa là Đấng làm những dấu lạ, một số người khác lăng xăng đi tìm Chúa bởi họ có kinh nghiệm về sự hiệp thông thân tình với Chúa họ thưa Chúa rằng : "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi" (Ga 6,34). Phần chúng ta, một câu hỏi được đặt ra cho chính chúng ta đang ngồi đây : Chúng ta đến đây để làm gì ? Chúng ta tin Chúa, tìm Chúa và theo Chúa vì điều gì ? Phải chăng là để được ăn bánh no nê ? Có người sẽ nói, chúng con đến tham dự Thánh lễ, đến tìm gặp Chúa chứ còn gì nữa. Phần lớn câu trả lời sẽ là như vậy. Chắc chắn Chúa Giêsu rất vui khi thấy chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm Chúa và đi theo Chúa.
Đúng, chúng ta đến đây tham dự Thánh lễ, xin ơn khỏe mạnh phần hồn, an lành phần xác, nhưng sự sống đời đời phải là mục tiêu chúng ta nhắm tới. Lời Chúa Giêsu nói với đám đông xưa kia, cũng là lời Chúa dạy chúng ta ngày hôm nay: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27).
Chúng ta vẫn làm việc không ngừng đấy thôi, nhưng lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Ra công làm việc để có nhiều của cải thăng tiến bản thân, phục vụ gia đình, góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội là điều chính đáng. Nhưng không thể làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật dẫn đến bỏ lễ Chúa nhật và lễ trọng buộc, bỏ đọc kinh tối sớm là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Hãy thực thi đức công bằng trong làm ăn, thuận mua vừa bán, đừng mùa thừa bán thiếu, đánh đổi trắng đen thu lời bất chính, có kiếm được lương thực dồi dào thì cũng hư nát và chỉ dành cho sự sống tạm bợ đời này. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực nuôi dưỡng phần linh hồn chúng ta, giúp chúng ta đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này. Thứ lương thực cao quí ấy được ban bởi Đấng Hằng Sống. Mặc dù được trao ban cách miễn phí, nhưng muốn có được Bánh Hằng Sống ấy, con người phải làm việc, mà công việc Thiên Chúa muốn con người phải làm là hãy đến và tin vào Đức Ki-tô, vì "Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ" (x. Ga 6.35).
Người Do thái hỏi Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Xem ra không có liên quan gì đến "công việc của Thiên Chúa", nhưng vẫn có liên quan vì Chúa Giêsu mời gọi họ « ra công làm việc … công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Ra công làm việc nhưng hướng đến lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, mà để có được sự sống ấy thì chúng ta phải nỗ lực tin vào Chúa Giêsu, tin đến độ lấy Chúa làm của ăn của chúng ta. Chính Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại : "Ai tin vào Người thì được sống muôn đời" ( Ga 3,15 ) ; "Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người" (Ga 20, 15). Vì thế, tin không còn là công việc, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự hiến mình làm của ăn cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Tin là "ra công làm việc… vì của ăn vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27).
Vậy, chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát là thánh ý Chúa, Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa. Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị trường tồn này.
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu rằng, đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để một ai trong chúng con lạc xa thứ lương thực cao quí này. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
==========================
Suy niệm 5
HÃY TÌM BÁNH HẰNG SỐNG GIÊSU
(Ga 6, 24 – 35)
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến"(Ga 6, 29).
Ðức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin nơi Ðấng Thiên Chúa đã sai đến" (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô: "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới" (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm 6
Lương Thực Mau Hư Nát Và Lương Thực Thường Tồn
Xh 16,2-4.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6, 24-35
Bởi hôm trước Thầy cho năm ngàn người ăn no nê, nên đám đông họ khoái Thầy lắm vì Thầy là “cây lương thực” nuôi sống họ đây, khỏi cần làm lụng vất vả (chúa họ thờ là cái bụng mà lị!) Hôm sau đám đông nườm nượp lặn lội lên thuyền, xuống biển hồ Tibêria, chỗ hôm qua xảy ra phép lạ hóa bánh ra nhiều để tìm Thầy. Chưa thấy được Thầy họ lại gắng sức chèo thuyền đi Caphanaum, hóa ra Thầy ở bên kia Biển Hồ. Mừng và ngạc nhiên quá họ ớ lên hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6,25b). Nhiều khi Thầy ở bên con mà con cứ mải mê đi tìm tận đâu, sai địa chỉ nên chẳng thấy Thầy là phải. Biết rõ đâu là động lực thúc đẩy họ hăm hở tìm, Thầy đáp: “Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga 6, 26-27). Việc Thầy hóa bánh ra nhiều gợi lại hình ảnh manna ngày xưa nuôi dân trên đường về đất hứa, đồng thời tiên báo Bí tích Thánh Thể Thầy sẽ thiết lập trong bữa tiệc ly để nuôi chúng con trên đường trần thế vào cõi trường sinh. Ngày nay Thầy đã Phục Sinh, nhưng Thầy còn ở lại trong Lời và Mình Máu Thầy. Chính Thầy là “thứ lương thực” mà chúng con phải “ra công” tìm kiếm và tận hưởng. Vậy mà nhiều khi chúng con lại cố công tìm sự “no nê” trong cơm áo gạo tiền, danh lợi thắng thua, đẹp mặt với đời, uy tín thế giá trong cộng đoàn, an toàn trong những thực tại trần thế. Thầy muốn chúng con vượt lên trên những cái tầm thường của cuộc sống. Hãy tìm đến và tin vào Thầy, vì Thầy là nguồn sống làm no say cơn đói khát thiêng liêng của chúng con. “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6,29).
Ngày nay nếu chúng con luôn luôn tin yêu và sống với sức sống của Thầy, chúng con sẽ dần thay đổi từng tế bào đến con tim lá phổi. Thầy sẽ giải thoát chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được sự phong phú của kho tàng trên trời là chính Thầy. Thầy sẽ là sự “no say” của chúng con mọi ngày. Mọi hoạt động, ra công cố gắng, tìm kiếm, nỗ lực phấn đấu trong cuộc đời này sẽ đưa chúng con đến đích điểm là chính THẦY, có phải vậy không Thầy ơi!
Én Nhỏ