Vấn đề 9 : Trong con người không có yếu tố nào gọi là linh hồn thiêng liêng cả, trái lại chỉ có thân xác vật chất mà thôi. Tư tưởng của con người là do óc não tiết ra, giống như gan trong bụng tiết ra mật vậy.
TRẢ LỜI
Ngày nay một số người chủ trương duy vật, chỉ công nhận những gì là vật chất mà người ta có thể thấy, sờ hay cân đo được, đồng thời phủ nhận tất cả những gì vô hình được gọi là tinh thần, linh hồn nơi con người, hay những thực tại thiêng liêng siêu nhiên như Thượng Đế, Thiên Chúa, thần minh nơi vũ trụ thiên nhiên. Theo họ, mọi thực tại đang hiện hữu đều là vật chất, đều do vật chất mà phát sinh. Con người cũng chỉ thuần là vật chất như bao vật khác. Ngay cả những cái khác như ý thức, tư tưởng mà người ta mệnh danh là tinh thần cũng chỉ là sản phẩm của vật chất không hơn không kém, do óc não vật chất tiết ra giống như gan trong bụng tiết ra mật vậy.
Engels viết : “Chỉ có một thực tại duy nhất, đó là thế giới vật chất mà con người có thể tri giác được bằng giác quan... Ý thức và tư tưởng của chúng ta mặc dù có siêu việt tính, nhưng cũng chỉ là sản phẩm của một cơ thể vật chất (thể xác, khối óc...). Tinh thần cũng chỉ là sản phẩm thượng đẳng của vật chất” (Engels: Ludwig Feuerbach).
Nhưng hầu hết những người có lương tri đều không chấp nhận lập trường duy vật nói trên. Ai ai cũng tự cảm thấy rằng con người không phải chỉ thuần là vật chất, vì ngoài phần thể xác vật chất, còn có một yếu tố khác siêu vật chất làm cho con người khác hẳn vật chất, đồng thời trổi vượt trên mọi loài động vật khác trong thiên nhiên. Yếu tố siêu vật chất ấy được gọi là linh hồn.
Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu những khác biệt giữa con người với vật chất, giữa con người với các loài vật khác, chứng tỏ con người không chỉ thuần là vật chất vì còn có linh hồn, và tư tưởng của con người thực sự không phải chỉ là sản phẩm của óc não vật chất, nhưng chính là một hoạt động của linh hồn qua trung gian óc não.
I. CON NGƯỜI TUY LÀ VẬT CHẤT, NHƯNG KHÁC VẬT CHẤT VÌ CÓ LINH HỒN SIÊU VẬT CHẤT
1. Con người là vật chất.
Nếu đem con người đi phân chất, thì kết quả cho thấy con người cũng chỉ là vật chất, được cấu tạo bằng vật chất tầm thường như bao vật khác. Gần đây, một nhà bác học Hoa Kỳ đã đem phân tích và đánh giá con người như sau :
“Trong con người có một số nước đủ giặt một chiếc khăn bàn. Máu đỏ chứa đựng chất sắt có thể làm được bảy cái đinh đóng móng ngựa. Xương cốt gồm một số chất vôi có thể dùng để quét được một bức tường nhỏ. Nếu đem đốt con người ra than thì có thể làm được 65 cây viết chì. Ngoài ra con người còn có một ít chất phốt phát đủ để làm một hộp diêm và chừng mấy muỗng cà phê muối. Đem bán tất cả những thứ đó chỉ được 98 xu, không đầy 1 mỹ kim”.
Đó là giá trị của con người vật chất, nhưng may mắn thay, con người còn có linh hồn nữa. Chính linh hồn làm cho con người có giá trị hơn mọi vật trong vũ trụ thiên nhiên. Sau đây là những lý chứng cho chúng ta biết con người không phải thuần là vật chất, vì còn có linh hồn nữa.
2. Con người khác vật chất
a) Vật chất thì bất động, khác hẳn với con người sống động vì có linh hồn.
- Thực vậy, vật chất chỉ có biến đổi từ tình trạng này sang tình trạng khác, chứ không sống động di chuyển như con người. Vải vóc là vật chất, theo định luật lý-hóa thì sau một thời gian sẽ trở nên cũ hơn, bị mất màu sắc do ảnh hưởng của ánh sáng, không khí. Rượu nho là vật chất sẽ hóa thành dấm chua nếu để ra ngoài không khí ít ngày. Tuy có sự biến đổi, nhưng vật chất nói trên không tự mình di chuyển, dời sang chỗ khác, không thể tự hấp thụ đồ ăn để tăng triển dần như các loài vật có sự sống.
- Nguyên lý của sự sống ta gọi chung là Hồn, với 3 cấp bậc từ đơn sơ đến phức tạp, từ tầm thường đến cao quý như sau :
+ Sinh hồn : có đặc tính sống động, tự dinh dưỡng và tăng triển. Sinh hồn xuất hiện nơi loài thảo mộc,
cây cối.
+ Giác hồn : Vừa có những đặc tính của sinh hồn ở trên, mà còn có thêm cảm giác, di chuyển đi nơi này nơi khác được. Giác hồn có nơi loài động vật, và hoạt động theo luật thiên nhiên thúc đẩy, được gọi là bản năng như bản năng tự vệ, sinh tồn.
+ Linh hồn : Sự sống trở nên phức tạp vì vừa có tất cả những đặc tính của các loài sinh vật, động vật, vừa có cả lý trí biết suy tưởng, và ý chí tự do nữa. Sự sống đặc biệt này chỉ có nơi con người mà thôi.
Như vậy, con người tuy là vật chất, nhưng khác vật chất rất xa vì có linh hồn.
b) Vật chất thì vô tri, khác với con người có ý thức về cá thể duy nhất của mình :
- Theo các nhà bác học, con người có thân xác vật chất, được cấu tạo bằng những tế bào vật chất, và chỉ trong thời gian bảy hoặc tám năm, khi mọi tế bào trong thân xác tăng triển, thay đổi, thì con người cũng đổi mới hoàn toàn.
- Vậy ngoài phần thân xác vật chất thay đổi nói trên, con người còn phải có một yếu tố khác siêu vật chất, tồn tại mãi đang khi vật chất thay đổi, để có thể nhận ra mình vẫn là mình từ khi sơ sinh cho đến lúc chết. Yếu tố thiêng liêng, siêu vật chất ấy được gọi là linh hồn.
Claude Bernard, giáo sư y khoa đại học Paris, nhân viên hàn lâm viện khoa học Pháp, đã trình bày về vấn đề này như sau :
Thân xác con người là một tổ hợp những chất thay đi đổi lại theo những định luật biến hóa không ngừng. Mỗi ngày bạn mất đi một ít calori của thể xác, và cái phần mất ấy sẽ được bù lại và tăng triển biến đổi nhờ những thực phẩm mới được hấp thụ. Như thế, trong khoảng thời gian tám năm, thịt xương bạn sẽ được thay thế bằng thịt xương mới. Bàn tay bạn đang cầm bút viết hôm nay không phải bàn tay trước đây tám năm. Cái sọ của bạn không chứa đựng chất óc như cách đây tám năm, vì tất cả các tế bào óc não đều đã biến đổi hết. Nhưng tại sao bạn nhớ được tất cả những gì bạn đã xem, đã làm, đã học cách đây tám năm ? Nếu tư tưởng là những hình ảnh được in vào các ô xếp trong óc thì làm sao những hình ảnh ấy có thể tồn tại được đang khi các ô tế bào trong óc đã đổi mới hết ? Như vậy, trong con người phải có cái gì khác với vật chất, không phải là vật chất, luôn tồn tại mãi và biệt lập với thân xác vật chất. Cái đó chính là linh hồn vậy.
c. Vật chất thì cố định, hạn hẹp trong không gian, khác với con người có khả năng vượt trên không gian và thời gian :
Con người tuy có thân xác vật chất, sống trong thời gian, và chiếm một vị trí nhỏ bé trong không gian, nhưng con người hơn hẳn vật chất, vì có khả năng lục xét mọi thời đại, quá khứ, hiện tại, tương lai, đồng thời còn có thể nghiên cứu được mọi vị trí không gian. Chẳng hạn bạn đang ngồi trong lớp học, nhưng bạn có thể không ý thức mình đang làm gì, và nghĩ tưởng đến cha mẹ ở nhà, hoặc sống lại giây phút thần tiên của buổi đi chơi xa trong tuần vừa qua…
Như vậy, trong con người, ngoài phần vật chất thể xác, còn phải có một nguyên lý linh thiêng siêu vật chất, biệt lập với phần vật chất để có thể vươn lên cao, ra ngoài không gian và thời gian hiện tại. Nguyên lý linh thiêng ấy được gọi là linh hồn.
Tóm lại, con người tuy là vật chất nhưng có những đặc tính khác hẳn vật chất, vượt lên trên vật chất để có thể trở thành một loài có giá trị đặc biệt. Nếu con người chỉ thuần là vật chất, hoàn toàn lệ thuộc ở trong thế giới vật chất, thì trí khôn của họ làm cách nào để có thể xuất hiện ? Nếu chỉ là vật chất thì tại sao con người lại ý thức mình bị cột chân xuống thế giới vật chất ? Nếu không vượt được ra ngoài vật chất thì làm sao thống trị được vật chất ? Hơn nữa, trong con người còn có lương tâm luân lý, với nhiệm vụ phê phán hành động của chính mình, nếu làm được một việc tốt, con người sẽ cảm thấy vui sướng, tự đắc, nhưng họ sẽ cảm thấy hổ thẹn với chính mình, sẽ bị lương tâm trách móc, dày vò nếu quyết định làm điều gì đó sai trái, không tốt. Như vậy, lương tâm ấy có phải vật chất, có tùy thuộc vật chất không ?
Khi so sánh con người với hiện tượng thiên nhiên vật chất, Etienne Berne đã viết : “Hiện tượng người có liên quan chặt chẽ với thiên nhiên. Con người không phải chỉ là một hiện tượng thiên nhiên, vì họ đã phát minh ra khoa học để tra vấn, lục xét thiên nhiên và ý thức mình là một chủ thể tự do. Khoa học càng tiến bộ, người ta càng nhận thấy có một mối tương quan chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên, nhưng đồng thời người ta cũng nhận thấy con người có khả năng tách biệt mình ra khỏi thiên nhiên hỗn mang. Chính hai sự kiện trái ngược nhau trong con người như thế là yếu tính của con người” (E. Berne, Dieu n’est pas mort, tr 81).
II. CON NGƯỜI TUY GIỐNG CON VẬT VỀ THỀ XÁC, NHƯNG VẪN KHÁC BIỆT VÀ CÓ GIÁ TRỊ TRỔI VƯỢT VÌ CÓ LINH HỒN
1. Con người giống con vật :
Khi so sánh con người với một số động vật thượng đẳng, người ta thấy dường như có một sự giống nhau nào đó, khiến cho nhiều người lầm tưởng con người cũng chỉ là con vật như bao loài khác, và không có cái gì gọi là linh hồn nơi con người. Người ta đã nêu ra một số điểm giống nhau giữa con người và một số loài vật khác như sau :
a. Về hình dạng thân thể
Loài khỉ vượn có khuôn mặt, thân hình, tay chân và các bộ phận nằm sâu trong cơ thể rất giống với con người. Khi một con khỉ bị bệnh, người ta có thể chữa trị với cùng một cách thức như chữa trị cho con người. Ngoài ra, con khỉ còn có cảm giác đau đớn, sợ hãi giống như con người.
b. Về sự hiểu biết
Con vật cũng có một sự hiểu biết tương tự như trí khôn của con người. Chẳng hạn, con chó có thể phân biệt chủ hay khách lạ bước vào nhà. Một võ quan thú y kể rằng mấy con ngựa biết giả bộ bị què chân đi khập khiễng để khỏi phải ra mặt trận là nơi trước đó nó đã từng bị thương. Nhà bác học Kohler làm một thí nghiệm để thử trí thông minh của loài khỉ Chimpazé như sau : Ông treo một nải chuối lên cao và không quên để sẵn nhiều dụng cụ cho loài khỉ này có thể sử dụng để với tới nải chuối mà nó rất ưa thích. Ông nhận xét thấy khỉ lần lượt thử lấy chuối bằng dụng cụ này rồi dụng cụ khác. Sau cùng, nó cũng biết cắm hai khúc tre vào nhau để khều được chuối. Cũng có lần nó biết chồng các hộp vuông lên nhau rồi trèo lên để lấy được chuối xuống ăn.
c. Về sự tài khéo
Nhiều con vật khi được tập luyện cũng có sự tài khéo tương tự như con người. Chẳng hạn, có những con khỉ biết đi xe đạp, biết nhào lộn, đánh banh. Loài cá heo cũng có được sự hiểu biết tương đương một trẻ em 1-2 tuổi ; nó biết gật đầu chào khách, biết tuân lệnh người chủ để nhảy xuống nước hay lên bờ. Nếu hỏi các huấn luyện viên về loài chó thì họ sẽ kể cho chúng ta vô số tài khéo đặc biệt của những con chó đã được huấn luyện.
Tuy nhiên, tất cả những sự tương tự nói trên vẫn không đủ để kết luận con người hoàn toàn chỉ là con vật như bao loài vật khác, vì con người còn có những yếu tố siêu việt mà giống vật không bao giờ có. Ngay trong những sự mà ta tưởng là giống nhau, cũng vẫn có sự khác biệt về trình độ cao thấp giữa con người và con vật.
2. Con người khác con vật
a. Khác biệt về sự cao thấp
Cơ thể con người tuy rất giống với loài khỉ, nhưng nếu quan sát kỹ, ta vẫn thấy có sự khác biệt rất xa, thân xác con người thì đẹp đẽ, tinh vi, khác hẳn tình trạng xấu xí, thô sơ của khỉ vượn.
Con vật có sự hiểu biết, nhưng cái biết ấy là do bản năng thiên nhiên phú bẩm chứ không có sự học hỏi để mỗi ngày tiến bộ thêm như sự hiểu biết của con người.
Sự hiểu biết ấy thiếu thích nghi và có tính cách máy móc. Tò vò trước khi đẻ trứng sẽ bắt một con sâu, chích một phát cho tê liệt, rồi bỏ con sâu vào một lỗ trong tổ. Sau đó, lên miệng lỗ, tò vò đẻ vào một cái trứng rồi vít lỗ lại để khi tò vò con nở ra có sẵn đồ ăn tươi ngon. Nhưng nếu bạn lấy sâu và trứng tò vò mới đẻ ngay trước mắt nó, tò vò mẹ vẫn vít lỗ lại như không có gì xảy ra cả. Làm như vậy có khác gì một cái máy!
Sự hiểu biết ấy vẫn có sẵn trong con vật và không có sự đổi mới. Khi quan sát, so sánh các loại tổ chim, các nhà sinh vật học cho biết mỗi loài chim có một loại tổ riêng, và trong mỗi loại, mọi con chim đều có một cách dựng tổ giống nhau, dù con chim ấy được nuôi riêng biệt tách rời khỏi đàn, không trông thấy cha mẹ chúng làm tổ bao giờ. Loài chim sẻ khi xưa làm tổ thế nào, thì con cháu của chúng ngày nay cũng làm tổ y như vậy chứ không thay đổi chút nào. Như vậy, cái hiểu biết ấy của con vật là do bản năng thiên nhiên phú bẩm, khác hẳn với sự hiểu biết của con người luôn có sự học hỏi và đổi mới không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên.
Con vật có tài khéo, nhưng sự tài khéo ấy chúng không thể tự mình tập luyện được, mà phải do con người khổ công tập luyện cho. Chẳng hạn, con khỉ sở dĩ biết chơi bài là vì người ta đã dùng miếng ăn để huấn luyện thành thói quen cho nó. Chẳng hạn, người ta dính bít-tết vào các con bài, khỉ phải lật bài lên mới lấy đồ ăn được. Cứ làm đi làm lại mãi, nó sẽ trở thành tập quán. Rồi một ngày kia, không cần có bít- tết, con khỉ vẫn lật bài như thường.
b. Khác biệt về trí khôn, lòng muốn và trực giác.
Con người có trí khôn, nghĩa là có tư tưởng tổng quát trừu tượng, có óc sáng tạo và tiến bộ, đang khi con vật không bao giờ có.
Một vị bác sĩ đã làm thí nghiệm để chứng minh trí khôn con người có những đặc tính khác hẳn với cái biết sơ thiểu nơi con vật. Ông cho một con khỉ lớn khôn và đứa con nhỏ mới được hai tuổi của ông chơi chung một số hộp bánh kẹo được đậy nắp kín. Lúc đầu, khỉ thành công hơn đứa con ông. Nó cầm hộp cạy, lắc lung tung và lâu lâu lại may mắn mở được một hộp, rồi lại tiếp tục cạy, lắc như cũ với những hộp còn lại. Còn đứa bé con ông tuy lần mò chậm chạp hơn, nhưng khi đã mở được một hộp rồi, thì những hộp có hình dạng tương tự như thế nó đều mở được dễ dàng mau lẹ sau đó. Sở dĩ đứa trẻ mở được nhanh chóng là vì có ý niệm tổng quát, trừu tượng, biết nhận ra những điểm giống nhau giữa các hộp bánh kẹo.
Ngoài ý niệm tổng quát trừu tượng nói trên, con người còn biết chế biến các dụng cụ làm tăng khả năng và sức lực của mình lên gấp bội, đang khi con vật chỉ biết sử dụng thân thể làm khí cụ chuyên biệt mà thôi. Con cá dùng vây làm chèo và bánh lái để bơi, chim thì dùng cánh dang rộng để bay trên không, con voi dùng ngà làm khí giới tự vệ…, duy chỉ có con người là có khả năng sáng tạo để làm được những việc vượt quá khả năng tự nhiên giới hạn của mình. Tuy không thể sống dưới nước như loài cá, nhưng con người biết sáng chế ra tàu ngầm để lặn sâu và ở lâu dưới đáy biển hơn mọi thứ cá. Con người không có cánh để bay, nhưng họ đã biết chế tạo ra máy bay có khả năng bay tít tận trời cao với một tốc độ nhanh gấp mấy lần âm thanh. Con người chỉ là một loài yếu ớt, nhỏ bé hơn nhiều động vật khác nhưng đã biết sử dụng trí khôn làm ra khí giới tối tân tự vệ hữu hiệu gấp trăm ngàn lần con vật mạnh mẽ nhất…
Cũng chính vì có trí khôn trổi vượt khác hẳn con vật mà loài người đã tiến bộ và tiến thật mau lẹ. Ngày xưa, đã có thời kỳ con người rất gần con vật. Họ phải lo phấn đấu để kiếm ăn, vừa phải lo chống lại kẻ thù và truyền sinh giống nòi. Nhưng rồi chính vì có trí khôn nên chỉ duy một mình con người có sự tiến bộ vượt mức về mọi phương diện (văn hóa tinh thần, khoa học kỹ thuật…) như ngày nay. Trái lại con vật vì chỉ có bản năng thiên phú nên không tiến bộ và cũng không thể tự truyền lại những gì đã thủ đắc được nhờ sự tập luyện như con người. Tổ tiên con khỉ ngày xưa đã sống thế nào thì nay con cháu của chúng cũng sống tương tự như vậy, chứ không có sự tiến bộ vượt mức như con người.
Ngoài phần trí khôn nói trên, con người còn khác hẳn con vật vì có ý chí tự do. Con người biết lựa chọn điều tốt và gạt bỏ điều xấu, dù điều tốt ấy có thể có hại, điều xấu có thể có lợi cho thân xác mình. Còn con vật hoạt động phần lớn do bản năng thúc đẩy chứ không có tự do lựa chọn và tự chủ như con người. Chẳng hạn, một con chó khi đứng trước miếng thịt thơm ngon sẽ không thể tự kiềm chế được. Nó chỉ không dám ăn là vì bản năng tự vệ sợ bị chủ đánh đòn. Bao lâu sự sợ hãi mạnh hơn cái đói thì nó còn chịu đứng nhìn cách thèm thuồng. Nhưng nếu quá đói, nó sẽ nhào đại vào ăn, bất chấp ngọn roi của chủ. Đang khi con người trong trường hợp đó vẫn có thể dùng ý chí tự do quyết định thà chịu chết đói còn hơn bị nhục nhã vì miếng ăn.
Cuối cùng, trong lãnh vực tinh thần, con người còn trổi vượt hẳn con vật vì có tư tưởng và sự ý thức chính mình. Con người có khả năng nhận biết ngoại giới nhờ giác quan giống như con vật, nhưng con người còn có khả năng nhận biết những thực tại siêu thực nghiệm, chính mình không thấy, không sờ, không nghe, không ngửi, không nếm… hơn hẳn con vật. Đó là khả năng tư tưởng, suy luận, trực giác, chẳng hạn chúng ta tin là có thực những điều người khác đã trông thấy, đã khám phá ra và quả quyết chắc chắn, nếu những điều ấy hữu lý, đáng tin vì có bằng chứng xác đáng. Hoặc khi trông thấy khói, chúng ta suy luận phải có nguyên nhân là lửa ; trông thấy quả ta quả quyết phải do nguyên nhân là cây sinh ra, dù mắt ta không thấy lửa, không thấy cây. Về trực giác cũng vậy, trực giác là một cái nhìn trực tiếp, không qua trung gian giác quan. Người phụ nữ chỉ cần trông thấy mặt một người là họ có thể biết người ấy thuộc hạng nào, có cảm tình với mình hay không. Đó là những điều mà con vật không bao giờ có.
Như vậy có thể nói, con người tuy giống con vật ở một vài điểm bên ngoài, nhưng lại rất khác biệt về trí khôn, ý chí tự do và tư tưởng trực giác. Những hoạt động tinh thần ấy chứng tỏ con người ngoài phần vật chất thể xác còn phải có một phần linh thiêng hơn hẳn loài vật. Phần linh thiêng ấy được gọi là linh hồn.
III. TƯ TƯỞNG SIÊU HÌNH KHÔNG THỂ LÀ SẢN PHẨM CỦA ÓC NÃO VẬT CHẤT, MÀ CHÍNH LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG CỦA LINH HỒN
Một số người đã nêu ra nhận xét về sự ảnh hưởng hỗ tương giữa tinh thần và thể xác, thay đổi bộ óc tức cũng thay đổi con người, cắt đi một hai lá óc, con người hết cảm thấy đau, không còn nói được, đọc được, hiểu được. Tâm tình con người cũng tùy thuộc sự điều hòa các bộ tuyến và thần kinh hệ. Bao tử đau ta đâm ra khó tính, gan yếu ta sinh ra cau có ; một người uống rượu quá say, sẽ trở thành đần độn, mất trí … Từ những nhận xét ấy, họ quả quyết không có cái gì gọi là linh hồn nơi con người, tư tưởng siêu hình cũng chỉ là sản phẩm của óc não, là một hình thức của vật chất do óc não tiết ra, giống như mật do gan tiết ra vậy.
Thực ra, những nhận xét nêu ra ở trên không đủ để quả quyết óc não sinh ra tư tưởng được. Đồng ý là thân xác có ảnh hưởng đến tâm hồn, nhưng cũng đừng quên tâm hồn cũng có ảnh hưởng trên thân xác nữa. Chẳng hạn, khi bị xúc động mặt sẽ bị đỏ ửng lên, khi sợ hãi thì trái tim sẽ đập liên hồi và có thể làm cho con người bị hôn mê bất tỉnh. Nghĩ đến trái me, tự nhiên nước miếng chảy ra …
Tuy bộ óc con người có ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng, nhưng điều đó chỉ minh chứng rằng óc não là điều kiện của hiểu biết và ước muốn. Không thể dựa vào lý do óc não ảnh hưởng đến tư tưởng, để quả quyết tư tưởng là sản phẩm của óc não được vì những lý do như sau :
1. Nếu óc sinh ra tư tưởng thì óc to, dĩ nhiên tư tưởng phải nhiều. Vậy tại sao nhiều người có đầu óc thật to mà lại dốt nát ngu muội ? Óc bò cũng được cấu tạo bằng những tế bào giống như óc người, và còn to lớn gấp ba bốn lần óc người, thế mà người ta vẫn thường nói “ngu như bò”.
2. Nếu óc sinh ra tư tưởng thì óc phải giống như thư viện chứa đựng tư tưởng, hình ảnh sau khi đã sản xuất ra. Mỗi tư tưởng chiếm một chỗ riêng, hỏng chỗ nào thì những tư tưởng in ở chỗ đó sẽ mất đi. Thế nhưng trong thực tế những người bị viêm màng óc, tuy có quên một thời gian nào đó, nhưng khi đã được bồi bổ lại, khi những tế bào mới đã thay thế những tế bào cũ bị hư hỏng, thì họ lại nhớ được những gì đã quên khi bị bệnh trước đó.
Như vậy chứng tỏ rằng óc không phải là “nguyên nhân sản xuất” mà chỉ là “dụng cụ sản xuất”. Chính linh hồn của con người mới thực là “nguyên nhân sản xuất” ra tư tưởng qua “dụng cụ” trung gian là óc não. Chúng ta có thể ví linh hồn con người giống như một người ngồi đánh máy chữ, muốn sản xuất tư tưởng là các hàng chữ trên mặt giấy cần phải qua dụng cụ trung gian óc não là chiếc máy đánh chữ. Cũng như khi chiếc máy chữ bị hỏng thì người đánh máy không thể sản xuất các hàng chữ thế nào thì khi bộ óc con người bị hư hại, linh hồn con người cũng không thể sản xuất ra tư tưởng như vậy. Rồi khi sửa máy, khi bộ óc được lành bệnh, người đánh máy lại có thể sản xuất hàng chữ, người bệnh lại có thể suy nghĩ và nhớ lại được những gì đã quên khi bị bệnh trước đó.
3. Đàng khác, nói rằng óc não sinh ra tư tưởng là điều vô lý. Theo nguyên tắc triết học “Không ai cho cái mình không có”, và trong thực tế loài nào chỉ sinh ra sản phẩm có những tính chất của loài đó. Chẳng hạn, cây mít vật chất chỉ có thể sinh ra quả mít cũng là vật chất, gan trong bụng là vật chất cũng chỉ sinh ra mật là vật chất. Thế thì óc não vật chất làm sao có thể sinh ra tư tưởng siêu vật chất, với những tính chất vượt ra ngoài không gian thời gian mà vật chất không bao giờ có ?
Vậy tư tưởng bởi đâu mà ra nếu không bắt nguồn từ một nguyên nhân linh thiêng mà chỉ duy loài người mới có. Nguyên nhân ấy gọi là linh hồn.
Tóm lại, tất cả những lý lẽ viện ra để phủ nhận linh hồn đều không đứng vững trên bình diện lý trí cũng như khoa học. Ta phải cùng với mọi người có lương tri ngay thẳng mà quả quyết rằng con người khác hẳn con vật vì có linh hồn thiêng liêng siêu việt. Linh hồn ấy chính là nguyên nhân sản xuất tư tưởng và mọi hoạt động tinh thần qua trung gian óc não.
Pascal đã viết : “Tất cả mọi thể xác, bầu trời và các vì tinh tú, trái đất và các quốc gia trên trái đất cũng không có giá trị bằng một tinh thần nhỏ mọn nhất, vì tinh thần ấy biết tất cả những vật ấy và hiểu biết cả chính mình, còn thể xác và các vật kia không hiểu biết gì cả. Từ hết mọi thể xác gom lại cũng không thể làm phát sinh được một tư tưởng nhỏ bé, vì tư tưởng ở một cấp bậc khác hẳn, cấp bậc thiêng liêng tinh thần”.