Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh
(1793-1857)
Phaolô Lê Bảo Tịnh, sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 6/04/1857 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 6/04.
Khởi đầu là vị ẩn tu, kết thúc là vị tử đạo. Hai hình ảnh như có vẻ khác biệt nhau. Nhưng đối với thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, điều quan trọng đâu có phải là hình ảnh, là lối sống, mà chính là NIỀM TIN: Thiên Chúa là tất cả. Lối sống có thể thay đổi nhưng niềm tin mới là nền tảng chính yếu. Chính niềm tin đó đã dẫn dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một giáo sư tận tụy và sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.
Rừng vắng và sứ mạng
Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ ba trong gia đình công giáo. Năm 12 tuổi cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát, sau ba năm cậu được cha gởi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện cậu là một chủng sinh gương mẫu. Trí khôn bình thường nhưng cậu hơn hẳn anh em về sự chăm chỉ, về tinh thần đạo đức, hãm mình, cậu ăn chay các ngày thứ sáu, đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh là bước đầu dẫn đến ý định ẩn tu của thày Tịnh.
Có thể nói Lê Bảo Tịnh là một con người mến yêu Thiên Chúa triệt để. Thày đã cương quyết hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thày đã chọn Chúa và thể hiện điều ấy cách trọn vẹn. Chính vì thế thày tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong rừng vắng để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết đối với Thiên Chúa bằng đời sống khắc khổ trong cô tịch.
Thế nhưng đâu phải ai cũng có quyền sống đạo đức theo ý riêng. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác vào công trình cứu chuộc của Ngài, vì chính Ngài xếp đặt công việc cho họ. Chính vì vậy Đức Cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong giáo phận: "Nếu thày Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo thày đến gặp Đức Cha ngay".
Và vị ẩn sĩ đạo đức ấy đã tìm ra ý Chúa qua vị Giám Mục. Một năm trời quen với rừng sâu, giờ đây thày phải từ giã để đón nhận những hy sinh mới, những công tác mà Giáo Hội đang cần đến thày.
Vị tông đồ đất Lào
Để chuẩn bị cho những công tác lớn lao hơn, Đức Cha cho thày Tịnh về tiếp tục học thần học, lãnh các chức nhỏ, đồng thời tiếp tục dạy học. Đức Cha Havard Du, kế vị Đức Cha Gia, cử thày sang Macao để nhận những khoản trợ cấp cho giáo phận. Hai chuyến đi trong hai năm, đồng thời cũng là hai lần thoát chết khỏi tay cướp biển và giông tố.
Năm 1837, Đức Cha đề ra chương trình truyền giáo tại Lào, thày Tịnh đã hăng hái lên đường. Sau một năm hoạt động thấy việc tiến triển tốt đẹp, thày trở về giáo phận xin Đức Cha phái thêm người đi truyền giáo. Thế nhưng tình hình trong nước đã thay đổi. Thi hành lệnh vua quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Cha Mai Năm, ông Trùm Đích, ông Lý Mỹ bị bắt và tử đạo, chủng viện Vĩnh Trị phải đóng cửa, Đức Cha cha Du phải ẩn lánh và qua đời ngày 05-07-1838. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) chịu tử đạo không kịp nhận nhiệm vụ. Vì vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải dừng lại và trở về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.
Vào tù lần thứ nhất và lưu đày.
Đức Cha Retordd Liêu, người kế vị Đức Cha Du, cử thày Tịnh đi dạy giáo lý tân tòng tại làng Thạch Tổ, xứ Bích Trì, tỉnh Hà Nam. Cuối năm 1841, Lý trưởng làng Thạch Tổ đã rình bắt được thày Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp quan mong chuộc được thày, nhưng thày tỏ ra khí khái nói với quan: "Nếu chỉ có tiền mà tha thì tôi không muốn".
Thế là thày Tịnh bị giải về Tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Ở đâu con người mảnh khảnh ấy, với y phục thô sơ, luôn đi chân đất, cổ đeo gông nhưng tâm hồn chính trực và cương quyết. Các vị quan hùng hổ nhưng không thể nào khuất phục nổi. Họ chỉ còn cách là đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng rất may, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu khí ác cảm với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung thân ở Phú Yên (Bình Định).
Trên đường lưu đày, người có thân hình mảnh mai nhưng tâm hồn cương nghị ấy, luôn chứng tỏ lòng trung thành quả cảm với chân lý đức tin mình đang theo. Thày đã mạnh liệt phản đối khi người ta gọi "Gia Tô tả đạo", đồng thời giải thích với mọi người về tôn giáo của mình.
Thời gian phát lưu không lâu thì vua Thiệu Trị băng hà (04-11-1847). Vua Tự Đức lên kế ngôi và ban ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về giáo phận trong niềm vui khôn xiết của nhiều người, thày Tịnh vâng lời Đức Cha lãnh chức linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục được giữ chức giám đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị. Nhờ trước đây đã từng là ân nhân chữa bệnh đau mắt cho quan Tổng Đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng, nên cha giám đốc đã xin được giấy phép cho chủng viện hoạt động một cách bán công khai, dưới hình thức một trường dạy chữ Nho và thuốc.
Chân dung cha Phaolô Tịnh
Thoạt nhìn người ta có thể nhận thấy Phaolô Tịnh là một linh mục có thân hình dong dỏng cao gầy guộc, dáng vẻ đạo mạo, khắc khổ. Nhưng chỉ những ai gặp gỡ cha mới nhận ra đó là một vị linh mục đầy lòng nhân ái, giản dị, khôn ngoan, từng trải. Có lẽ những bước thăng trầm đây đó cùng với số tuổi khá cao khi lãnh chức linh mục, đã ảnh hưởng tới nhiều cuộc đời tông đồ của cha. Ngài tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt sao đạt được ích lợi tối đa. Trong những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh Trị với bao công việc, thế mà giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết lách. Ta có thể kể những tác phẩm của cha:
- Phúc âm dẫn giải
- Giáo lý đại cương
- Và Lục vấn lương tâm: gồm những lời khuyên thực hành để giúp xa lánh tội trọng và dọn mình chết lành.
Trong khi hướng dẫn chủng sinh, cha thường khuyên các thày phải giữ kỷ luật, vì chính cha đã có kinh nghiệm sâu sắc: Kỷ luật là ân nhân giúp thể hiện lòng mến Chúa, nâng đỡ đời tu. Đàng khác cha còn chú tâm huấn luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện. Theo cha một nhà truyền giáo mà không quý trọng việc cầu nguyện thì lời giảng sẽ không có sức thuyết phục. Lúc này, tuy không còn trực tiếp coi sóc các giáo hữu, nhưng cha Tịnh rất siêng năng giải tội, giúp đỡ các tâm hồn hòa giải với Chúa. Một khía cạnh khác trong đời cha Phaolô Tịnh là lòng yêu mến Thánh Giá. Bất cứ nơi nào cha đã từng sống, đều có bóng dáng của cây Thập Giá. Sau này, khi bị bắt các quan thấy cha có nhiều cây Thập Giá quá, liền kháo nhau: "Ông cụ này nghiện Thánh Giá".
Đúng vậy, không phải cha "nghiện" Thánh Giá bằng cách dựng thánh giá khắp nơi, nhưng vì lòng tôn kính cuộc tử nạn Chúa Kitô, đồng thời ao ước sống cuộc đời Thánh Giá, mong muốn mình được góp phần vào dòng máu của Thày Chí Thánh đã đổ ra để cứu chuộc trần gian. Lòng yêu mến ấy đã bộc lộ qua nếp sống thật nhiệm nhặt, cả khi còn làm thày sống ẩn tu, cũng như khi làm cha giám đốc chủng viện. Bữa ăn thường nhật của cha là vài chén cơm với chút nước mắm và đĩa rau xanh. Cha thường ngủ nghỉ dưới đất, ít khi chịu nằm giường. Thân xác cha hao mòn, nhưng bên trong vẫn chứa đựng một tâm hồn mãnh liệt, một trí thông minh sắc sảo.
Cha sống nhiệm ngặt đến quên thân mình, nhưng lại lo lắng cho người khác. Cha thường thăm viếng, an ủi, ban các bí tích, giúp đỡ người nghèo, nhất là các bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh nan y như phong cùi. Có thể nói cha Lê Bảo Tịnh đã tử đạo ngay trong cuộc sống, trước khi được phúc thực sự đổ máu vì đức tin trung kiên.
Bị bắt lần thứ hai
Năm 1857, hai cha Kỳ và Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ Phát Diệm. Dịp này, ngoài thánh lễ còn có những cuộc rước long trọng. Biến cố rầm rộ này bị báo cáo xuyên tạc với viên quan Ninh Bình rằng: "Cụ đạo khao quân". Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng hai cha Kỳ và Hảo đã về Vĩnh Trị rồi, nên họ gửi giấy yêu cầu quan Nam Định đi bắt hai linh mục đó. Quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng vẫn còn nhớ ân tình với cha Lê Bảo Tịnh (vị ân nhân đã chữa mắt cho mình), nên đã cố gắng ngăn cản nhưng không được. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27-02-1857 do quan phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.
Trong khi đó, quan tổng đốc đã nhờ người báo tin cho cha Tịnh ở Vĩnh Trị, nhưng vì người đó bất ưng bị bệnh nặng không đi báo được, bên chủng viện Vĩnh Trị vẫn sinh hoạt bình thường khi quan quân vây kín làng. Sau mấy phút hội ý, Đức cha Liêu và các cha đồng ý chạy trốn, chỉ để một mình cha Tịnh ở lại đối phó, với hy vọng tránh được những tàn phá. Cha Tịnh bình tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và ông Phán Trứ vào phòng uống nước, rồi trình bày giấy phép của quan Tổng Đốc. Tuy nhiên vì trong nhà có nhiều đồ "quốc cấm" như sách La tinh, đồ lễ và nhiều vật dụng khác từ nước ngoài gửi đến, nên quan phủ cho lập biên bản, và yêu cầu cha Tịnh ra tỉnh để điều tra thêm.
Trước khi đi, cha Tịnh vào nhà thờ cầu nguyện và giã từ các chủng sinh, những người con yêu quý nhất của cha. Đức cha Liêu có tìm cách chuộc lại cha Tịnh trước khi bị giải lên tỉnh, nhưng không thành công. Đức cha liền cho người báo trước với quan Tổng Đốc để nhờ quan lo liệu. Hôm sau, ông Phán Trứ giải cha Tịnh ra tỉnh. Tờ giấy phép mà quan Tổng Đốc cấp cho cha Tịnh đả đưa ông vào thế kẹt. Các quan khác nghĩ ông đã nhận được một khoản tiền khá lớn…
Quan Tổng đốc lâm vào tình thế khó xử. Ông biết rõ cuộc đời, thân thế của cha Tịnh, thế mà chính quan Thượng Hưng lại là người hỏi cung cha. Trước tòa, quan không gạn hỏi gì cả, chỉ xin cha quá khóa thì sẽ tha về. Nhưng cha Tịnh với tư cách một linh mục làm sao có thể chấp nhận lời đề nghị ấy.
Năm ngày sau, cha Tịnh lại được đưa ra trước công đường. Cũng một câu hỏi và cũng một lòng son sắt đó. Khi được lệnh viết lại bản lý lịch, cha vẫn xác nhận mình là linh mục. Quan Thượng Hưng khuyên cha không nên viết thế, chỉ nên khai là giáo hữu chuyên dạy chữ nho và làm thuốc mới hy vọng thoát khỏi án chết. Đáp lại, cha cám ơn lòng tốt của quan, vẫn giữ y lời khai vì cho đó là một vinh dự lớn lao. Cha sẵn sàng chịu đựng tất cả là vì vinh dự ấy. Lần cuối cùng, quan Thượng Hưng tìm cách cứu gỡ vị ân nhân của mình. Chính tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới:
"Xét rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước, không nên xử tử những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện nhất".
Linh hồn tôi thuộc về Chúa.
Trong khi chờ đợi vua trả lời về bản án, cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ. Với cha, 37 ngày sống tại đây là cơ hội để cha củng cố đức tin cho các anh em yếu đuối, tìm cách liệu cho họ lãnh được lương thực tinh thần cũng như những trợ giúp về vật chất. Nhờ đó, họ thêm can đảm làm chứng cho Chúa trong những giây phút bi thương nhất. Về phần cha, đây là dịp chuẩn bị lần cuối để xứng đáng với diễm phúc tử đạo mà cha hằng ao ước. Cha sửa soạn cho giờ phút đó một cách đều đặn bằng việc đọc kinh nguyện ngắm. Chính khi củng cố lòng can đảm nơi người khác, cũng là lúc cha củng cố lòng mình. Trong những ngày này, cha không thể nào quên được đoàn con thân yêu ở chủng viện Vĩnh Trị. Trước khi bị xử án 12 ngày, cha viết cho các chủng sinh một tâm thư rất cảm động và chan chứa những tư tưởng đạo đức.
Ngày 05.04.1857, án ra tới tỉnh, người hồi hộp nhất là quan Tổng đốc. Vua cải án giam thành án tử hình trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng cố gắng một lần chót bằng cách khuyến dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng làm sao cha lại chấp nhận? Cả một đời đã tận tụy với Thiên Chúa, cả một đời khát khao mong chờ diễm phúc lớn lao này, đến nay sắp được toại nguyện, lẽ nào lại bỏ đi? Cha từ tốn đáp lại lời quan:
"Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại trong vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được".
Lời khẳng khái ấy phát sinh từ quyết định thật can đảm và sáng suốt. Quyết định lựa chọn cái chết một cách hiên ngang, vì tin chắc rằng mình sẽ được sống muôn đời (Ga 12, 25).
Vĩnh phúc ấy, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh đã đạt được ngày 06.04.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam Định) trong lời từ biệt gởi tới mọi người: "Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé".
Đức Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Từ một ẩn sĩ đến tử đạo
Thầy Bảo Tịnh kín đáo vào rừng
Ẩn tu thuộc phủ Hà Trung
Tỉnh nhà Thanh Hóa thuộc vùng rừng sâu
Mười hai tuổi, đỡ đầu Cha Duệ
Sau ba năm môn đệ học hành
Trí khôn vừa phải không lanh
Gởi vô chủng viện trưởng thành mẫu gương
Nhưng trội hẳn về đường chăm chỉ
Thường ăn chay theo ý khổ tu
Sống đời sám hối đền bù
Bỏ giường nằm đất khiêm nhu hãm mình
Quyết dâng hiến hy sinh vì Chúa
Thầy thực hành lời hứa thì thầm
Cơm khô tích trữ rắp tâm
Xa rời chủng viện âm thầm bỏ đi
Nơi rừng vắng thầm thì cầu nguyện
Suốt đên ngày tâm niệm khẩn cầu
Xa lìa chủng viện đã lâu
Quan phòng của Chúa nhiệm mầu đổi thay
Chúa xếp đặt qua tay Giám Mục
Ngài ban hành hối thúc Quý Cha
Thầy Tịnh xưng tội nói là
Ðến gặp Giám Mục Ngài đà giải cho
Thầy ẩn sĩ Chúa cho hiểu ý
Cả năm trời đăng ký rừng sâu
Vâng lời Giám Mục cúi đầu
Thầy về thần học ngõ hầu lãnh ơn
Lãnh chức nhỏ tập đờn, dạy học
Ðức Cha cử du học Ma Cao
Hai lần bị cướp ập vào
May Thầy thoát chết Chúa trao ấn hồng
Thầy Tịnh dạy tân tòng Thạch Tổ
Xứ Bích Trì gần chỗ Hà Nam
Nơi đây lý trưởng dã man
Rình bắt Thầy Tịnh nộp quan làm tiền
Thầy khí khái nói liền chẳng ngại
Chỉ vì tiền mà lại bắt tha
Tôi xin dám nói thật mà
Là tôi không muốn bắt tha vì tiền
Thầy bị giải qua miền Phủ Lý
Cổ đeo gông quyết chí một lòng
Các quân hùng hổ không xong
Sáu lần để án lòng vòng về kinh
Lần thứ bảy thình lình chuyển án
Ðầy chung thân ở mạn Phú Yên
Vua Tự Ðức ân xá liền
Trở về địa phận cả miền hân hoan
Thầy Bảo Tịnh Chúa ban bàn thánh
Năm sáu tuổi nặng gánh thăng trầm
Giáo sư chủng viện nhiệt tâm
Bán công hình thức đạt tầm Hán Nho
Kiêm luôn cả chăm lo thầy thuốc
Cha Phaolô gầy guộc dỏng cao
Lòng nhân ái giản dị sao
Khôn ngoan từng trải khít khao thì giờ
Những tác phẩm thánh thư dẫn giải
Lục vấn lương tâm, phải thực hành
Chủng sinh kỷ luật tươi xanh
Yêu người mến Chúa chân thành đời ta
Quan Thượng Ðạt vào tù khuyên viết
Là giáo dân hiểu biết Hán Nho
Và làm thuốc giảm án cho
Nhưng Cha khẳng khái đầy no an lành
Chức Linh Mục vinh danh Thiên Chúa
Quyết tuyên xưng đoan hứa trung thành
Cảm ơn thiện cảm Quan Anh
Hồng ân tử đạo Chúa dành cho tôi
Quan Tổng Ðốc liên hồi giúp đỡ
Nêu tuổi cao viết ở bản khai
Lý do nêu để cứu Ngài
Ngày giam trại Vệ kéo dài tại đây
Cha củng cố ban đầy lương thực
Cho tinh thần đỡ vực giáo dân
Ngày lên máy chém tới gần
Cho thêm can đảm lãnh phần vinh quang
Phaolô Tịnh gởi hàng Cha bạn
Bức tâm thư vấn nạn vững tin
Thuyền nan bão tố không chìm
Hồng ân tử đạo cổ kim rạng ngời
Lê Bảo Tịnh sáng ngời linh mục
Sinh Quý Mùi (1793) quê thực Trịnh Hà
Một nhà truyền giáo tài ba
Mùa hè Ðinh Tỵ (1857) lệnh ra pháp trường
Khổ hình tra tấn thảm thương
Mà cha vẫn giữ theo đường Chúa đi
Danh ngài Giáo hội khắc ghi
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) vinh quy Nước Trời.
Bức Tâm thư của thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh
Phaolô Tịnh gởi chào tất cả
Thầy cùng trò từ giã nhà chung
Máu tử đạo hiếm vô cùng
Chúa ban rất ít mỗi vùng nêu gương
Từ Linh Mục dân thường tử đạo
Có nữ nam loan báo tin mừng
Tâm hồn bé mọn sáng trưng
Thuận hòa trong sạch lẫy lừng Thánh Gia
Thành Thánh mới mở ra nhiều cửa
Một trung tâm chan chứa ơn Trời
Ðức tin vững mạnh khắp nơi
Hồng ân phù trợ Chúa thời trao ban
Anh em bước tiến vào thánh đức
Ðã tới gần tỉnh thức dầu đèn
Yêu người chớ có ghét ghen
Triều thiên công chính thưởng khen dân Ngài
Giây phút cuối viết vài lời gởi
Quý anh em và với bề trên
Vâng lời kỷ luật cho bền
Trung thành điều nhỏ chớ quên ghi lòng
Dù sống chết ở trong tay Chúa
Máu đổ ra đất hứa tươi hồng
Tưới vun cây sẽ trổ bông
Việt Nam đạo Chúa cánh đồng phì nhiêu
Phaolô Tịnh đôi điều trăn trối
Hãy siêng năng sớm tối nguyện cầu
Hồng ân mong ước từ lâu
Phúc lành tử đạo cúi đầu xin vâng
Khi tôi chết hiến dâng Thượng Ðế
Luôn nguyện cầu toàn thể đệ huynh
Thông công trong Chúa nghĩa tình
Ngày sau nước Chúa Thiên Ðình thưởng ban
Lời bất hủ: Quan Thượng Tổng đốc Nam Ðịnh Nguyễn Ðình Hưng không hỏi han gì chỉ khuyên dụ cha quá khoá rồi tha cho về, nhưng cha từ tốn đáp lại: "Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tuỳ ý, tôi rất vui lòng, không oán thán gì, nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Ðạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được".... đến pháp trường Bảy Mẫu Nam Ðịnh, ngài gửi lời từ biệt mọi người: "Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé".