Thánh Linh Mục Anrê Trần An Dũng Lạc
(1795 – 1839)
Anrê Trần An Dũng Lạc, Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Sau đó cậu được gán cho một thày giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên Thánh là Anrê. Chịu chức Linh mục ngày 15-3-1823, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII. Lễ kính ngày 21 tháng 12.
Ngài là một nhà truyền giáo kiên trì không biết mệt, bằng lời nói và việc làm, tại nhiều giáo xứ cho đến khi bị bắt năm 1835. Giáo dân của ngài quyên góp đủ tiền để chuộc ngài. Sau đó ngài đổi tên từ Dũng thành Lạc để che dấu căn cước, và rời sang một vùng khác để tiếp tục sứ mạng.
Trước hết Cha Dũng được sai đi giúp Cha Khiết ở Ðồng Chuối rồi giúp Cha Thi ở xứ Ðoài và Cha Duyệt ở Sơn Miêng. Sau đó Ðức Cha cử ngài làm chính xứ Kẻ Ðầm lúc ngài 40 tuổi. Ở đâu Cha Dũng cũng được mọi người quí mến vì ngài đối xử khôn khéo lại giảng đạo sốt sắng. Ngài rất nhiệm nhặt trong việc ăn mặc, Mùa chay, ngài ăn chay mọi ngày, nhiều khi cả những ngày thứ Tư và thứ Sáu trong năm nữa. Trong thời kỳ bị cấm đạo Cha Dũng phải trà trộn ở trong nhà giáo dân, nếu họ dọn cơm thịt hay cá lớn thì ngài trách: “Ðừng làm như vậy, hãy mua tôm tép như thường dân khác mà ăn”.
Cha Dũng còn có lòng thương giúp những người nghèo túng. Khi được mời đi kẻ liệt, ngài đi một mình để tránh cho các thầy khỏi bị bắt. Khi không đi làm phúc được, Cha Dũng thường sai các các thầy đi các nơi để thăm hỏi và khuyên bảo giáo dân tìm đến ngài mà xưng tội. Lúc ngài coi xứ Kẻ Ðầm thì các nhà chung đã phải rỡ hết.
Năm 1835 ông Lý Nhâm vì ghét Tổng Thìn là người có đạo, muốn cho ông phải tội đã đem lính đến bắt Cha Dũng cùng với 30 giáo dân đang xem lễ ở Kẻ Sui. Ông Tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan huyện Hào Khánh ở Ðôn Thư xin liệu việc với quan phủ cho khỏi án. Quan huyện lấy 4 nén còn hai nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: “Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha”.
Cha Dũng được tha về còn những người khác bị giam lại 21 ngày. Sau đó Cha Dũng phải đổi tên là Lạc vì quan quân đã biết tên ngài. Cha Lạc thường hay xuống tỉnh Nam Ðịnh thăm viếng an ủi các giáo dân bị bắt. Ngài nói với những người khác rằng: “Những người chết vì đạo thì được lên thiên đàng ngay, còn tôi cứ phải ẩn trốn và mất nhiều tiền bạc mới thoát khỏi tay các quan, thà rằng tôi bị bắt và chết vì đạo thì hơn”.
Sau 7 năm làm cha Sở Kẻ Ðầm, khoảng 4 năm sau lần bị bắt trước, Cha Lạc bị bắt lại ngày 10-11-1839, khi ngài sang thăm và xưng tội với Cha già Thi ở Kẻ Sui. Ông Lý Pháp không biết Cha Lạc nên có nhiều người dục ngài trốn đi, nhưng ngài nói: “Phó mặc cho ý Thiên Chúa, đây sẽ là lần thứ hai tôi bị bắt vì Chúa Giêsu Kitô”.
Vì vậy khi Lý Pháp hỏi ngài có phải là cụ đạo không, ngài nhận ngay nên bị bắt trói lại. Giáo dân muốn có cha giúp đỡ phần thiêng liêng cho họ nên đã phải chạy tiền mới xin cho Cha Lạc được tự do. Cha Lạc dùng thuyền về nhà nhưng trên đường gặp mưa gió lớn phải đến một nhà quen trú ẩn. Cũng lúc đó, vì nghe Lý Pháp bắt được cụ đạo nên quan huyện đang dẫn người đi tới. Người nhà thấy vậy vội hô lên nho nhỏ để người chèo thuyền không ghé lên bờ: “Quan! Quan!”
Nhưng người chèo thuyền lại nghĩ là người ta nói đùa nên cứ ghé lên bờ. Cha Lạc liền bị chặn hỏi, ngài nhận mình là cụ đạo nên bị bắt trói còn những người khác chạy trốn được. Ðêm ấy Cha Lạc ngồi nói chuyện vui vẻ với linh canh và người nhà quan. Cha nói: “Vua cấm đạo và Ðức Chúa Trời định cho tôi phải bắt, tôi không sợ gì, trái lại vui nữa là khác”.
Sáng hôm sau quan ngồi ăn một mâm, Cha Lạc cũng ngồi ăn một mâm, quan nói: “Ông ngồi một mình một mâm thì cũng là quan bên đời”.
Trước khi đưa về huyện, quan sai làm gông bằng tre nhẹ đeo vào cổ Cha Lạc. Về tới huyện Bình Lục, quan nói với Cha Lạc: “Tôi không có ý bắt ông nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo mãi nên tôi phải đi”.
Cha Lạc thưa lại: “Ông không có ý bắt tôi thì hãy tha tôi về”.
Quan đáp: “Bây giờ sự việc đã lộ rồi không làm gì được nữa”. Quan nói như vậy là có ý muốn ăn tiền đút lót, nên giáo dân lo gom góp tiền, và ông Cửu Bình cũng muốn cầm cả cơ nghiệp để có đủ tiền chuộc cha về, ông viết thư cho ngài: “Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại”. Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì”.
Ðức Cha Retord (Liêu) cũng sai Thầy Sự mang 5 nén bạc đi chuộc Cha Thi và Cha Lạc, Đức cha nói: “Hai cụ ấy tốt lắm, có thể chuộc được thì chuộc”.
Cha Lạc nói lại với Thầy Sự: “Thầy nghĩ mà xem, tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì nói bổn đạo đừng chuộc tôi nữa”.
Quan huyện lấy lời ngọt ngào dụ dỗ hai cha quá khóa, với Cha Lạc ông nói: “Thầy đạo, thầy biết nhiều chữ nghĩa và còn trẻ nữa thì tại sao lại muốn chết, có phải là uổng không? Hãy tin tôi đi, nhắm mắt lại bước qua ảnh thánh hoặc chỉ đi vòng chung quanh, nếu thầy muốn thì để cho lính của tôi khiêng thầy qua, tôi sẽ làm án tha ngay”.
Cha Lạc dõng dạc thưa lại: “Tôi không bao giờ làm theo ý quan vừa nói đâu. Hãy khép án tôi phải cắt trăm mảnh thì hơn”.
Không lay chuyển được lòng hai cha, quan huyện làm tờ trình là bắt được hai cha ở ngoài ruộng để không ai bị phiền vạ lây, rồi dẫn giải cả hai về Hà Nội giao cho quan án. Về sau Cha Lạc sai người nhà mang rượu và 100 viên thuốc biếu quan huyện để cám ơn ông đã khai như vậy.
Với giáo dân đi theo tiễn đưa khóc lóc, Cha Lạc nói: “Chúng tôi cám ơn anh chị em, anh chị em hãy về nhà và sốt sắng làm tôi thờ phượng Chúa cũng như là chúng tôi còn ở giữa anh chị em. Than khóc như thế này không có ích lợi gì mà còn tăng thêm sự phiền khổ cho chúng tôi”.
Ngay ngày hôm sau khi vào nhà tù ở Hà Nội, ngày 17-11, các quan bắt đầu cuộc thẩm vấn, chính Cha Lạc thuật lại trong thư gửi cho Ðức Cha Jeantet như sau: “Ngày 17, quan đã giao nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con bước qua ảnh thánh giá. Vì chúng con từ khước nên năm sáu anh linh xấn lại khiêng chúng con qua. Cha Thi đã ôm được thánh giá nhấc lên và hôn kính. Phần con, con cho chân lên rất cao và nói với họ: “Hãy chặt bớt chân ta đi, ta rất bằng lòng chứ đừng hòng trông ta chối đạo”.
Sau đó quan lại hỏi vì sao đạo không cho phép thờ kính tổ tiên. Con đáp lại: “Nếu có ai chào khi cha mẹ đang ngủ thì không có kể là tôn kính bởi vì các ngài không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn mạnh hơn đối với người đã chết”.
Ngày 19 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để ép buộc chúng con. Lần này họ bắt con đeo gông nặng hơn, và ngày 21 lại thay bằng xiềng. Xiềng của Cha Thi nhẹ hơn. Bốn ngày đầu con cứ chảy nước mắt hoài khi nghĩ đến các cha thừa sai và các anh em con. Nhưng từ ngày 15 tới nay thì con vui vẻ và bằng lòng, coi các khổ cực như không. Con thương Cha Thi vì tuổi cao không kham nổi những khốn khổ. Chúa đã thêm sức cho chúng con để không lo lắng gì nữa”.
Ðức Cha Jeantet viết thư cho hai cha để nâng đỡ các ngài bền gan chịu khổ cho đến cùng và xin Cha Lạc thuật lại các câu đối đáp với các quan. Cha Lạc đã viết thư trả lời: “Thưa Ðức Cha, khi chúng con được thư Đức cha an ủi thì cảm động chảy nước mắt ra. Chúng con là gì mà được các cha thương lo lắng. Chúng con không biết nói sao cho hết lòng biết ơn của chúng con. Riêng với Đức cha, xin Đức cha cầu cùng Chúa cho chúng con được giữ nghĩa cùng Chúa cho đến cùng. Chúng con đã viết tất cả những gì xảy ra cho chúng con trong tù cho đến bây giờ, con vẫn phải đối đáp những lời châm biếm của các người tù khác châm biếm Đạo thánh. Con xin Đức cha thương nhớ đến chúng con. Trong nhà tù rất khó viết thư cũng như nhận thư. Con không còn gì để viết. Vững mạnh như núi thái. Trần An Dũng”.
Ngày 30-11, các quan cho đòi hai cha lên để ký nhận bản ản. Tuy nhiên các quan còn cố ép các cha quá khóa. Một người nhắc đến việc Thầy Phanxicô đã muốn chết hơn là chối đạo. Cha Lạc nhân cơ hội nói lên sự can đảm của mình: “Người tín hữu mà quan vừa nói chỉ là một đồ đệ của chúng tôi, đã biết chọn nghĩa vụ hơn là sự sống. Còn chúng tôi là các thầy đạo lại kém lòng can đảm hơn không dám đi theo con đường chúng tôi đã vạch ra cho họ sao? Không bao giờ, thưa các quan, các quan đừng chờ đợi việc hèn nhát này”.
Các quan bế mạc phiên tòa nói với nhau: “Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng”.
Ba lần bị tra khảo nhưng các ngài không bị đánh đập tàn nhẫn, chỉ một vài cái tát mà thôi. Cha Lạc làm một bài thơ gửi cho Cha Thực nói lên chí khí của người Kitô:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan.
Bút chép thơ này gửi thở than.
Lòng nhớ bạn non còn vất vả.
Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.
Ðông qua tiết lại thời xuân tới.
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Làm kẻ anh hùng chi quản khó.
Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn.
Tuy không phải chịu khốn khổ nhiều nhưng lòng các cha hằng muốn cho mình được xứng đáng đổ máu đào vì Chúa. Các ngài xin với những người nhà cầu nguyện để các ngài được bền vững trong khi chờ án tử. Các quan đã làm án xử trảm cho các ngài. Ngày 20 Cha Trân mang Mình Thánh Chúa cho hai cha. Ngày hôm sau bản châu phê án được mang về tới Hà Nội. Cha Dũng cùng với Cha già Thi vui mừng hát thánh ca theo chân lý hình ra khỏi thành. Tới nơi, các ngài quỳ cầu nguyện, ngước mắt lên trời và nghiêng cổ ra cho lý hình chém. Nhiều người làm chứng là đã nhìn thấy một con chim trắng, to lớn hơn chim bồ cầu, bay lượn trên các ngài lúc hành quyết. Lệnh quan vừa dứt, đầu Cha Dũng cũng rơi xuống đất.
Cha được phong Á Thánh năm 1900. Ngày Lễ: 26 tháng 12.
vncatholic.org
Trường Thi Tử Đạo
Anrê Trần An Dũng Lạc linh mục
Năm Ất Mão (1795) quê thực Bắc Ninh
Kinh tế yếu kém gia đình
Cho Thầy Kẻ giảng thuận tình chăm lo
Rồi sau đó Thầy cho rửa tội
Chọn quan thầy dẫn lối Anrê
Dũng xin chủng viện cho về
Bố nuôi linh hướng tên đề Cha Lan
Vào chủng viện thuộc làng Vĩnh Trị
Rất siêng năng hoan hỉ tươi vui
Xã giao chia sẻ ngọt bùi
Văn thơ năng khiếu tới lui viết liền
Cậu chỉ đọc khỏi biên, khỏi chép
Khoảng vài lần cậu ghép thành thơ
Mười năm Thầy giảng đón chờ
Ba năm Thần học ngày giờ thụ phong
Lên bàn thánh quan phòng của Chúa
Ðược sai đi đồng lúa chín vàng
Phó xứ Ðồng Chuối, Hà Nam
Cùng Cha Chính Khiết sẻ san giúp người
Rồi sau đó đổi rời nhiệm sở
Giúp Cha Thi về ở Xứ Ðoài
Ðây là Giáo xứ thứ hai
Sau rồi lại đổi cử ngài Sơn Miêng
Giúp Cha Thuyết, ơn trên đã định
Ðưa ngài lên Cha Chính Kẻ Ðầm
Nơi đâu Ngài cũng nhiệt tâm
Ăn chay nhiệm nhặt đạt tầm mức cao
Rất ưu ái người nào nghèo khổ
Cha sẻ chia, ban bố Tin mừng
Vua Minh Mạng đã bỗng dưng
Gắt gao chiếu chỉ đến từng xã thôn
Sai quân lính lập đồn chặn lối
Cha đợi chờ trời tối đi xa
Giáo dân ẩn nấp trong nhà
Kẻ Rọi lập xứ để mà giảng rao
Cha dâng lễ, ập vào quân lính
Cởi áo liền Cha đứng với dân
Ba mươi người bắt toàn phần
Tổng Thìn đem bạc thân nhân chuộc về
Rồi sau đấy đổi xê tên Lạc
Lần thứ hai xứ khác Kẻ Sông
Thói quen hàng tháng băng đồng
Cha Thi, Cha Lạc hai ông giải hòa
Lý trưởng Pháp vô nhà vây bắt
Cả hai Cha chúng đặt giá cao
Hai trăm quan chuộc bỏ vào
Giáo dân cố chạy không sao đủ tiền
Viên Lý trưởng ông liền tuyên bố
Tha Cha Lạc đủ số tha Thi
Ðường về thuyền chở Cha đi
Trời mưa gió lớn phải thì ghé vô
Vào nhà trú chúng hô bắt giải
Huyện Bình Lục gặp lại Cha Thi
Một lần nữa giáo hữu đi
Lo tiền chuộc lại Cha thì khuyên can
Ðây ý Chúa, Ngài ban ơn phúc
Thánh Phêrô tới lúc mất đầu
Cảm tình mọi giới từ lâu
Quan Huyện Bình Lục ngõ hầu ủi an
Truyền dọn cơm trên bàn tử tế
Trả lại ngay áo lễ hai Cha
Thanh minh quan Huyện nói là
Triều đình cấm đạo đâu mà phải ta
Sau ba bữa chuyển ra Hà Nội
Các giáo dân kéo vội đi theo
Quan liền hỏi Ðạo Trưởng nghèo
Sao dân thương tiếc thuyền chèo người đông
Một phụ nữ thưa ông quan Huyện
Cha dạy khuyên thực hiện điều lành
Yêu người mến Chúa vinh danh
Hai Cha dừng lại chân thành ủi an
Tại Hà Nội dã man tra hỏi
Nhưng hai Cha chẳng nói một lời
Lính vua trảm quyết tới nơi
Giáo dân tiếp tế kịp thời mang cơm
Hai Cha sống giản đơn mọi cách
Dặn họ đừng mang xách thịt vô
Ăn chay, tích trữ lương khô
Cha Tân tiếp tế đem vô Máu Mình
Ngày xử án lý hình tới nói
Theo lệnh vua buộc trói thi hành
Hai Cha cầu nguyện vinh danh
Chém ngoài Cầu Giấy ngoại thành Thủ Ðô
Năm Kỷ Hợi (1839) tung hô tử đạo
Biện pháp này chỉ bạo quan quân
Roma phong thánh tới gần
Suy tôn Canh Tý (1900) dành phần Anrê
==================
Bài Họa
Dũng Lạc xưa rầy chốn cửa quan
Cực hình vui nhận chẳng van than
Giáo dân luôn nhớ giờ kinh nguyện
Huynh đệ cầu mong biết gắn hàn
Phú Quý trần gian cơn gió lốc
Hồng ân Thiên Chúa phúc bình an
Chia tay tạm biệt hằng mong đợi
Thiên Quốc gặp nhau Chúa dẫn đàng
Lời bất hủ: Lễ các Thánh 1-11-1839 linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục, vừa thấy cha Lạc đã ra chào đón: "Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi". Sau đó cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già Thi. Cuối năm 1839 quan công bố án tử hình. Trước phút hành quyết người lý hình đến nói với cha: "Chúng tôi không biết các thầy tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên. Xin các thầy đừng chấp".
Thánh Linh Mục Phêrô Trương Văn Thi
(1763 – 1839)
Phêrô Trương Văn Thi, Sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 21/12.
Trên đường ra pháp trường, từ nhà ngục Hà Nội đến ô Cầu Giấy, người tử tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già 76, bước đi chẳng nổi nữa. Ông bước đi lảo đảo rồi ngã quỵ xuống đường. Trước tình cảnh tang thương đó, một người lính đoàn hành quyết khom lưng cõng tử tội đến nơi xử, và được tử tội âu yếm tặng đôi giầy của mình làm kỷ niệm. Thế đó, lính tráng ngỡ ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động. Người hành quyết cõng tử tội đến pháp trường. Tử tội đó là linh mục Phêrô Trương Văn Thi.
Người mục tử hiền hòa nghèo khó
Phêrô Trương Văn Thi mở mắt chào đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành các nhân đức, rồi trở thành thày giảng. Trong chức vụ này, thày thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo đức, và khả năng đời đạo, nên được gửi vào chủng viện. Đến ngày 22.3.1806, thày lãnh chức linh mục khi đã 43 tuổi.
Trong 27 năm liền, cha Thi coi sóc xứ Sông Chảy (giáo xứ Trại Cỏ - Giáo phận Hưng Hoá), thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833, ngài được bổ nhiệm chính xứ Kẻ Sông, và ở đó cho đến khi tử đạo năm 1839. Theo lới chứng của các tín hữu tại đây, cha Thi là một linh mục: "Rất nhân đức, mỗi ngày đọc kinh cầu nguyện lâu giờ ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các thứ sáu, mặc dù sức khỏe của ngài yếu kém với chứng đau bụng thường xuyên".
Thừa sai Jeantet Khiêm sau làm Giám mục Tây đàng Ngoài đã viết về cha Thi: "Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phục ngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hòa, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật". Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha chỉ mặc đồ nâu như một nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha còn phụ trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyển trên sông, thuyền của cha bị đắm, người tháp tùng cha chết đuối, còn cha sống sót được nhờ bám vào hòm đựng đồ lễ. Suốt mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy một ai kêu ca, chê trách cha lời nào.
Do chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc của vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất ngờ vào ngày 10.10.1839, khi cha Dũng lạc ở làng kế cận tìm đến xưng tội, viên lý trưởng tên Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lý Pháp mặc cả giá tiền chuộc với các tín hữu, và ngả giá là 200 quan. Khi các tín hữu mới gom góp được một nửa số tiền, ông chỉ tha một mình cha Dũng Lạc. Ai ngờ trên đường về, cha Dũng lạc lại bị một tốp lính khác bắt được. Thế là Lý Pháp không dám cho chuộc cha Thi nữa, và cho áp giải ngài về Bình Lục. Giữa đường, ông gặp đám lính đang áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện. Từ đó, hai vị chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng phúc vinh quang.
Ông "quan bên đạo" dưới mắt ông quan bên đời.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra rất vị nể hai linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử càng lịch thiệp hơn. Ông nói: "Tôi làm quan bên đời, còn ông làm quan bên đạo". Dĩ nhiên, quan đã hiểu sai về chức năng phục vụ của người linh mục, nhưng dầu sao, đó cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển lòng tin của hai vị, quan không tra tấn gì cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải về Hà Nội. Như Philatô rửa tay trong vụ án Đức Giêsu, viên quan huyện sau đó cũng mở lễ cúng vái các thần, thanh minh với mọi người, và xin trời đất chứng giám cho mình vô can trong cái chết của những kẻ vô tội.
Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông Hồng, các tín hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền, người đi bộ trên bờ đê.
Ngày 16.10, thuyền áp giải hai cha được cập bến. Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường và bắt đạp lên Thánh Giá. Cha Thi quỳ xuống, nghiêm trang hôn kính dấu chỉ Đấng Cứu Độ. Sau nhiều lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục được hai vị linh mục, liền làm án tâu vua xin trảm quyết.
Trong khi chờ đợi vua phê án, cha Thi biết trước số phận của mình, và chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo của mình, cha gia tăng việu cầu nguyện và hãm mình. Cha ăn chay các ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Bệnh tật gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh làm sức khỏe của cha càng sa sút. Thừa sai Jeantet Khiêm viết thư vào đề nghị cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.
Tình yêu không biên giới
Ngày 21.12.1839, lần thứ hai cha Trân đưa Mình Thánh vào, cha Thi đã liệt giường, phải nhờ cha Dũng Lạc ra nhận và trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng cuộc đời dương thế của các ngài, bản án vua châu phê đã vào tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp trường. Trên đường, cha Thi không còn sức đi nữa, nên một người lính đã đóng vai "Simon", cõng cha đến nơi thụ án.
Quãng đường cuối cùng của cha Thi: Đôi giầy, kỷ vật tặng cho người lính, hình ảnh một "Simon Xirênê" Việt Nam cõng tử tội ra pháp trường… Làm sao diễn tả hết ý nghĩa của những điều đó. Phải chăng hình ảnh đó có thể khái quát được tang thương của Giáo Hội Việt Nam thời khai nguyên? Phải chăng điều đó đủ xoa dịu những đố kỵ còn sót lại cho đến ngày hôm nay? Và phải chăng hình ảnh đó cho phép ước mơ một xã hội, tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người dân vượt qua mọi trở ngại để đối xử với nhau bằng trái tim yêu thương?
Giáo hữu thấm máu vị tử đạo, thâu lượm các di vật, rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ và an táng cách trọng thể.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Thừa sai Jeantet Khiêm nhận định về cuộc tử đạo của cha Phêrô Thi như sau: "Ân sủng đã toàn thắng sự yếu đuối của con người. Nhờ ân sủng, con người bẩm sinh vốn hiền lành nay đã có được sức mạnh trước đây chưa từng có".
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Trương Văn Thi giáo xứ Kẻ Sở
Năm Quý Mùi (1763) sinh ở Thanh Liêm
Tỉnh Hà Nam giỏi canh điền
Năm mười một tuổi vào liền nhà tu
Học chủng viện khiêm nhu Thầy giảng
Rất siêng chăm sang sảng học bài
Nhiệt tâm đạo đức triển khai
Thời gian chủng viện miệt mài thông minh
Thầy được gọi dâng mình đại chủng
Ngày thụ phong tuổi đúng bốn ba
Tông đồ phục vụ hiền hòa
Cha Thi, Sông Chảy xứ nhà nhiều năm
Sau được bổ nhiệm thăng Cha Chính
Xứ Kẻ Sông thuộc tỉnh Hà Nam
Giáo dân hội ý tọa đàm
Tông đồ phục vụ đảm đang nhiệt tình
Cha phụ trách hy sinh họ lẻ
Sống thanh bần san sẻ nông dân
Mỗi lần di chuyển xa gần
Trên sông thuyền đắm Cha cầm cái rương
Bám vào đấy Chúa thương không chết
Lễ tạ ơn đặc biệt Kẻ Sông
Hai Cha hàng tháng coi trông
Gặp nhau xưng tội hợp đồng đổi trao
Tên lý Trưởng tiến vào lùng bắt
Cả hai Cha chúng đặt giá tiền
Bốn trăm quan mới được yên
Giáo dân gom góp cảm phiền nửa thôi
Cha Thi bắt thả rồi Cha Dũng
Khi về huyện lại cũng gặp nhau
Cha Thi già yếu ốm đau
Cha Trân thăm viếng cùng nhau giã từ
Trao Mình Thánh y như lương thực
Lính dẫn đi phải vực Cha Thi
Pháp trường gươm chém sinh thì
Hồng ân tử đạo cao phi Nước Trời
Phúc tử đạo sáng ngời Kỷ Hợi (1839)
Hồng ân này mong đợi của cha
Canh Tý (1900) Toà Thánh Roma
Tuyên phong Chân Phước để ta tôn thờ
Lời bất hủ: Thừa sai Jeantet Khiêm (sau này làm Giám Mục) viết về Cha Thi như sau: "Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phục ngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hoà, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật".
Khi ra trước công đường quan bắt ép cha đạp lên Thánh Giá, cha Thi quỳ xuống, nghiêm trang hôn kính dấu chỉ Ðấng Cứu Ðộ".
Khi không còn đủ sức ra pháp trường để xử tử, có một quân lính tốt bụng đã cõng cha ra pháp trường (như Simon Sirênê vác đỡ Thánh Giá Chúa thuở xưa) cha Thi đã tặng anh lính đôi giầy của Ngài.