Chúa nhật, 22/12/2024

Ngày 18 Tháng 12, Kính Các Thánh Tử Đạo: Phêrô Trương Văn Đường; Phaolô Nguyễn Văn Mỹ; Phêrô Vũ Văn Truật

Cập nhật lúc 05:00 13/12/2017
Ba thày giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi. Các thầy bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng.
Giáo phận Hưng Hóa được vinh dự là nơi các vị tử đạo này minh chứng lòng tin mạnh mẽ. Hiện nay, tại pháp trường Năm Mẫu ở giữa lòng thị xã Sơn Tây, di cốt của các ngài được đặt vào lòng một trụ bia dựng trong một khu đất nhỏ để muôn đời tôn kính và tưởng niệm cuộc tuẫn giáo anh hùng của các ngài. Khách hành hương đến Sơn Tây thường đến kính viếng nơi này, thắp một nén hương tỏ lòng thành kính các ngài. 
Đức Lêô XIII suy tôn ba vị tử đạo lên bậc chân phước ngày 27.5.1900, và ngày 19.6.1988, Đức Gioan-Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
 
Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết: "Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, đức cha Harvard Du, giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài đã chọn thày giúp cha Cornay Tân tại xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành nhưng thường đau ốm nặng nề này. Thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo, từ dạy giáo lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế, đưa được nhiều người ngoại giáo đón nhận niềm tin Kitô giáo.
 
Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG (1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".
Lời nói trên cho thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, gia đình thày Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. Năm 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và La-tinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của anh Phêrô Đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, là thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng.
 
Thánh Phêrô VŨ VĂN TRUẬT (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ Văn Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân: "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
 
Ba tấm lòng vàng
Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20.6.1837, quan Sơn Tây phái 1.500 quân lính đến làng Bầu Nọ tìm bắt cha Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, thầy Đường là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi: "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời: "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ".
Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng từ của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt nằm xuống, lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh, hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"
Riêng thày Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20.9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo, cả ba vị cùng nói: "Chúng tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại trong một lá thư: "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."
Tháng 10, bản án do quan tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay, bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian, nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng của con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi lòng ước ao được phúc tử đạo. Mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung. Các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được, ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ: "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước Trời"
Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta hãy đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư: "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… Cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"
 
Cùng chiến thắng vinh quang
Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18.12, ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường Gò Sỏi ở làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Gia-tô, đã thú nhận, truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước, ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép giải tội. Một người lính cho các ngài uống rượu, nhưng cả ba vị cám ơn, uống nước trà và nói: "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan, mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Văn  Truật lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19.06.1988, Đức Gioan-Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn: tinmung.net (có thêm một đoạn)
 
 
Trường thi Tử Đạo
 
Nguyễn Văn Ðường quê làng Kẻ Sở,
Sinh Mậu Thìn (1808), nơi ở Hà Nam.
Gia đình đạo đức, nghèo nàn,
Có hai chú ruột lên hàng chức cha.
 
Mới chín tuổi cậu đà xin chú
Nguyễn Văn Thi khuyên nhủ tu trì.
Ngài liền dẫn cháu đường đi,
Cha Phượng (Yên Tập) ngài thì quản cai.
 
Sau sáu năm khá dài liên tiếp,
Cậu Trương Ðường ở miệt nơi xa.
Cha Trạch Bầu Nọ xứ nhà,
Năm hai sáu tuổi đúng là trên ban.
 
Làm thầy giảng lên đàng chăm chỉ,
Giáo dân ai cũng quý mến thầy.
Tông đồ thăm viếng đó đây,
Người già bệnh tật tỏ bày tình thương.
 
Quan bắt đạo, cha thường phải trốn,
Nhưng thầy Ðường tính vốn vâng lời.
Làm tràng hạt lúc nghỉ ngơi,
Tặng cho bổn đạo khắp nơi nguyện cầu.
 
Lính vây kín đêm thâu Bầu Nọ,
Bắt cố Cornay, họ truy tìm.
Vắng ngài, chúng chẳng có tin,
Một người tố giác đứng nhìn chỉ tay.
 
Thầy Mỹ, Truật hằng ngày theo cố,
Phải dẫn đi chỉ chỗ tới lui.
Thầy Ðường đứng nói có tôi,
Ba Thầy chúng bắt buồn thiu cộng đoàn.
 
Chúng tra tn dã man khủng khiếp,
Tới buổi chiều bắt tiếp cố ngay.
Ngồi trong cũi thấy cảnh này,
Ngài hô lên phải ngừng tay đánh người.
 
Quan nghe vậy ngồi cười đánh tiếp,
Ðể ba thầy phát khiếp ngã lòng.
Bước qua Thập Giá là xong,
Cho về quê quán thong dong tung hoành.
 
Thầy Ðường nói chấp hành được xử,
Quan chớ hòng mà thử chúng tôi.
Dù cho chín núi mười đồi,
Chẳng hề phản bội Ba Ngôi Chúa Trời.
 
Thầy Ðường viết đôi lời cho cố,
Trong nhà tù vô số mẫu gương.
Cầu xin Chúa ơn can trường,
Hồn an xác mạnh hành hương Nước Trời.
 
Rước ơn trọng cuối đời Mình Thánh,
Tạ ơn người cha chánh thăm tù.
Phước này con nhớ thiên thu,
Vua quan cấm đạo chẳng thù, thứ tha.
 
Kẻ quyền thế chóng qua mau hết,
Vì lỗi lầm lúc chết đi đâu.
Nguyện cầu ơn Chúa nhiệm mầu,
Cho kẻ lạc lối ngõ hầu ăn năn.
 
Cho đất nước khó khăn vượt khỏi,
Cho Việt Nam học hỏi Tin Mừng.
Trước khi dừng bút tạm ngưng,
Con xin cố nhắn tin mừng chú con.
 
Cha Thi chú ruột còn dâng lễ,
Nhờ ngài giúp cụ thể như sau.
Làm ba lễ khẩn nguyện cầu,
Cho người đi trước kẻ sau góp phần.
 
Cha Triệu đến xin cần xưng tội,
Ba tử tù hối lỗi sau cùng.
Bữa cơm thiết đãi dùng chung,
Quân quan lính gác với cùng tù nhân.
 
Rồi sau đó tới phần hành quyết,
Bốn lý hình cần thiết xung quanh.
Trước cầm thẻ gỗ đã dành,
Ðể ghi bản án ban hành ghi tên.
 
Hai người nữa giữ bên xiềng xích,
Người đi sau mục đích cầm gươm.
Ba thầy dẫn tới pháp trường,
Ðồng bị xử giảo bốn phương kéo thừng.
 
Trong phút chốc đã ngừng hơi thở,
Ðược cất chôn ngay ở trong nhà.
Là bà Tín đảm nhận mà,
Sau rồi cải táng xứ nhà Kẻ Mây.
 
Phúc tử đạo của thầy Mậu Tuất (1838),
Tuổi thanh xuân chẳng khuất phục ai.
Canh Tý (1900) Tòa Thánh bài sai,
Suy tôn Chân phước ít ai sánh bì.
 
 
Lời bất hủ:
Thánh Phaolô Ðường tuyên bố thẳng với quan tra xét hỏi cung ngài  "Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời, cả linh hồn lẫn thể xác".
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log