Đã đêm khuya rồi mà Ê-li-sa-ven vẫn thấy ông A-ha-ron – chồng của bà – chong đèn. Bà ngồi dậy, vấn mái tóc dài óng của mình rồi khẽ khàng đi đến bên bàn trà mà ông đang ngồi đó.
- Ông vẫn chưa ngủ được à? Mai phải chủ lễ cả ngày mà thức muộn thì mệt lắm đấy – bà nhỏ nhẹ hỏi ông, tránh đánh thức mấy đứa con đang nằm ngủ gần đó.
Ông A-ha-ron không trả lời. Ông vẫn đang đăm chiêu nhìn theo ngọn đèn lấp lửng cháy, dù điều ông đang quan tâm không phải là ngọn đèn đó. Ê-li-sa-ven khẽ lay vai chồng, sợ ông không nghe thấy tiếng mình vừa hỏi. Rồi bà thấy ông A-ha-ron khẽ thở dài. Ông nói:
- Lòng tôi không yên để đi ngủ được. Không biết là làm con bê vàng cho dân chúng có đúng không nữa. Rồi Mô-sê mà về thấy như thế thì sẽ thế nào? Ông ấy sẽ quở trách tôi nặng lắm.
- Ui dào. Cái gì nghe theo dân chúng thì chả đúng. Ông xem. Cái ông Mô-sê yêu quý của ông dẫn cả bao nhiêu con người từ Ai Cập về đây, rồi bỏ mặc đấy mà leo lên núi một mình. Họ thấy bơ vơ thì họ cần một vị thần mới để dẫn đầu là đúng rồi. Mà tôi còn nghe mấy bà hàng xóm nói, có khi ông ta chết gục trên núi rồi đấy. Chứ nếu không thì ở lại trên đấy lâu như thế làm gì.
Ông A-ha-ron quay lại nhìn vợ mình. Ông nửa muốn thanh minh, nửa muốn quở trách bà vì nói năng không suy nghĩ gì cả. Rồi ông lại thôi, không nói gì cả. Ông quay lại ngọn đèn đang cháy đỏ trước mặt.
- Ông ấy lên núi để gặp Gia-vê, chứ có phải đi luôn đâu mà các người đã ăn nói hàm hồ. Rồi đến lúc ông ấy trở về thì biết nói làm sao?
- Ông cứ lo xa. Nếu gặp Gia-vê dễ dàng như thế thì chúng tôi cũng gặp suốt ngày à? Với lại có đi gặp Gia-vê thì cũng phải để cho dân ăn uống đầy đủ chứ. Đây thì đã đi bao nhiêu ngày rồi, bặt vô âm tín. Ai mà tin vào được lời ông ấy nói. Dù gì ông cũng đã đồng ý làm bê cho dân chúng. Mai lại còn chủ lễ cho mọi người rồi. Ông ý về thì cứ mặc kệ ông ý thôi.
Ông A-ha-ron quay lại nhìn vợ mình với vẻ mặt tức giận. Ông nói, hơi to lên so với mọi khi:
- Chỉ vì các người ép tôi quá đáng nên tôi mới làm theo. Tôi mà không làm thì lại sỉ vả, lại đòi ném đá. Cái dân này cứng đầu, có bao giờ nghe theo người đứng đầu đâu. Đến ông Mô-sê còn dám đe dọa, dám đòi ném đá thì tôi là gì trong mắt các người. Không vì bà và mấy đứa con, tôi đã mặc kệ chúng muốn làm gì thì làm, ném đá thì ném đá. Tôi vẫn tin ông Mô-sê sẽ quay về. Lúc đấy thì lại khóc lóc van vỉ xin tha thứ như lúc ở Ma-ra, ở sa mạc Xin.
Ê-li-sa-ven bực lắm. Bà buông xõng một câu:
- Cứ ở đấy mà chờ ông Mô-sê của ông. Nhưng dù gì thì dù, mai ông vẫn phải chủ lễ cho dân. Không họ lại cứ nhè mẹ con tôi mà mắng mỏ, mà sỉ vả. Làm lễ xong rồi ông muốn ngồi chờ ông Mô-sê của ông tôi cũng mặc. Nhưng mai mà ông không chủ lễ cho hẳn hoi thì đừng có trách tôi.
Bà bỏ mặc ông A-ha-ron ngồi đó một mình. Bà leo lên giường, rắn rứt lắm nên mãi mới đi ngủ được. Còn ông A-ha-ron cứ ngồi đó, bên cạnh con bê vàng mà mấy cha con ông hì hục một tuần lễ mới làm xong. Ông cứ đăm chiêu, rồi lại thở dài. Hết thở dài rồi lại đăm chiêu. Cho đến khi con gà trống nhà hàng xóm gáy báo canh mà đèn nhà ông vẫn sáng, giữa các căn lều đã tắt đèn từ tối sớm.
***
Ông A-ha-ron ngồi trên bực cao, nhìn đám dân chúng đang nhảy múa tưng bừng. Bao nhiêu năm nô lệ bên đất Ai Cập chẳng biết đến mùi tự do hay tiệc tùng, nên hôm nay họ ăn hết mình, uống hết mình, nhảy múa hết mình và biết bao nhiêu thứ hết mình nữa. Họ để ông một mình ở đó, sau khi đã bắt ông làm xong cái nhiệm vụ chủ lễ thờ con bê vàng. Họ có coi ông là lãnh đạo của họ đâu, cũng giống như họ chẳng coi con bê vàng kia là thần thánh gì cho đáng cả. Thần thánh gì mà hết kẻ này đến kẻ khác lên sờ soạng, cưỡi lên trên trong những tiếng cười điên loạn và sảng khoái. Ông và con bê vàng cũng chỉ là cái cớ cho đám dân cứng đầu này ăn chơi trác táng mà thôi. Ông nhắm mắt lại. Ông không thể nhìn cảnh này thêm nữa.
Bỗng…
Choang…
Có cái gì đó đổ vỡ. Ông A-ha-ron choàng mở mắt ra. Có hai tấm bia đá từ đâu bay thẳng tới con bê vàng. Dân chúng đang nhảy múa tưng bừng giờ thì giẫm đạp lên nhau mà bỏ chạy. Tiếng kêu, tiếng thét thất thanh. Rồi có một nhóm người đang lừng lững bước đến từ chân vách núi. Mô-sê! Đúng là Mô-sê thật rồi. Đi bên cạnh còn có cả Giô-suê nữa. Họ vẫn sống và giờ đã về. Đám dân chúng cũng đang bỏ chạy hoảng loạn khi nhìn thấy Mô-sê trở về. Ông ấy không nói không rằng, nhảy lên con bê vàng và gỡ nó ra khỏi cái bục đã xây lên cho nó. Ông sai Giô-suê mang nó ra phía đống lửa đang cháy rực mà dân chúng đã đốt lên để nhảy múa cả ngày hôm nay. Rồi họ ném con bê ấy vào đống lửa mà đốt nó đi. Nó tan chảy dần ra.
Ông A-ha-ron nhảy vội xuống khỏi cái bực của mình. Ông chạy vội đến chỗ ông Mô-sê đang đứng. Ông vừa mừng vì Mô-sê đã về, vừa lo sẽ bị quở trách. Nhưng nỗi mừng lớn hơn nỗi lo nên ông cứ chạy đến thật nhanh, quên đi rằng mình có thể bị quở trách rất nặng.
Mô-sê nhìn ông A-ha-ron với cặp mắt tức giận. Đôi mắt của ông không còn cái vẻ bao dung, hiền lành như mọi khi. Các cơ mặt của ông gồng lên cùng với sự tức giận đang đùng đùng trong lòng. Ông không nói với ông A-ha-ron lời nào mà đi thẳng vào lều của mình. Rồi ông A-ha-ron cũng đi theo vào sau đó.
- Anh Mô-sê đã về rồi đó ư? – Ông A-ha-ron hỏi nhỏ. Lúc này nỗi mừng của ông lại được thay bằng nỗi lo khi đã nhìn thấy sự tức giận của ông Mô-sê trước cảnh tượng đã diễn ra.
Ông Mô-sê uống ực cốc nước trên bàn để cho bớt cơn giận. Rồi ông quay sang A-ha-ron, quát lớn:
- Tại sao anh lại để chuyện này xảy ra? Anh lại để cho đám dân cứng đầu này đi thờ một con bê thay vì nhớ đến Gia-vê như tổ tiên sao? Khi biết điều này, Gia-vê đã rất tức giận. Tôi đã phải cầu xin để cơn thịnh nộ của Ngài không đổ xuống đây ngay đêm nay. Trước khi đi tôi đã giao dân chúng cho anh không phải để anh cùng họ làm những chuyện ngu xuẩn này trước mặt Gia-vê.
Ông A-ha-ron nói:
- Họ chờ anh mãi không thấy anh trở về nên đã bắt tôi làm ra con bê vàng đó. Tôi cũng nghĩ anh sẽ trở về nhưng vì đợi lâu quá, tôi đâm lo. Và họ cứ mắng chửi vợ con tôi, nên tôi mới chịu làm theo ý họ để họ thôi mắng chửi gia đình tôi.
Ông Mô-sê lắc đầu ngao ngán:
- Anh làm kỳ mục cho dân thì cần phải tin tưởng vào Gia-vê và người thay mặt Gia-vê hơn bất kỳ ai. Chỉ có chút đau khổ nhỏ nhặt này mà anh đã không trông chờ vào Gia-vê thì những đau khổ lớn hơn anh sẽ làm gì? Tôi biết anh làm thế cũng vì gia đình của mình,
nhưng khi đã chọn làm kỳ mục cho Gia-vê thì hãy chấp nhận hy sinh cả những tình cảm ấy để phục vụ cho Ngài. Và phải tin tưởng rằng
Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những sự hy sinh lớn lao của những người dám hiến thân phục vụ cho Ngài. Tôi xin lỗi – Ông A-ha-ron bật khóc – lần này lỗi của tôi quá lớn, không đáng được tha thứ. Chỉ xin anh là khi gặp Gia-vê thì xin Ngài đừng nhìn đến tội của dân chúng và gia đình tôi.
Tôi là người đứng đầu dân nên tôi cần chịu trách nhiệm trước những lỗi lầm của dân tới Gia-vê. Nhìn thấy ông A-ha-ron khóc, ông Mô-sê cũng dịu cơn giận phần nào. Ông đến vỗ vai người anh họ, người cộng sự đã luôn theo ông từ Ai Cập về đây. Ông nói:
- Tôi hiểu lòng của anh.
Gia-vê đủ lòng thương để tha thứ cho những kẻ biết hối lỗi của mình. Giờ anh và tôi sẽ đi tìm những kẻ chủ mưu trong chuyện này.
Kẻ làm nên tội dù có được tha thứ nhưng vẫn cần chịu trách nhiệm về tội mình đã gây ra. Anh hãy an lòng rồi cố gắng cùng tôi làm lại từ đầu.
Người kỳ mục thì chẳng thể bỏ rơi dân chúng dù họ có sai lỗi đến thế nào. Hãy tin vào tôi và nhất là luôn tin tưởng vào Gia-vê nữa.
Ông Mô-sê đến đỡ người anh của mình dậy. Hai người cùng bước ra ngoài, nơi Giô-suê và dân chúng đang đợi họ.