Thứ tư, 16/04/2025

Đức Giê-su Ki-tô Đường kiện toàn Thánh ý Thiên Chúa

Cập nhật lúc 10:51 16/04/2025
 
Đức Giê-su Ki-tô
ĐƯỜNG KIỆN TOÀN THÁNH Ý THIÊN CHÚA
 
 
Phêrô Nguyễn Văn Viên
 
 
Dẫn Nhập
1. HIỂU BIẾT THÁNH Ý THIÊN CHÚA
2. THÁNH Ý THIÊN CHÚA TRONG CỰU ƯỚC
3. ĐỨC GIÊ-SU - ĐƯỜNG KIỆN TOÀN THÁNH Ý THIÊN CHÚA
3.1 Hiện Diện Của Thánh Ý Thiên Chúa Trong Biến Cố Nhập Thể
3.2 Diễn Tả Thánh Ý Thiên Chúa Trong Hành Trình Loan Báo Tin Mừng
3.3 Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa Trong Biến Cố Vượt Qua
3.4 Các Môn Đệ Tiếp Tục Chương Trình Đức Giê-su
4. THEO ĐƯỜNG KIỆN TOÀN THÁNH Ý THIÊN CHÚA
4.1 Nhận Diện Thánh Ý Thiên Chúa
4.2 Sống Theo Thánh Ý Thiên Chúa
4.3 Loan Báo Thánh Ý Thiên Chúa
4.4 Khó Khăn Trong Việc Thực Thi Thánh ý Thiên Chúa
Kết Luận
 ========== 
Dẫn Nhập
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng thánh ý Thiên Chúa phát xuất từ bản tính thiêng liêng và huyền nhiệm của Người. Theo thánh ý Người, muôn vật hữu hình và vô hình được dựng nên và được duy trì, chăm sóc, biến đổi. Đặc biệt, theo thánh ý Người, muôn vật muôn loài được định hướng tới thời viên mãn. Thánh ý Thiên Chúa luôn bền vững giữa những biến đổi không ngừng của thế giới thụ tạo, đồng thời, thánh ý Người được diễn tả và thực thi nơi thế giới thụ tạo. Người không bất ngờ trước những gì xảy ra trong công trình do tay Người tác tạo bởi vì Người biết trước tất cả những gì hiện hữu và diễn tiến theo dòng lịch sử.
Con người là thụ tạo cao quý trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa bởi vì con người được dựng nên theo hình ảnh Người và được mời gọi tham dự sự sống của Người. Thánh ý Thiên Chúa là nguyên lý soi dẫn tư tưởng, lời nói và hành vi của con người trong tương quan với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài. Thánh ý Người không lệ thuộc muôn vật hữu hình và vô hình, không lệ thuộc không gian, thời gian cũng như những gì trong không gian, thời gian. Nói cách khác, thánh ý Thiên Chúa siêu việt mọi biên giới của thế giới thụ tạo và được thể hiện trong thế giới thụ tạo vì con người và cho con người hầu giúp con người hiệp nhất nên một với Người trong hành trình trần thế về với Quê Hương vĩnh cửu.
Thánh ý Thiên Chúa thể hiện cách cụ thể nơi Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và cũng là con của loài người, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su đã biểu lộ thánh ý Thiên Chúa, diễn tả thánh ý Thiên Chúa, thực thi thánh ý Thiên Chúa và kiện toàn thánh ý Thiên Chúa cách trọn hảo nhất. Hành trình trần thế của Người mở ra cho gia đình nhân loại niềm hy vọng là được cứu độ, được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại vừa kiện toàn thánh ý Thiên Chúa trong Cựu Ước, vừa biểu lộ thánh ý Thiên Chúa giữa muôn dân, vừa làm cho thánh ý Thiên Chúa được trọn vẹn trong thời cánh chung, thời viên mãn của Nước Thiên Chúa.
Chủ đề bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô, Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa’ được khai triển qua bốn đề mục như sau: (1) Hiểu Biết Thánh Ý Thiên Chúa, (2) Thánh Ý Thiên Chúa Trong Cựu Ước, (3) Đức Giê-su - Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa và (4) Theo Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa.
 
1. HIỂU BIẾT THÁNH Ý THIÊN CHÚA
Trong Tân Ước, danh từ ‘θέλημα’ (thélēma) có nghĩa là ý muốn (will), khát mong (desire) hay mục đích (purpose). Danh từ này phát xuất từ động từ ‘θέλω’ (thelō: To will, to wish, to desire, to want). Danh từ ‘θέλημα’ được sử dụng khá nhiều, chẳng hạn: Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi [ὃς [γὰρ] ἂν ποιήσῃ τὸ θέλημα τοῦ θεοῦ, οὖτος ἀδελφός μου καὶ ἀδελφὴ καὶ μήτηρ ἐστίν] (Mc 3,35); Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời [γενηθήτω τὸ θέλημά σου, ὡς ἐν οὐρανῶ καὶ ἐπὶ γῆς] (Mt 6,10); “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” [τοῦτο γάρ ἐστιν τὸ θέλημα τοῦ πατρός μου, ἵνα πᾶς ὁ θεωρῶν τὸν υἱὸν καὶ πιστεύων εἰς αὐτὸν ἔχῃ ζωὴν αἰώνιον, καὶ ἀναστήσω αὐτὸν ἐγὼ [ἐν] τῇ ἐσχάτῃ ἡμέρᾳ] (Ga 6,40); Xin cho ý Chúa được thể hiện! [τοῦ κυρίου τὸ θέλημα γινέσθω] (Cv 21,14). Thánh ý hay ý muốn của Thiên Chúa là con người được thừa hưởng ơn cứu độ vĩnh cửu của Người. Do đó, con người cần phải thực thi thánh ý Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Tuy nhiên, việc thực thi thánh ý Thiên Chúa phải đối diện với muôn vàn khó khăn bởi vì các thế lực của sự dữ luôn hoành hành trong môi trường nhân loại nhằm ngăn cản con người.
Thánh ý Thiên Chúa được diễn tả theo nhiều cách thức và tên gọi khác nhau trong nội dung đức tin Ki-tô Giáo, chẳng hạn như thánh ý Thiên Chúa trong việc sáng tạo, cứu độ, thánh hóa, hướng dẫn, tha thứ, hòa giải, thương xót, biến đổi, quy tụ và giải thoát con người cũng như đổi mới vạn vật (Rm 8,19-21; Kh 21,1-5). Ba hình thức chính yếu của thánh ý Thiên Chúa là: (1) Thánh ý định trước hay thánh ý tối thượng của Thiên Chúa (God’s ordained will or God’s sovereign will), nghĩa là điều Thiên Chúa muốn thì chắc chắn xảy ra, chẳng hạn như lời của tác giả Thánh Vịnh 135: “Muốn làm gì là Chúa làm nên, chốn trời cao cùng nơi đất thấp, lòng biển cả và đáy vực sâu” (Tv 135,6) hay lời của Đức Giê-su đối với Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11). Thánh ý định trước hay thánh ý tối thượng thể hiện quyền năng tuyệt đối và sự quan phòng nhiệm mầu của Thiên Chúa trên toàn thể vạn vật; (2) thánh ý huấn lệnh hay thánh ý luân lý của Thiên Chúa (God's will of precept or God’s moral will) thể hiện nơi giáo huấn của Thiên Chúa cho con người là hữu thể tự do thực hiện, chẳng hạn như lời của Thiên Chúa trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình(Lv 19,18) hay lời của Đức Giê-su: Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ(Lc 6,36). Thánh ý huấn lệnh hay thánh ý luân lý chính là con đường dẫn đến sự thánh thiện, do đó, con người được mời gọi yêu thương nhau như Đức Giê-su yêu thương con người (Ga 13,34); (3) thánh ý cho phép của Thiên Chúa (God's permissive will), nghĩa là Thiên Chúa cho phép sự dữ, đau khổ xảy ra nhưng không phải là ý muốn chủ động của Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa cho phép Xa-tan thử thách ông Gióp khi nói: "Được, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới (G 1,12) hay lời của Đức Giê-su trong cuộc thương khó: Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh (Lc 22,31-32). Dưới nhãn quan Kinh Thánh, chúng ta cần hiểu rằng Thiên Chúa không tạo nên đau khổ, sự dữ hay bất hạnh, nhưng trong tự do của con người và giới hạn của thế giới sa ngã, Thiên Chúa cho phép chúng xảy ra để thanh luyện, thức tỉnh và hướng dẫn con người tìm về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự lành, bởi vì: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Chính trong đau khổ, con người có cơ hội kết hiệp với Đức Giê-su chịu đóng đinh và khám phá ra sức mạnh cứu độ của tình yêu Thiên Chúa.
Theo thánh Au-gút-ti-nô (354-430): “Không điều gì xảy ra ngoài ý muốn của Thiên Chúa toàn năng: Hoặc là Người cho phép xảy ra, hoặc chính Người hành động(Augustine, Enchiridion 95). Lời khẳng định này cho thấy sự quan phòng nhiệm mầu của Thiên Chúa bao trùm toàn thể lịch sử và vạn vật, kể cả những gì xảy ra ngoài tầm hiểu biết của con người. Thiên Chúa muốn con người, đỉnh cao và trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo, luôn được thừa hưởng những điều tốt lành. Thánh Tô-ma A-qui-nô viết: Thiên Chúa không muốn điều tốt nào hơn chính bản thân sự thiện hảo của Người; tuy nhiên, Người có thể muốn điều thiện này hơn điều thiện khác. Do đó, Thiên Chúa không bao giờ muốn điều ác của tội lỗi, vì đó là sự mất trật tự đối với điều thiện thần linh. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể muốn điều ác do khiếm khuyết tự nhiên hoặc hình phạt, bởi vì Người muốn điều tốt gắn liền với những điều ác ấy. Chẳng hạn, khi Người muốn công lý thì Người cũng muốn hình phạt; khi Người muốn duy trì trật tự tự nhiên, thì Người cũng muốn một số sự vật bị hủy hoại theo quy luật tự nhiên (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.19, a.9). Qua đó, Thánh Tô-ma cho thấy Thiên Chúa có thể ‘muốn’ những hệ quả của sự dữ như phương tiện để đạt tới thiện ích cao cả hơn nhưng Người không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ luân lý. Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Người qua muôn vàn hình thức đau khổ mà con người phải gánh chịu từ hậu quả của hành vi luân lý bản thân hay anh chị em cũng như từ sự bất toàn của thế giới thụ tạo.
Con người hiểu biết, đón nhận và thực thi thánh ý Thiên Chúa theo cách thức Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử cứu độ. Điều này có nghĩa rằng, với lý trí tự nhiên, con người có thể tiếp cận thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên, do hậu quả của Tội Nguyên Tổ, lý trí con người trở nên lu mờ, dễ sa vào sai lầm và chịu ảnh hưởng nặng nề của cảm tính cũng như những điều kiện giới hạn khác. Nhờ Thiên Chúa tự thông ban (God’s self-communication), tự mặc khải, con người mới có thể hiểu biết thánh ý Thiên Chúa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của con người về thánh ý Người vẫn rất giới hạn và bất toàn vì con người vẫn sống trong điều kiện giới hạn của không gian, thời gian và lệ thuộc những gì trong không gian, thời gian. Do đó, để tìm hiểu, phân định và thực thi thánh ý Thiên Chúa, con người cần có đời sống cầu nguyện, khiêm nhường và luôn mở lòng đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bởi vì, nhờ Đức Giê-su, Đấng mặc khải trọn vẹn Chúa Cha và trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể bước vào mối tương quan sống động với Thiên Chúa, từ đó nhận ra, yêu mến và chu toàn thánh ý Người (Ga 14,21; Rm 12,2).
Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu. Do đó, những gì thuộc về Người đều vĩnh cửu. Tác giả Thánh Vịnh viết: “Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên, địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành, Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời” (Tv 90,2). Thiên Chúa không có khởi đầu cũng chẳng có cùng tận vì chính Người là Nguồn Cội và Cùng Đích của vạn vật. Thiên Chúa là ‘Đấng Hiện Hữu’ hay ‘Tự Hữu’, nghĩa là Người không thiếu thốn hay cần bổ sung bất cứ thứ gì. Tác giả Thánh Vịnh 102 viết: ”Xưa Chúa đã đặt nền trái đất, chính tay Ngài tạo tác vòm trời. Chúng tiêu tan, Chúa còn hoài, chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao. Ngài thay chúng khác nào thay áo, nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên; tháng năm Ngài vẫn triền miên” (Tv 102,26-27). Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Ma-la-khi cho chúng ta biết Thiên Chúa không đổi thay: “Chính Ta là Đức Chúa, Ta không hề thay đổi; còn các ngươi là con cái Gia-cóp, các ngươi vẫn là thế. Từ thời cha ông các ngươi, các ngươi đã trệch xa và không tuân hành các chỉ thị của Ta. Hãy trở lại với Ta và Ta sẽ quay lại với các ngươi (Ml 3,6-7). Thiên Chúa là Đấng bất biến trong bản thể, ý định và lời hứa nhưng Người có thể hành động khác nhau tùy theo sự đáp trả của con người trong lịch sử cứu độ. Thiên Chúa không đổi thay nhưng Người thay đổi tất cả, chẳng hạn như lời Người phán qua miệng ngôn sứ Xô-phô-ni-a với dân Do-thái tại Giê-ru-sa-lem: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” (Xp 3,17). Vì thế, sự bất biến hay lòng trung tín và tình yêu của Thiên Chúa luôn là bảo chứng cho niềm hy vọng và sự biến đổi nơi con người, biến đổi để trở nên giống Thiên Chúa là Đấng Thánh như lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Thiên Chúa luôn đi bước trước trong mọi hoàn cảnh của đời sống con người, chẳng hạn: Những kẻ không hỏi Ta thì Ta đã cho gặp; những kẻ không tìm Ta, Ta đã xuất hiện cho chúng thấy. Với một dân chẳng kêu cầu danh Ta, Ta đã phán: Ta đây, Ta đây này! (Is 65,1). Thiên Chúa trung tín và đi bước trước là chủ đề xuyên suốt Kinh Thánh. Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại (Ga 15,16). Lời này cho thấy rằng không phải do sáng kiến hay công trạng của con người nhưng nhờ sáng kiến và sự tuyển chọn nhưng không của Thiên Chúa mà con người được mời gọi tham dự vào sứ mạng cứu độ. Thánh Phao-lô khẳng định: Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta (Rm 5,8). Còn thánh Gio-an Tông Đồ thì viết: Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4,19). Tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa không chỉ là hành vi nhưng không, mà còn là lời mời gọi đáp trả bằng lòng tin, sự hoán cải và đời sống yêu thương phục vụ anh chị em mình.
Khi con người sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, con người có thể thực thi những công việc theo ơn gọi và đặc sủng mà mình lãnh nhận. Tác giả sách Giảng Viên nhắc nhở: Những gì trong tầm tay, bạn hãy ra sức làm(Gv 9,10). Thánh Au-gút-ti-nô khuyên dạy: “Hãy yêu và làm điều bạn muốn” [Dilige, et quod vis fac/ Love, and do what you will] (Augustine, Homilies on the First Epistle of John [1 Ga 4,4-12; Homily 7.8]). Người ta thường diễn giải câu này như là: Ama Deum et fac quod vis (Love God and do what you will/ Hãy yêu mến Chúa và làm điều bạn muốn). Câu nói tưởng như đề cao tự do tuyệt đối của con người, nhưng trong thực tế, thánh nhân nhấn mạnh rằng chỉ khi tình yêu của con người được bén rễ sâu trong Thiên Chúa thì những hành động xuất phát từ tình yêu đó mới là đúng đắn. Quả thực, khi con người có thể yêu mến Thiên Chúa theo thánh ý Người thì con người có thể làm bất cứ điều gì theo ý muốn của mình bởi vì ý muốn của mình phù hợp với thánh ý Người. Ngược lại, khi con người không yêu mến Thiên Chúa theo thánh ý Người thì con người không thể làm được điều gì tốt đẹp.
Muôn vật muôn loài hiện diện và hoạt động trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,26). Theo thánh Tô-ma A-qui-nô: Phải khẳng định rằng ý muốn của Thiên Chúa là nguyên nhân của vạn vật; và Người hành động theo ý muốn, chứ không phải theo một tất yếu nội tại của bản tính (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.19, a.4). Điều này có nghĩa rằng, nhờ vào thánh ý tự do và tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa, muôn vật muôn loài được hiện hữu, và Thiên Chúa không bị ép buộc để sáng tạo. Người sáng tạo không vì cần bất cứ điều gì mà vì muốn thông ban sự sống, sự thiện hảo và vinh quang của Người cho thụ tạo. Thế giới thụ tạo diễn tả quyền năng và vinh quang của Người như lời tác giả Thánh Vịnh 19: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2) hay: Mây lang thang, xoay đủ mọi chiều, theo đúng chương trình Người hoạch định, để trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi lệnh Người truyền (G 37,12). Cao cả hơn hết trong công trình tạo dựng là con người bởi vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (imago Dei) như lời của Người trong sách Sáng Thế: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26). Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người không chỉ là lý trí, ý chí hay tự do mà còn là khả năng yêu thương, tương quan và thực thi trách nhiệm của mình đối với thụ tạo. Hơn nữa, chính thế giới thụ tạo phản ánh quyền năng của thánh ý Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,20).
Khi đối diện với đau khổ, con người thường than trách Thiên Chúa hoặc nghi ngờ quyền năng của Người. Tuy nhiên, theo đức tin Ki-tô Giáo, đau khổ không bao giờ là dấu chỉ Thiên Chúa bỏ rơi con người, trái lại, đó có thể là nơi Thiên Chúa hiện diện cách sâu thẳm và huyền nhiệm nhất bởi vì Thiên Chúa tốt lành luôn dõi theo con người. Thánh Au-gút-ti-nô viết: Thiên Chúa tốt lành sẽ không cho phép điều xấu xảy ra, trừ phi trong quyền năng vô biên của Người, Người có thể khiến điều xấu phục vụ cho điều tốt” (Augustine, Enchiridion 100). Cũng theo thánh nhân: “Thiên Chúa thường thực hiện các mục đích tốt lành của Người thông qua những ý định xấu xa của con người tội lỗi: Chẳng hạn, chính qua âm mưu ác độc của người Do-thái mà chương trình tốt lành của Chúa Cha được thực hiện khi Đức Ki-tô bị giết - một sự kiện tốt lành đến mức khi Phêrô tông đồ bày tỏ ý định muốn ngăn cản điều ấy xảy ra, thì Chúa đã gọi ông là Xa-tan” (Augustine, Enchiridion 101). Đặc biệt, thánh nhân giải thích: “Thiên Chúa biết trước rằng con người sẽ dùng tự do cách sai lầm, tức là sẽ phạm tội, nên Người đã sắp đặt chương trình của Người sao cho con người dù có sa ngã vẫn nhận được sự thiện từ Thiên Chúa. Như thế, ý muốn thiện hảo của Đấng Toàn Năng không bị ý muốn ác độc của con người làm thất bại, nhưng được hoàn thành bất chấp nó” (Augustine, Enchiridion 104). Thánh nhân cho thấy rằng Thiên Chúa có thể dùng ngay cả những nghịch cảnh, khổ đau để dẫn đưa nhân loại đến ơn cứu độ viên mãn nhờ Đức Giê-su đã vâng phục thánh ý Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh, nhất là Biến Cố Vượt Qua của Người giữa gia đình nhân loại.
 
2. THÁNH Ý THIÊN CHÚA TRONG CỰU ƯỚC
Thánh Ý Thiên Chúa trong Cựu Ước được thể hiện qua các giao ước giữa Người và gia đình nhân loại, nhất là với dân Do-thái. Sách Sáng Thế không trình bày cách minh nhiên việc Thiên Chúa thiết lập Giao Ước với A-đam nhưng một số trình thuật Cựu Ước cho phép chúng ta hiểu về điều này, chẳng hạn như St 1,26-30; 2,16-17; Hs 6,6-7. Với ‘giao ước đầu tiên’ này, A-đam cũng như các thế hệ kế tiếp được hưởng phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, A-đam đã vô ơn, đã kiêu ngạo, bất tuân thánh ý Thiên Chúa, khiến tội lỗi xâm nhập trần gian và làm tổn thương mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa cũng đã ký kết giao ước với Nô-ê và miêu duệ của ông sau biến cố Hồng Thủy như dấu chỉ của sự trung tín và lòng thương xót. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Áp-ra-ham, Mô-sê, Đa-vít là những người đại diện cho dân Do-thái. Nội dung các giao ước bao gồm việc dân Do-thái lắng nghe, đón nhận và thực thi thánh ý Thiên Chúa qua lề luật và lời các ngôn sứ. Tuy nhiên, dân Do-thái đã nhiều lần phản loạn, quay lưng và bất tuân thánh ý Thiên Chúa. Nói cách khác, họ muốn làm theo ý mình hơn là thánh ý Thiên Chúa. Hậu quả là họ phải chịu nhiều tai ương, thử thách, đặc biệt là cảnh lưu đày nơi đất khách quê người.
Dưới nhãn quan Cựu Ước, ai thực thi thánh ý Thiên Chúa thì được gần gũi với Người. Dĩ nhiên, sự gần gũi ở đây không chỉ mang nghĩa không gian hay thời gian mà còn là tâm trí. Chẳng hạn, Áp-ra-ham thân thưa cùng Đức Chúa để can thiệp cho thành Xơ-đôm: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?” (St 18,23). Trong hành trình về với Đất Hứa, Mô-sê thường đàm đạo với Thiên Chúa. Trình thuật sách Xuất Hành cho chúng ta biết: “Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?” (Xh 32,11). Cũng theo sách Xuất Hành: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Đây là hình ảnh độc đáo trong Cựu Ước, diễn tả sự thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người được Thiên Chúa tuyển chọn. Ông Gióp vừa ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa, vừa cảm nhận sự cô đơn trống vắng vì Thiên Chúa ‘ẩn mặt’ giữa muôn hình thức khốn khó mà ông phải gánh chịu: “Con đã phạm bao nhiêu tội lỗi? Bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết. Sao Ngài lại ẩn mặt, và xem con như thù địch của Ngài?” (G 13,23-24).
Áp-ra-ham đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa trong việc rời quê cha đất tổ để đến miền Ca-na-an. Ông thể hiện lòng trung tín theo thánh ý Thiên Chúa cách mạnh mẽ và đầy tin tưởng, đặc biệt là qua việc hiến tế con mình là I-xa-ác. Trình thuật sách Sáng Thế cho chúng ta biết: “Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham: Cha! Ông Áp-ra-ham đáp: Cha đây con! Cậu nói: Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu? Ông Áp-ra-ham đáp: Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu” (St 22,6-8). ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ hay ‘theo ý Thiên Chúa’: Câu trả lời của Áp-ra-ham cho thấy đức tin vững vàng và lòng tín thác tuyệt đối của ông trước sự mất mát quá lớn sắp xảy đến là đứa con của ông được sinh ra trong cảnh già nua hiếm muộn phải chết. Tuy nhiên, thánh ý Thiên Chúa không dẫn đến sự chết nhưng mở ra sự sống khi để cho I-xa-ác được bình an vô sự. Thiên Chúa thể hiện lòng từ bi lân tuất của Người theo cách mà Áp-ra-ham không thể lường trước: Chính con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây sẽ thế chỗ I-xa-ác trong lễ tế toàn thiêu. Hành động này không chỉ minh chứng sự trung thành của Thiên Chúa trong giao ước mà còn tiên báo Hy Tế của Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, cho gia đình nhân loại được ơn cứu độ.
Câu chuyện ông Giu-se, người con trai thứ mười một của Gia-cóp bị các anh mình bán sang Ai-cập là một trong những câu chuyện điển hình về thánh ý Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Từ người nô lệ của những người giàu có ở Ai-cập, Giu-se lại trở thành người được Thiên Chúa dùng để nuôi dưỡng dân Ai-cập cũng như các dân trong vùng phụ cận. Bởi vì, khi toàn cõi Ai-cập bị đói kém, dân chúng kêu lên Pha-ra-ô và ông bảo họ đến với Giu-se: "Cứ đến với ông Giu-se; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo" (St 41,55). Không những Ai-cập, nạn đói tràn lan khắp vùng và người ta đến với Giu-se: “Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập để mua lúa mì của ông Giu-se, vì nạn đói hoành hành trên khắp mặt đất" (St 41,57). Khi nạn đói hoành hành vùng Ca-na-an, nghe tin bên Ai-cập có lúa bán, Gia-cóp sai các con mình xuống Ai-cập mua lúa. Như vậy, Giu-se từ người bị các anh bán, lại trở thành người bán lương thực cho các anh để cứu sống gia đình, giúp con cháu nhà Gia-cóp thoát khỏi thảm cảnh chết đói. Sự đảo ngược số phận này phản ánh cách kỳ diệu Thiên Chúa hành động vượt quá tư tưởng của loài người, lấy sự dữ phục vụ sự lành, biến nghịch cảnh thành cơ hội cứu sống. Giu-se không nuôi hận thù với các anh mình nhưng yêu thương họ hết mực vì ông nhận ra thánh ý Thiên Chúa thể hiện nơi ông. Khi các anh của Giu-se tỏ lòng thần phục, cúi rạp trước mặt ông thì ông nói với họ: “Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh" (St 50,19-21). Câu nói này trở thành biểu tượng sống động của lòng tin tưởng nơi thánh ý Thiên Chúa và cách thức cũng như đường lối siêu việt của Thiên Chúa so với cách thức và đường lối bất toàn của con người.
Câu chuyện ông Gióp giúp mọi người hiểu biết hơn về thánh ý huyền nhiệm và công minh của Thiên Chúa. Ông mất tất cả nhưng không mất niềm tin và hy vọng vào sự công thẳng của Thiên Chúa. Ông nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: Xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (G 1,21). Trong cảnh ông Gióp khổ sở, đau đớn và mất mát, bà vợ khuyên ông nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho khuất mắt mọi người, ông Gióp đáp: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10). Khi thân thể bị biến dạng và cái chết cận kề, ông tin tưởng rằng Thiên Chúa hằng sống sẽ cho ông được sống cách viên mãn hơn: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Đây là một trong những lời tuyên xưng mạnh mẽ nhất về niềm hy vọng vào sự sống lại và sự công chính của Thiên Chúa trong toàn bộ Cựu Ước. Thiên Chúa đã đổi vận mệnh ông Gióp, cho ông sức khỏe dồi dào, sống lâu với đoàn con cháu đông đúc và phú túc giàu sang gấp bội so với trước. Một trong những lời cuối cùng của ông Gióp là tán tụng thánh ý Thiên Chúa: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu” (G 42,2). Ông được toại nguyện, được Thiên Chúa thi ân giáng phúc, từ giã cõi đời trong an bình và hy vọng vào sự sống vĩnh cửu.
Câu chuyện Đa-vít được xức dầu phong vương bởi ngôn sứ Sa-mu-en cho chúng ta hiểu rõ hơn về thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, vốn luôn vượt trên lối nhìn và chọn lựa của con người. Trong khi con người thường quan tâm bên ngoài, đánh giá theo hiện tượng, theo dáng vóc thể chất, thì Thiên Chúa lại quan tâm bên trong, đặt trọng tâm nơi bản chất và đời sống tinh thần của con người. Quả thực, ngôn sứ Sa-mu-en được Thiên Chúa sai đến nhà Gie-sê để xức dầu phong vương cho một trong những con trai của ông. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã không chọn đứa nào trong bảy người con xem ra sáng giá của Gie-sê. Người đã chọn ‘đứa con út’ của Gie-sê là Đa-vít. Trình thuật sách Sa-mu-en quyển thứ nhất cho chúng ta biết ngay khi gặp đứa đầu tiên là Ê-li-áp, Sa-mu-en tưởng là Ê-li-áp được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng Thiên Chúa đã nói với ông: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Kế đó, sáu đứa con của Gie-sê được giới thiệu và không đứa nào được chọn (1 Sm 16,10). Còn Đa-vít, đứa con út đang chăn chiên, thì được gọi về và ngôn sứ Sa-mu-en xức dầu tấn phong Đa-vít: “Thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi. Ông Sa-mu-en đứng dậy và đi Ra-ma” (1 Sm 16,13). Sự chọn lựa này cho thấy thánh ý Thiên Chúa không dựa trên chuẩn mực của người đời mà phát xuất từ ánh nhìn yêu thương và kế hoạch cứu độ huyền nhiệm của Người.
Đối với Mô-sê, lời của Thiên Chúa luôn được ứng nghiệm, luôn trở thành hiện thực, chẳng hạn như theo lời ông: “Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh Đức Chúa không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Đức Chúa đã phán; ngôn sứ đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn sứ ấy” (Đnl 18,22). Đời sống của các ngôn sứ trong Cựu Ước cho chúng ta nhận thức rằng các ngài phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách. Họ thường hoang mang, do dự, thậm chí khước từ sứ mạng vì sợ hãi trước thánh ý Thiên Chúa cũng như sự khước từ của dân chúng. Thông điệp của các ngài thường làm cho dân Do-thái khó chịu bởi vì họ phải ăn năn hối cải. Đặc biệt, các ngài gặp nhiều chống đối trong việc uốn nắn tâm hồn chai đá của dân. Khi Thiên Chúa kêu gọi, Giê-rê-mi-a thưa lên cùng Thiên Chúa: "Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!" (Gr 1,6). Khi bị A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết Ên thách thức, A-mốt trả lời ông A-mát-gia: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta" (Am 7,14-15). Dù không xuất thân từ hàng ‘ngôn sứ chuyên nghiệp’, A-mốt vẫn trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa trao như một minh chứng rằng thánh ý Thiên Chúa có thể thể hiện nơi bất cứ ai Người muốn. Trong Tân Ước, Đức Giê-su khiển trách những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật: “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng” (Lc 11,47-8). Lời trách cứ này nhắc nhở mọi người rằng ai khước từ các ngôn sứ là khước từ thánh ý của Thiên Chúa, Đấng luôn kêu gọi mọi người hoán cải để được sống và sống dồi dào.
Thánh ý Thiên Chúa diễn tả cách sống động và cụ thể qua các kế hoạch của Người như lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng” (Gr 29,11). Kế hoạch của Thiên Chúa diễn ra khi con người biết thành tâm cộng tác qua đời sống cầu nguyện và tìm kiếm thánh ý Người, chẳng hạn như lời Người trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Các ngươi kêu cầu Ta, các ngươi đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhận lời các ngươi. Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp” (Gr 29,12-14). Theo tác giả sách Huấn Ca: Mọi công trình của Đức Chúa thảy đều tốt đẹp, đúng thời đúng buổi, Người đáp ứng hết mọi nhu cầu” (Hc 39,33). Quả thực, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giê-su đến thế gian để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, mặc khải trọn vẹn chương trình cứu độ và kiện toàn thánh ý của Người nơi nhân loại.
 
3. ĐỨC GIÊ-SU - ĐƯỜNG KIỆN TOÀN THÁNH Ý THIÊN CHÚA
3.1 Hiện Diện Của Thánh Ý Thiên Chúa Trong Biến Cố Nhập Thể
Thánh ý Thiên Chúa trong dòng lịch sử nhân loại, đặc biệt, trong Cựu Ước được kiện toàn nhờ sự hiện diện của Đức Giê-su. Lời đầu tiên của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái về Đức Giê-su minh chứng điều đó: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1,1-2). Sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng trần thế là sự kiện toàn mặc khải của Thiên Chúa cho loài người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ‘có’ nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘A-men’ để tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cr 1,20). Khi diễn giải về việc Đức Giê-su nhập thể, thánh A-tha-na-xi-ô viết: “Người không chỉ đơn giản muốn nhập thể, hoặc chỉ muốn tỏ mình ra một cách bề ngoài. Vì nếu chỉ muốn xuất hiện, thì Người hoàn toàn có thể dùng những cách thế khác cao cả hơn để bày tỏ thần tính của mình. Nhưng Người đã mặc lấy một thân xác giống như chúng ta và không chỉ vậy, mà còn là thân xác được sinh ra từ một trinh nữ vẹn tuyền và vô nhiễm” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 8.3).
Sự hiện diện của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại đã được tiên báo nhiều lần trong Cựu Ước. Chẳng hạn, trong sách Sa-mu-en quyển thứ hai, Thiên Chúa nói với Đa-vít qua miệng ngôn sứ Na-than: Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi(2 Sm 7,12-13) hay lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực… Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta (Gr 23,5-6). Con vua Đa-vít được đề cập đây là Sa-lô-môn. Tuy nhiên, những trích đoạn này mời gọi mọi người hướng về Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a, Vua vĩnh cửu như thánh Mát-thêu trình thuật trong câu đầu tiên của Tin Mừng: Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham (Mt 1,1).
Hành trình trần thế của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng những gì trong Tân Ước đã ẩn tàng trong Cựu Ước và những gì trong Cựu Ước đã tỏ lộ trong Tân Ước và hiệu quả của Biến Cố Đức Giê-su tồn tại luôn mãi (DV 16). Chẳng hạn, trình thuật truyền tin theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết, trong giấc mộng, sứ thần Thiên Chúa nói với Giu-se: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,22-23; Is 7,14) hay khi thánh Giu-se đưa Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a về Na-da-rét thì thánh Mát-thêu viết rằng việc đó ứng nghiệm lời của Thiên Chúa qua miệng các ngôn sứ: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét” (Mt 2,23). Theo thánh ý Thiên Chúa, Đấng Mê-si-a sống ở Na-da-rét, miền quê khiêm tốn và cũng là nơi Đức Giê-su bị ruồng bỏ như đã được đề cập trong Cựu Ước (Lc 4,24; Is 53,3).
Trong Biến Cố Truyền Tin, sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,30-33). Sau khi được sứ thần Gáp-ri-en giải thích ý định và chương trình của Thiên Chúa về Đấng mà mình cưu mang, nhất là được sứ thần nhắc nhở rằng ‘đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể’, Đức Ma-ri-a khiêm tốn đón nhận lời sứ thần truyền tin: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Biến Cố Truyền Tin thật đặc biệt trong cuộc đời của Đức Ma-ri-a bởi vì với sự khiêm tốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa, gia đình nhân loại bước sang trang sử mới là những ai gắn bó với Đức Giê-su và thực thi thánh ý Người thì được cứu độ, được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi cũng như sự chết. Về phần mình, Đức Ma-ri-a hằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt hành trình trần thế và trở nên mẫu gương sáng ngời cho mọi người trong dòng lịch sử.
Đức Giê-su là Ánh Sáng đã được tiên báo trong Cựu Ước qua các Thánh Vịnh và lời các ngôn sứ. Tác giả Thánh Vịnh 43 viết: Xin Ngài thương sai phái ánh sáng và chân lý của Ngài, để soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên đền Ngài ngự (Tv 43,3). Dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, ngôn sứ I-sai-a nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi (Is 9,1). Biến Cố Giáng Sinh của Đức Giê-su diễn ra trong đêm tối hầu giúp mọi người ý thức rằng Đức Giê-su là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng xuất hiện giữa gia đình nhân loại. Chẳng hạn, sau khi chứng kiến Đức Giê-su bằng xương bằng thịt, ông Da-ca-ri-a, cha của Gio-an Tẩy Giả, đã cất lên ‘Bài Ca Chúc Tụng’ (Benedictus) với hai câu cuối cùng là: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79).
Lời Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Mi-kha cho dân Do-thái biết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5,1). Lời này được ứng nghiệm trong biến cố các nhà chiêm tinh tới Giê-ru-sa-lem hỏi về nơi sinh của ‘Đức Vua dân Do-thái’. Các thượng tế và kinh sư cho họ biết: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,5-6). Chúng ta cũng gặp ý tưởng tương tự trong Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an được thốt ra từ miệng những người hoài nghi căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su: “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” (Ga 7,42).
Khởi đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến sông Gio-đan để chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Khi gặp Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả nói với Người: Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" (Mt 3,14). Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính(Mt 3,15). Sau đó, Gio-an Tẩy Giả chiều theo ý Đức Giê-su. Câu trả lời của Đức Giê-su cho chúng ta biết Người cần thực thi thánh ý Chúa Cha trong việc ‘đồng hình đồng dạng với mọi người’ (ngoại trừ tội lỗi). Đặc biệt, việc Đức Giê-su chịu Phép Rửa báo trước Bí Tích Thánh Tẩy của những người Ki-tô hữu, nhờ đó, họ cùng chết với Đức Giê-su và được phục sinh vinh hiển với Người. Thánh Au-gút-ti-nô diễn giải biến cố này như sau: “Khi Đức Giê-su đến và chịu phép rửa bởi Gio-an, thì chính Chúa đã chịu phép rửa bởi tôi tớ của mình và Người diễn tả sự kiện này như là mẫu gương của sự khiêm nhường; vì chính trong sự khiêm nhường ấy mà Người cho thấy sự công chính được nên trọn vẹn” (Augustine, Sermon 2 on the New Testament). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa và là Đấng vô tội lại chịu phép rửa như bao người khác. Đây là điều vượt quá sự hiểu biết của con người.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết sau khi chịu phép rửa, Đức Giê-su chịu cám dỗ bốn mươi đêm ngày trong sa mạc. Tên cám dỗ trích Kinh Thánh hầu có thể làm ‘xiêu lòng’ Đức Giê-su. Chẳng hạn, khi bị cám dỗ về cơm bánh (sự thỏa mãn đời sống thể xác), Đức Giê-su nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4,4). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 8,3). Khi bị cám dỗ về sự bảo vệ của Thiên Chúa qua việc thực thi phép lạ, Đức Giê-su đáp lại tên cám dỗ: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (Mt 4,7). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,16). Khi bị cám dỗ về quyền lực và vinh quang mà không kinh qua đau khổ hay thập giá, Đức Giê-su đáp lại tên cám dỗ: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi (Mt 4,10). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,13).
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng khi Đức Giê-su mười hai tuổi, Người theo Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua theo luật Mô-sê. Sau đó, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se lên đường về nhà mà không biết rằng Đức Giê-su đang ở lại Giê-ru-sa-lem. Hai ông bà trở lại tìm Đức Giê-su. Theo thánh Lu-ca: “Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! Người đáp: Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói” (Lc 2,48-50). Sau đó, Đức Giê-su đã cùng với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Điều đó cho chúng ta biết Đức Giê-su không chỉ vâng phục thánh ý Chúa Cha mà còn vâng phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se theo thánh ý Chúa Cha.
 
3.2 Diễn Tả Thánh Ý Thiên Chúa Trong Hành Trình Loan Báo Tin Mừng
Sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa và trải qua bốn mươi ngày chay tịnh trong sa mạc, Người trở về Ga-li-lê loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngày sa-bát, Người vào hội đường và đọc sách ngôn sứ I-sai-a trong đó có đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 14,18-19; Is 61,1-3). Người nói rằng những lời Người vừa đọc đã được ứng nghiệm. Ban đầu, dân Do-thái thán phục vì những lời từ miệng Người. Tuy nhiên, sau đó, họ đã trở lòng phản kháng và Đức Giê-su nói với họ: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (Lc 4,24). Dân Do-thái phẫn nộ kéo Người lên thành trên núi để xô Người xuống, nhưng người đã ‘băng qua giữa họ mà đi’ (Lc 4,30). Trong Tân Ước, chúng ta cũng gặp một số đoạn tương tự, chẳng hạn: “Họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến (Ga 7,30); Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ (Ga 9,59) hay: Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ (Ga 10,39). Ở đây, chúng ta thấy sự tương phản giữa ý của dân Do-thái, nhất là các kinh sư, những người Pha-ri-sêu và thánh ý Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su. Nói cách khác, dân Do-thái muốn đối xử với Đức Giê-su theo ý họ nhưng không thể thực hiện được bởi vì ý họ ‘không đồng nhịp’ với ý của Đức Giê-su và cũng là thánh ý Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10,18).
Các trình thuật Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta biết rằng khi Đức Ma-ri-a và anh em của Đức Giê-su đến gặp Người nhưng không thể gặp được vì dân chúng đông đúc, người ta nói với Đức Giê-su rằng Mẹ và anh em của Người muốn gặp Người. Đức Giê-su đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,33-35). Đức Giê-su không từ chối Đức Ma-ri-a và anh em Người. Câu trả lời của Người mời gọi mọi người mở tâm trí để có thể hiểu biết hơn về chương trình trần thế của Người là thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Gia đình cho phép mọi người được gắn bó với Người, với Thiên Chúa và với nhau trong hành trình về với Gia Đình viên mãn của Thiên Chúa.
Đức Giê-su cho những người Do-thái, nhất là những người Pha-ri-sêu, biết căn tính của Người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người" (Ga 8,28-29). Một mặt, Đức Giê-su nói rằng Người là Đấng Hằng Hữu (Ἐγώ Εἰμι (Egō Eimi)/ I Am). Mặt khác, Người mặc khải rằng Người là Đấng luôn hiệp nhất nên một với Chúa Cha. Trong sách Xuất Hành, khi Mô-sê hỏi tên của Thiên Chúa, Người bảo rằng Người là ‘Đấng Hiện Hữu’ (אֶהְיֶה אֲשֶׁר אֶהְיֶה/ Ehyeh Asher Ehyeh/ I Am Who I Am), nghĩa là Đấng Hằng Hữu, Tự Hữu và muôn đời tồn tại. Điều này có nghĩa rằng Đức Giê-su nên một với Đức Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp: Người không chỉ là một ngôn sứ hay thầy dạy mà là Đấng muôn đời tồn tại. Qua đây, chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa, đồng thời, Người cũng là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ và giải thoát con người cũng như biến đổi muôn vật muôn loài.
Quan tâm của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là ý Chúa Cha được thể hiện. Nhiều lần trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói về tương quan mật thiết giữa Người với Chúa Cha. Chẳng hạn, Người nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11,25-26). Khi người Do-thái ngạc nhiên về cách ứng xử và đạo lý của Đức Giê-su thì Người nói: "Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính” (Ga 7,16-18). Như vậy, đối với Đức Giê-su, ai thực thi thánh ý Chúa Cha thì hiểu được những điều Người giảng dạy bởi vì Người đang giảng dạy những điều theo thánh ý Chúa Cha.
Khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Đây là cách thức cầu nguyện phù hợp nhất bởi vì xuất phát từ Con Thiên Chúa trong thân phận con người: "Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Đối với Đức Giê-su, cầu nguyện trước hết là hướng về Thiên Chúa là Cha của Người và cũng là Cha của những ai ở lại, lắng nghe, tin tưởng và thông hiệp với Người. Điều căn bản là ‘ý Cha thể hiện’ chứ không phải là ‘ý con thể hiện’. Trong hành trình trần thế, chính Đức Giê-su luôn thực thi cách thức cầu nguyện này (Mt 26,39; Mc 14,36). Đặc biệt, trong lời cầu nguyện của Người trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người cầu nguyện cho chính mình, cho các môn đệ và cho những ai nhờ các môn đệ mà tin vào lời của Người (Ga 17,1-5; 17,6-19; 17,20-26).
Khi những người lãnh đạo tôn giáo Do-thái bắt bẻ Đức Giê-su vì họ cho rằng Người tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa, Người nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy… Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,19-21). Đặc biệt, Đức Giê-su cho họ biết ‘trật tự’ giữa Người và Chúa Cha khi Người thực thi mọi công việc trong hành trình trần thế theo thánh ý Chúa Cha: “Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30).
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết Đức Giê-su đã nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Người bắt đầu với việc đơn giản nhất là xin nước uống từ người phụ nữ. Nhờ cuộc trò chuyện này, người phụ nữ cũng như nhiều người khác ở Sa-ma-ri tin tưởng vào Đức Giê-su. Sau khi trở về gặp Đức Giê-su, các môn đệ mời Người dùng bữa thì Người nói: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết” (Ga 4,32). Trong khi các môn đệ bỡ ngỡ hỏi nhau xem ai đã mang thức ăn đến cho Người thì Người nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Câu hỏi đặt ra: ‘Đức Giê-su muốn nói về lương thực gì?’ Thưa, đó là lương thực tâm hồn. Qua đó, Đức Giê-su dạy cho các môn đệ biết họ cần lương thực tâm hồn chứ không chỉ đơn thuần là lương thực thể xác. Quả thực, năng lực của Đức Giê-su đến từ việc thực thi thánh ý Chúa Cha hay thực thi lời của Thiên Chúa như được đề cập trong sách Đệ Nhị Luật: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3).
Đức Giê-su thể hiện tình yêu và quyền năng của Người qua các phép lạ và dấu chỉ, chẳng hạn như cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què được khỏi. Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ I-sai-a: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35,5-6). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết, trong khi ngồi tù, Gio-an Tẩy Giả nghe những điều về Đức Giê-su làm liền sai các môn đệ hỏi xem Người có phải là Đấng phải đến hay họ còn phải đợi ai khác. Đức Giê-su nói với họ: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi" (Mt 11,4-6). Những người bệnh tật, bị loại trừ hay dễ bị tổn thương được Đức Giê-su quan tâm, cứu chữa, trở thành những nhân chứng cho Đức Giê-su trong việc diễn tả thánh ý Thiên Chúa giữa gia đình nhân loại.
Thánh Gio-an trình thuật rằng khi chứng kiến một người mù từ thuở sơ sinh, các môn đệ hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9,2). Người trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh là gì vậy? Thưa, chính Đức Giê-su cho anh được sáng mắt, được nhìn thấy và anh tin tưởng vào Người. Trong cuộc tranh luận với những người Pha-ri-sêu, người mù được sáng mắt nói: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,32-33). Người mù trước đây không nhìn thấy thì được sáng mắt sáng lòng, còn những người Pha-ri-sêu vốn sáng mắt thì lại tối lòng, đúng như lời của Đức Giê-su: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9,39). Người mù từ thuở mới sinh thực thi thánh ý Thiên Chúa, còn những người Pha-ri-sêu thì không. Thay vì nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến qua những dấu lạ Người thực hiện thì họ lại bắt bẻ và tìm cách loại trừ Người.
Câu chuyện Đức Giê-su biến hình trên núi Ta-bo cùng với sự xuất hiện của Mô-sê và Ê-li-a (đại diện cho lề luật và lời các ngôn sứ) giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su đến để kiện toàn lề luật và lời các ngôn sứ. Dưới nhãn quan của Phê-rô, biến cố Ta-bo là ‘biến cố tĩnh’ của sự gặp gỡ giữa Tân Ước và Cựu Ước, giữa Đức Giê-su và hai nhân vật đại diện Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a. Phê-rô cũng như Gio-an và Gia-cô-bê thỏa mãn với hoàn cảnh đó bởi vì họ muốn dựng lều cho những ‘nhân vật vĩ đại’ ngay tại chỗ. Biến cố Ta-bo không phải là Biến Cố Đức Giê-su hoàn tất chương trình Thiên Chúa giữa trần gian nhưng là biến cố yên ủi các môn đệ trong hành trình loan báo Tin Mừng đầy gian nan, thử thách. Vinh quang của Đức Giê-su tỏ hiện trên núi Ta-bo cũng là vinh quang Thiên Chúa chiếu soi tâm trí các môn đệ để họ có thể nhận diện thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su cách rõ nét hơn. Sau khi biến hình trên núi, Đức Giê-su dẫn các môn đệ xuống núi để loan báo Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho những người đau yếu. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo cuộc thương khó của Người: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy” (Lc 9,44-45).
 
3.3 Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa Trong Biến Cố Vượt Qua
Không ai trong dòng lịch sử nhân loại mà căn tính, đời sống và sứ mệnh của người đó lại được loan báo trước bằng nhiều hình thức khác nhau như Đức Giê-su. Cái chết của Người thật đặc biệt so với các những nhân vật điển hình trong Cựu Ước, chẳng hạn như cái chết của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, Giu-se, Mô-sê, Đa-vít, Sa-lô-môn, Ê-li-a, I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en. Khi loan báo Tin Mừng, nhiều lần Đức Giê-su nói trước về cái chết của Người, cái chết đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Người nói với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu: “Ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12,40). Người nói với các môn đệ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45); Người tiên báo cuộc thương khó của Người: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22).
Lễ Vượt Qua của người Do-thái (Passover) được trình thuật trong sách Xuất Hành là hình bóng báo trước Lễ Vượt Qua của Đức Giê-su. Tuy nhiên, Người không phải là ‘Con Chiên’ như bao con chiên bị giết hằng năm trong dịp Lễ Vượt Qua mà là ‘Chiên Thiên Chúa’ (Ga 1,29). Đức Giê-su vô tội đã trở thành hiện thân của tội lỗi vì mọi người trong gia đình nhân loại (2 Cr 5,21). Nhờ sự chết của Chiên Thiên Chúa, con người được rửa sạch muôn hình thức tội lỗi và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Đặc biệt, Lễ Bánh Không Men trong sách Lê-vi được kiện toàn nơi Đức Giê-su là Bánh Không Men, Bánh Hằng Sống (Ga 6,35). Tương tự như vậy, Lễ Hoa Quả Đầu Mùa của dân Do-thái vào năm Đức Giê-su phục sinh là ngày Chúa Nhật. Lời của Thiên Chúa qua miệng Mô-sê trong Cựu Ước: “Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi (Xh 23,19). Mô-sê dẫn dân Do-thái vượt qua ách nô lệ của Ai-cập về với Đất Hứa vùng Ca-na-an. Còn Đức Giê-su dẫn đưa mọi người trong gia đình nhân loại vượt qua ách nô lệ tội lỗi mà đỉnh điểm là sự chết về với Đất Hứa vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa.
Những người gần gũi Đức Giê-su, dù là người cộng tác đắc lực, người dã tâm phản bội hay liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến muôn hình thức đau khổ của Người đều ‘thông phần’ trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, các môn đệ đều được Đức Giê-su dạy dỗ và thực hành nhưng họ vẫn là những người mỏng giòn, yếu đuối, chậm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Trong cuộc thương khó của Đức Giê-su, Phê-rô chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Người bảo Phê-rô dừng lại và Người đã sờ vào tai và chữa lành tên đầy tớ (Lc 22,50-51). Đặc biệt, Giu-đa đã sa chước cám dỗ, phản bội Thầy mình: “Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-mon Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su” (Ga 13,2). Đức Giê-su nói về việc ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước: “Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13,18; Tv 41,10).
Tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su chịu nhiều đau khổ. Thông thường, khi đau khổ, con người khó có thể đưa ra quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trọn vẹn. Người không đòi hỏi cho ý Người được thực hiện nhưng là ý Chúa Cha. Đức Giê-su đã thắng được ‘bản tính mỏng giòn’ của con người khi chịu thử thách. Trong cảnh gian nan nhưng Đức Giê-su vẫn có được tâm an cần thiết để vâng phục thánh ý Chúa Cha. Kinh nghiệm thực thi thánh ý Thiên Chúa trong hành trình loan báo Tin Mừng cho phép Người thực thi thánh ý Thiên Chúa trong cảnh bi thương nhất. Cách cụ thể là Đức Giê-su không chiều theo ‘tính xác thịt’ nhưng luôn hướng về Thiên Chúa. Thập giá, đau khổ và sự chết của Đức Giê-su là những yếu tố cấu thành quan trọng nhất trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với mọi người trong gia đình nhân loại.
Bóng dáng đau khổ và sự chết của Đức Giê-su đã được tiên báo trong Cựu Ước và trở nên ứng nghiệm trong Tân Ước, chẳng hạn như hành động của Mô-sê theo lệnh của Đức Chúa và lời của Đức Giê-su với Ni-cô-đê-mô: Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống(Ds 21,9); Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,14-15); Lời van vỉ của Đa-vít và lời của Đức Giê-su trên thập giá: Nghe cổ họng khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào; quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem (Tv 22,16-18); Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Tôi khát! (Ga 19,28) hay lời của vua Đa-vít trong lúc hiểm nguy sầu khổ và lời cuối cùng của Đức Giê-su trên thập giá: Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín (Tv 31,6); Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46).
Tại núi Ô-liu, Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha (Lc 22,42). Với bản tính tự nhiên của con người, Đức Giê-su run sợ trước cái chết cận kề nhưng Người cầu nguyện cho thánh ý Chúa Cha được thực hiện. Điều này có nghĩa rằng, đối với Đức Giê-su, chương trình trần thế của Người là chương trình của Chúa Cha. Do đó, ý muốn nhân loại của Đức Giê-su nhường bước cho ý muốn của Chúa Cha. Trở về với sách Sáng Thế, chúng ta biết rằng A-đam và E-và làm theo ý mình hơn là tuân giữ huấn lệnh Thiên Chúa. Đức Giê-su đã đi ngược lại con đường A-đam và E-và đã đi. Nhờ vậy, Người đem lại ơn cứu độ cho mọi người trong gia đình nhân loại, đồng thời, biến đổi vạn vật theo chương trình của Thiên Chúa. Theo tác giả sách Đệ Nhị Luật, người treo trên thập giá là người bị nguyền rủa (Đnl 21,23). Tuy nhiên, nhờ Đức Giê-su treo trên thập giá, ai đi vào mối tương quan liên vị với Người mà chịu đau khổ, chịu bách hại, chịu chết, thì không còn phải lo sợ nữa bởi vì Người đã hứa: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Nhiều trích đoạn trong sách ngôn sứ I-sai-a trở nên ứng nghiệm trong cuộc khổ nạn của Đức Giê-su, chẳng hạn như Người bị liệt vào hạng tội nhân và mang lấy tội của muôn người (Is 53,12). Điều này được Đức Giê-su lặp lại trong cuộc thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy bảo cho anh em hay: Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất” (Lc 22,37). Thánh A-tha-na-xi-ô giúp chúng ta hiểu tại sao Đức Giê-su lại mang lấy thân phận phải chết của con người: Khi đã nhận lấy từ bản tính chúng ta thân xác giống như chúng ta vì mọi người đều bị án phạt của sự mục nát, Người đã trao thân xác ấy cho sự chết thay cho tất cả và dâng hiến nó lên Chúa Cha(Athanasius, On the Incarnation of the Word 8.4) hay: Người đã mặc lấy một thân xác có thể chết, điều hoàn toàn phù hợp với bản tính con người, để trong thân xác ấy, sự chết bị tiêu diệt một lần dứt khoát và những con người được tạo dựng theo Hình Ảnh của Người có thể được đổi mới một lần nữa. Không ai khác có thể đáp ứng nhu cầu này, ngoại trừ chính Hình Ảnh của Chúa Cha (Athanasius, On the Incarnation of the Word 13.9). Câu chuyện của Đức Giê-su không kết thúc ở cái chết nhưng ở sự sống lại và lên trời để giải thoát và ban ơn cứu độ cho những ai gắn bó với Người trong hành trình trần thế.
Việc Đức Giê-su phục sinh đã được loan báo trong Cựu Ước, chẳng hạn, vua Đa-vít đã thốt lên: “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! (Tv 16,10-11). Khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đức Giê-su nhắc nhở các môn đệ rằng đừng cho ai biết Người là Đấng Ki-tô. Tiếp đó, thánh Mát-thêu trình thuật: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Thánh A-tha-na-xi-ô lý giải về sự phục sinh của Đức Giê-su như sau: Người rất quan tâm đến sự phục sinh của thân xác mà Người sẽ thực hiện để tỏ rõ chiến thắng trước cái chết và chứng minh rằng từ nay thân xác con người sẽ không còn bị hư hoại. Và như bằng chứng cho sự phục sinh dành cho mọi người, Người đã gìn giữ thân xác mình không bị hư nát (Athanasius, On the Incarnation of the Word 22.4). Như vậy, qua những đau khổ, cái chết và phục sinh, Đức Giê-su kiện toàn thánh ý Thiên Chúa, “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
 
3.4 Các Môn Đệ Tiếp Tục Chương Trình Đức Giê-su
Trong Bữa Ăn Cuối Cùng (the Last Supper) trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng Người là Đường (Ga 14,6). Từ những gì đã trình bày, chúng ta có thể khẳng định rằng Đường của Đức Giê-su là Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa. Sau khi Đức Giê-su chịu đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời, các môn đệ của Người ý thức sự cần thiết trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa mà Đức Giê-su thể hiện trong hành trình trần thế, nghĩa là thánh ý Thiên Chúa trong Biến Cố Đức Giê-su cần phải được loan báo cho muôn dân. Lệnh truyền của Đức Giê-su phục sinh và cũng là lời sau cùng của Người trước khi về trời là: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,19-20). Quả thực, mặc khải của Thiên Chúa hoàn toàn được ứng nghiệm và hiệu quả của Biến Cố Đức Giê-su cần cho mọi người được biết.
Buổi đầu loan báo Tin Mừng tại Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phê-rô nói với dân chúng:Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em… Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi(Cv 2,22-24). Với thánh nhân, những gì xảy đến cho Đức Giê-su đều theo thánh ý Thiên Chúa và ngài khuyên dạy các tín hữu: “Chính vì Đức Ki-tô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng phải lấy tư tưởng này làm khí giới: Ai chịu đau khổ trong thân xác thì đoạn tuyệt với tội lỗi, để bao lâu còn sống trong thân xác, người ấy không theo những đam mê của con người nữa, mà theo ý muốn của Thiên Chúa” (1 Pr 4,1-2). Đặc biệt, ngài mời gọi các tín hữu biết ăn năn hối cải, kiên nhẫn trong đức tin vì Thiên Chúa luôn thực hiện lời hứa của Người (2 Pr 3,9).
Các môn đệ Đức Giê-su luôn thâm tín rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su ngang qua những nghịch lý trong cuộc đời Người đã được ứng nghiệm trọn vẹn. Theo trình thuật của tác giả sách Tông Đồ Công Vụ, sau khi thánh Phê-rô và Gio-an bị Thượng Hội Đồng Do-thái bắt và thả về, các ngài hiệp thông với cộng đoàn những người tin vào Đức Giê-su thân thưa cùng Thiên Chúa: “Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước” (Cv 4,27-28). Như vậy, những người làm cho Đức Giê-su chịu đau khổ, chịu chết, chẳng hạn như Hê-rô-đê, Phi-la-tô, quân lính Rô-ma, những người lãnh đạo Do-thái ‘góp phần’ làm cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện hầu đem lại ơn cứu độ cho muôn người. Nói cách khác, chương trình Chúa Cha định liệu cho loài người được thực hiện nhờ sự vâng phục của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô diễn giải: “Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát” (Cv 13,27). Theo thánh nhân: Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm (2 Tx 2,7-8).
Đối với thánh Phao-lô, Đức Giê-su thực thi thánh ý Thiên Chúa ‘từ trước muôn đời’: “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” (Ep 1,3-4). Như vậy, mỗi người hiện diện trên trần gian này không phải là ‘sản phẩm’ của ngẫu nhiên may rủi nhưng do sự quan phòng của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Giê-su. Con người và ơn cứu độ con người thuộc về chương trình vĩnh cửu của Thiên Chúa chứ không do bất cứ mãnh lực nào thuộc thế giới thụ tạo. Con người được cứu chuộc nhờ ân sủng của Thiên Chúa qua Đức Giê-su và ân sủng này là cho mọi người trong gia đình nhân loại. Chẳng hạn, thánh Phao-lô viết: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (Gl 3,14).
Thánh Phao-lô luôn ý thức về sự siêu việt của thánh ý Thiên Chúa so với khả năng hiểu biết hạn hẹp của con người. Thánh nhân viết cho tín hữu Rô-ma: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11,33-36). Quả thực, thánh ý Thiên Chúa cũng như đường lối của Người thể hiện theo nhiều hình thức khác nhau và vượt quá mọi khả năng đón nhận của con người. Tác giả Thánh Vịnh 32 viết: “Này đây Ta răn dạy, chỉ cho con biết đường lối phải theo, để mắt nhìn con, Ta ban lời khuyên nhủ” (Tv 32,8); còn tác giả sách Châm Ngôn thì viết: “Hãy hết lòng tin tưởng vào Đức Chúa, chớ hề cậy dựa vào hiểu biết của con. Hãy nhận biết Người trong mọi đường đi nước bước, Người sẽ san bằng đường nẻo con đi” (Cn 3,5-6). Như vậy, không ai có thể dò thấu thánh ý và đường lối Thiên Chúa trong kế hoạch vĩnh cửu của Người đối với nhân loại cũng như vạn vật.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, Thánh Phao-lô viết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8,28). Còn trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân ca ngợi các tín hữu vì họ đã thực thi lòng mến theo đặc sủng của Chúa Thánh Thần. Thánh nhân mời họ hãy ý thức hơn nữa về ơn gọi của mình là Ki-tô hữu và sự cần thiết trong việc nhận diện, tìm hiểu và sống theo thánh ý Thiên Chúa (Cl 1,8-9). Thánh nhân mời gọi các tín hữu Ê-phê-xô ý thức về phẩm giá cao cả của mình là trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,5-6). Đặc biệt, ngài khẳng định rằng ngài được tuyển chọn để thực thi chương trình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người” (Ep 1,11). Như vậy, trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ trực tiếp của Đức Giê-su, thánh Phao-lô và những ai đặt niềm tin, tình yêu, hy vọng vào Đức Giê-su đều được mời gọi luôn hiệp nhất nên một với Đức Giê-su và trở thành khí cụ của Người trong việc loan báo Tin Mừng Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa cho anh chị em đồng loại.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn giải thánh ý Thiên Chúa thành tựu mỹ mãn nơi Biến Cố Đức Giê-su: Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10,5-7). Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su kiện toàn thánh ý Thiên Chúa trong Cựu Ước về tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu, lễ xá tội. Đặc biệt, Người đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa và ấp ủ lề luật của Thiên Chúa trong lòng (Tv 40,7-9). Người thực thi thánh ý Thiên Chúa không qua việc hiến tế thú vật nhưng hiến tế chính mình như là của lễ tinh tuyền, hoàn hảo. Đây là hiến tế mới, hiến tế cuối cùng, hiến tế vĩnh cửu, hiến tế một lần cho tất cả vì con người và để cứu độ con người (Dt 10,10).
 
4. THEO ĐƯỜNG KIỆN TOÀN THÁNH Ý THIÊN CHÚA
4.1 Nhận Diện Thánh Ý Thiên Chúa
Sách Các Vua quyển thứ nhất trình thuật câu chuyện ngôn sứ Ê-li-a gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Khô-rếp. Khi Thiên Chúa dặn ông ra ngoài cái hang mà ông nghỉ đêm để diện kiến Người thì Ê-li-a biết rằng Thiên Chúa ‘không hiện diện’ trong gió to bão lớn, động đất, lửa cháy nhưng Người hiện diện khi có tiếng gió hiu hiu thổi (1 V 19,9-13). Ê-li-a đã gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe lời Người và thực thi thánh ý Người trong hành trình mới của cuộc sống phó thác, hy sinh, phục vụ. Như vậy, Thiên Chúa ‘không hiện diện’ nơi mà con người cho là lóng lánh, lớn lao, lừng lẫy nhưng hiện diện nơi từ tốn, tầm thường, tĩnh lặng. Nói cách khác, nơi mà con người cho là ‘vắng bóng Thiên Chúa’ lại là nơi Thiên Chúa hiện diện và hoạt động cách mãnh liệt nhất, chẳng hạn như nơi sa mạc tâm hồn, nơi đau khổ, nơi con người phải đối diện với trăm bề thử thách, đặc biệt, nơi vực thẳm sự chết.
Để có thể nhận diện thánh ý Thiên Chúa, con người cần phải luôn cầu nguyện. Cầu nguyện vừa cho phép con người ý thức thân phận yếu đuối của mình, vừa giúp con người biết đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa trong mọi biến cố cuộc đời. Cầu nguyện cho phép con người dù sống trong môi trường giới hạn, tạm thời của thế giới thụ tạo được liên kết với Thiên Chúa là Đấng vô biên, vĩnh cửu. Cầu nguyện cho phép con người khỏi sa chước cám dỗ của thế giới bóng đêm, của thế giới làm cho con người lãnh đạm hay phản nghịch thánh ý Thiên Chúa. Cầu nguyện giúp con người nhận ra rằng chương trình Thiên Chúa, quyền năng Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa được thể hiện chứ không phải ý của bản thân hay ai đó hoặc mãnh lực nào đó được thể hiện. Trong lời chào chúc cuối thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô viết: Anh Ê-páp-ra, người đồng hương với anh em và là tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh em; anh không ngừng chiến đấu cho anh em bằng lời cầu nguyện, để một khi đã trưởng thành và hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự, anh em được đứng vững (Cl 4,12). Người cầu nguyện cần thâm tín rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe và ban cho mình những điều vượt quá nhu cầu hay ước muốn của bản thân. Thánh Gia-cô-bê viết: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4,2-3).
Xem quả biết cây! Nguyên lý nhân quả trở thành nguyên lý căn bản cho mọi nền văn hóa, tôn giáo, truyền thống cũng như mọi hình thức xã hội của gia đình nhân loại từ cổ chí kim. Do đó, khi quả không tốt thì hãy xem lại cây bằng không sự chăm bón cây trở thành vô ích và kéo theo tiến trình sinh ‘quả xấu có tính hệ thống’. Đức Giê-su nói: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! (Lc 6,43-44). Thánh Phao-lô cho mọi người biết đâu là hoa quả tốt dẫn xuất từ Thần Khí Thiên Chúa: Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế (Gl 5,22-23). Như vậy, những gì ngược với hoa quả của Thần Khí là sản phẩm của ma quỉ, ác thần hay của thế giới bóng đêm, sản phẩm làm cho tâm trí con người xuống cấp và phẩm giá con người sa đọa.
Người thực thi thánh ý Thiên Chúa là người có tâm hồn bình an khi phải đương đầu với muôn vàn gian nan, khốn khổ. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6). Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê thánh nhân viết: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 4,6-7). Trước khi về trời, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Bình an Đức Giê-su cho phép những ai gắn bó, tin tưởng và yêu mến Người có thể vượt qua muôn hình thức bấp bênh, sợ hãi, kể cả cái chết kề cận.
Thánh Ý Thiên Chúa đem lại cho con người niềm vui nội tâm trong mọi hoàn cảnh. Tác giả Thánh Vịnh 16 viết: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16,11). Ông Ét-ra nói với dân chúng: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8,10). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,10-11). Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô viết: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16). Các Ki-tô hữu được mời gọi đừng dõi theo ‘thần khí thế gian’ nhưng dõi theo Thần Khí của Thiên Chúa hầu có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa, đọc được thánh ý Người và thực thi thánh ý Người cách trung tín nhất.
Vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này, mọi người trong gia đình nhân loại sống trong tình trạng vô ơn đối với Thiên Chúa. Tự thân, con người không thể cải biến tình trạng này. Đó là lý do tại sao Đức Giê-su đến trần gian nhân danh gia đình nhân loại sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Đặc biệt, Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và phục sinh với tâm tình tạ ơn hầu cứu độ và giải thoát mọi người. Thánh Phao-lô mời gọi mọi người:Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su (1 Tx 5,18). ‘Tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh’ chính là tâm tình Thiên Chúa muốn mà Đức Giê-su đã thực hiện. Do đó, tâm tình tạ ơn trở thành điều kiện tiên quyết giúp con người nhận diện thánh ý Thiên Chúa, cảm nghiệm thánh ý Thiên Chúa và thực thi thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Nội dung đức tin Ki-tô Giáo (Kinh Thánh, Truyền Thống và Giáo Huấn của Giáo Hội) là mô thức (tiêu chuẩn, mô phạm, khuôn mẫu) cho việc nhận diện thánh ý Thiên Chúa mà con người cần tham chiếu. Do đó, việc nhận diện thánh ý Thiên Chúa sẽ không đem lại kết quả khi con người tham chiếu mô thức nào đó ngược với mô thức này. Quả thực, mô thức thuộc nội dung đức tin Ki-tô Giáo không phù hợp với những người chủ trương thái quá về vai trò trung tâm của con người trong vũ trụ hay những người chủ trương hưởng thụ, sống nhanh, sống gấp, sống hết mình theo các trào lưu thế tục dẫn xuất từ các mãnh lực nào đó. Với những người như vậy, mô thức thuộc nội dung đức tin Ki-tô Giáo xem ra là cản trở lớn lao đối với họ bởi vì mô thức này đòi hỏi nghiêm ngặt về sự kiên nhẫn, hạ mình, hy sinh, trút bỏ trong việc dõi theo thánh ý Thiên Chúa.
Ai không kiến tạo tâm thế sẵn sàng thì không thể nhận diện và đọc được dấu chỉ của thánh ý Thiên Chúa cách phù hợp. Khi con người ý thức về chương trình của Thiên Chúa đối với bản thân mình cũng như anh chị em đồng loại thì con người cũng ý thức rằng mình cần trở về, hoán cải và biến đổi hầu có thể nhận diện thánh ý Thiên Chúa cách dễ dàng hơn. Thánh ý Thiên Chúa đến với con người bằng nhiều cách thức khác nhau qua những con người, hiện tượng và biến cố thường ngày. Điều quan trọng là mỗi người cần thường xuyên đặt những câu hỏi và trả lời cho những câu hỏi đó, chẳng hạn như: Tâm hồn tôi đang được thúc đẩy bởi thần khí nào? Lương tâm tôi có ngay thẳng không? Tư tưởng, lời nói và việc làm của tôi có phù hợp với giáo huấn của Đức Giê-su không? Tôi có những kinh nghiệm hay cảm nghiệm nào về sự quan phòng của Thiên Chúa? Tôi có ý thức về phẩm giá của bản thân và anh chị em đồng loại không? Tôi có dùng những đặc sủng Thiên Chúa ban tặng cách phù hợp không? Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn cung cấp đủ ánh sáng cho những ai thành tâm tìm kiếm và thực thi thánh ý Người.
Việc thường xuyên đặt câu hỏi và thành tâm phân định không giúp con người loại trừ toàn bộ những bất xứng, khiếm khuyết, tội lỗi của bản thân nhưng giúp con người biết hướng về Thiên Chúa và quan tâm nhiều hơn đến việc nhận diện và thực thi thánh ý Người. Nhờ đó, con người ý thức hơn về sự cần thiết không ngừng phải hoán cải, trở về với Thiên Chúa để sống đời ngay thẳng theo thánh ý Người. Việc phân định đúng nghĩa mở ra cho con người nhiều cơ hội quý giá để có thể nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa, đọc được những dấu chỉ đó và thực thi theo những dấu chỉ đó cách trung tín nhất. Việc thường xuyên phân định đúng nghĩa giúp con người cảm nghiệm được tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bản thân mình, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Đặc biệt, việc thường xuyên phân định giúp con người cảm nhận và có được kinh nghiệm sâu xa về sự cần thiết gắn bó với Đức Giê-su trong mọi biến cố của đời mình để nhờ Người, với Người và trong Người, bản thân ngày càng xứng đáng hơn với danh hiệu là Ki-tô hữu giữa dòng đời.
 
4.2 Sống Theo Thánh Ý Thiên Chúa
Khi triển khai bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thi hành thánh ý Thiên Chúa luôn là ưu tiên hàng đầu cho những ai nhìn nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của mình. Dưới nhãn quan Tân Ước, ý muốn của Chúa Cha được diễn tả cách trọn vẹn trong Biến Cố Đức Giê-su hầu cứu độ và giải thoát con người cũng như biến đổi muôn vật muôn loài. Thánh ý đó trở nên trọn vẹn trong ‘thời cánh chung’ khi Thiên Chúa quy tụ con người và muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su hiển thắng. Thánh Gio-an Tông Đồ viết: “Thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2,17).
Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô viết: Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh (1 Tx 4,3). Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, những ai và những gì lành thánh thì thuộc về hay dành riêng cho Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện (1 Tx 4,5). Như vậy, điều cần thiết là con người cần cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân mình. Thánh Au-gút-ti-nô khẳng định: “Đấng đã tạo dựng nên bạn mà không cần đến bạn, sẽ không công chính hóa bạn nếu không có bạn [Qui creavit te sine te, non iustificat te sine te] (Augustine, Sermon 169.13). Cũng theo ngài: “Ai dám cho rằng Thiên Chúa không thể thay đổi ý chí xấu xa của con người, bất kỳ khi nào, bất kỳ nơi đâu, theo như ý Người, và hướng chúng về điều thiện? Thiên Chúa làm điều đó là bởi lòng thương xót” (Augustine, Enchiridion 98). Quả thực, ai ý thức Thiên Chúa là Đấng chí thánh, bản thân mình là người tội lỗi và thành tâm hướng lòng về Người để hoán cải thì người đó đang trên đường nên thánh.
Ưu tiên hàng đầu của người sống theo thánh ý Thiên Chúa không chỉ là tuân giữ những điều Thiên Chúa cấm đoán hay những điều phải theo, phải giữ mà còn là những điều giúp bản thân sống trong tâm tình hoán cải, tri ân cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Đồng thời, người sống theo thánh ý Thiên Chúa cần không ngừng nỗ lực cộng tác với Người hầu làm cho tâm trí mình luôn quy hướng về Người trong mọi tư tưởng, lời nói, việc làm. Nói cách khác, người sống theo thánh ý Thiên Chúa cần quan tâm những gì ‘tích cực’ hơn là ‘tiêu cực’, những gì diễn tả Thiên Chúa là Đấng yêu thương hơn những gì diễn tả Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Thực ra, Thiên Chúa yêu thương cũng là Thiên Chúa công thẳng và ai thực thi thánh ý Thiên Chúa cách chân thành thì nhận ra rằng lề luật của Người cũng là tình yêu của Người và ngược lại. Tình yêu và lề luật Thiên Chúa cho phép con người sống xứng hợp với phẩm giá mình trong cuộc đời hiện tại và được tham dự sự sống vĩnh cửu của Người mai ngày.
Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng người thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trung tín thường đối diện với nhiều hình thức đau khổ hay sự dữ. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận đau khổ và sự dữ trong nhãn quan của thánh ý Thiên Chúa mà Đức Giê-su thực hiện và kiện toàn, bởi vì, hơn ai hết, chính Người phải đối diện với đau khổ và sự dữ trong cảnh bi thương nhất. Người vô tội nhưng lại chịu hậu quả tội lỗi của mọi người trong gia đình nhân loại. Như vậy, suy niệm về hành trình trần thế của Đức Giê-su cho phép chúng ta có thể đón nhận đau khổ và sự dữ cách thanh thản hơn. Thánh Au-gút-ti-nô viết: “Trong vũ trụ, ngay cả điều được gọi là sự dữ, khi nó được điều chỉnh và đặt vào đúng vị trí, thì lại càng làm tăng lòng ngưỡng mộ của ta đối với điều thiện; vì ta trân trọng và cảm nhận điều thiện nhiều hơn khi so sánh nó với điều dữ. Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng mà ngay cả người ngoại giáo cũng thừa nhận là có quyền tối thượng trên mọi sự, vốn là Đấng tuyệt đối tốt lành, sẽ không bao giờ cho phép điều dữ hiện hữu trong các công trình của Người, nếu Người không toàn năng và toàn thiện đến mức có thể làm phát sinh điều thiện ngay cả từ điều dữ” (Augustine, Enchiridion 11). Thánh nhân cũng khẳng định: “Thiên Chúa không thực sự là Đấng Toàn Năng nếu Người không thể làm bất cứ điều gì Người muốn, hoặc nếu quyền năng của ý chí toàn năng của Người bị cản trở bởi ý muốn của bất kỳ thụ tạo nào” (Augustine, Enchiridion 96).
Đức Giê-su là Khởi Đầu, là Trung Tâm và là Cùng Đích của con người và vạn vật. Điều này có nghĩa rằng nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa sáng tạo và tiếp tục chương trình sáng tạo cho đến tận thế. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su nói ai đến với Người thì không bao giời phải đói, ai tin vào Người thì không bao giờ phải khát (Ga 6,35). Đói khát ở đây là đói khát những gì làm cho con người ngày càng gần Thiên Chúa hơn. Bởi vì, Đức Giê-su là Bánh Trường Sinh, Bánh Hằng Sống cho mọi người: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6,54-56). Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi tới muôn đời (Dt 13,8). Người luôn hiện diện, hoạt động và đồng hành với những ai trung tín thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Người thực thi thánh ý Thiên Chúa cũng là người luôn quan tâm những điều thiện hảo và thực thi những điều thiện hảo. Bao lâu con người còn hướng về điều tốt và làm điều tốt, bấy lâu con người đang thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh 143 viết: Điều đẹp ý Ngài, xin dạy con thực hiện, bởi Ngài là Thiên Chúa của con (Tv 143,10). Thánh Gia-cô-bê viết: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,7). Thánh Phê-rô căn dặn các tín hữu: “Những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hóa trung thành, và cứ làm điều thiện” (1 Pr 4,19). Điều mọi người cần quan tâm là điều thiện, điều tốt khách quan theo thánh ý Thiên Chúa. Trong thực tế, nhiều khi chúng ta cho rằng mình làm điều tốt, mình làm vì Thiên Chúa, vì anh chị em, vì Giáo Hội nhưng thực ra mình lại làm điều xấu, điều dữ bởi vì việc làm của mình dẫn xuất từ ác thần chứ không phải từ Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiệp thông với Đức Giê-su trong đời sống nội tại cũng như trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hóa.
Để có thể nhận biết sự thật về bản thân mình cũng như tình trạng bản thân mình trong các mối tương quan, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy ở lại trong lời của Người. Nhờ đó, chúng ta sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng chúng ta khỏi những mê lầm, tội lỗi (Ga 8,32). Ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa đối với bản thân mình, chúng ta cần đặt câu hỏi và trả lời cho câu hỏi: Ai, cái gì hay hiện tượng, biến cố nào đang chi phối tâm hồn mình nhiều nhất? Ở lại với Đức Giê-su luôn là ưu tiên hàng đầu trong đời sống của các Ki-tô hữu. Ai ở lại với Đức Giê-su thì người đó sẽ có tầm nhìn sâu rộng hơn về tình trạng tâm hồn mình hầu có thể cộng tác với Người trong việc biến đổi sao cho ngày càng phù hợp hơn với thánh ý Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được … Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15,5-7).
Sống theo thánh ý Thiên Chúa cũng có nghĩa là sống trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh Phao-lô cho mọi người biết rằng ai sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì bản thân mình có đủ sức mạnh để chống lại thần khí của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Ngài khuyên dạy tín hữu Ga-lát: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5,16) hay: “Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6,8). Cũng theo thánh nhân, ai sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì có thể nhận diện, phán đoán và quyết định mọi việc cách phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Ngài khẳng định: “Con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cr 2,15). Ngài khuyên bảo tín hữu Ê-phê-xô không chỉ ý thức thánh ý Thiên Chúa đối với bản thân mình mà còn đối với Giáo Hội: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6,18).
 
4.3 Loan Báo Thánh Ý Thiên Chúa
Trước khi về trời, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44). Đồng thời, Người soi lòng mở trí cho các ngài hiểu Kinh Thánh và nhắn nhủ các ngài: “Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,46-49). Ở đây, Đức Giê-su nói về việc loan báo Tin Mừng với sự đồng hành và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh (Mt 10,20; Mc 13,11; Lc 4,18; Ga 14,16-17; Cv 1,8).
Các Ki-tô hữu được mời gọi loan báo Tin Mừng Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa. Sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su phục sinh mời gọi những ai tin vào Người đều phải loan báo Tin Mừng: Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không? Người đáp: Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất (Cv 1,6-8). Trong thư thứ nhất, thánh Phê-rô mời gọi các tín hữu ý thức căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình giữa dòng đời: Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1 Pr 2,9). Những kỳ công theo thánh ý Thiên Chúa đã được loan báo và thực hiện trong Cựu Ước. Những kỳ công đó được Đức Giê-su kiện toàn trong Tân Ước và tiếp tục được hiện tại hóa trong đời sống những người đón nhận, sống và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Trở về với hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su, chúng ta biết rằng khi khai triển bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói với mọi người: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian..., ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Ánh sáng mà Đức Giê-su cũng như thánh Phao-lô đề cập không phải là ‘ánh sáng tự thân’ của các môn đệ mà là ánh sáng phản chiếu Đức Giê-su là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Quả thực, Đức Giê-su là Ánh Sáng và ai theo Người thì không đi trong tối tăm nhưng được Ánh Sáng ban sự sống (Ga 8,12).
Để có thể loan báo Tin Mừng Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa, mọi người được mời gọi luôn hiệp thông với Người. Ai không hiệp thông với Người thì không thể ‘nhìn thấy’ tâm hồn mình. Không lấy lời của Người làm ‘mô thức hay khuôn mẫu’ quy chiếu thì con người không thể thực thi thánh ý Thiên Chúa. Không theo sự hướng dẫn của Thần Khí Người là Chúa Thánh Thần thì con người sẽ sai đường lạc lối. Sống giữa trần gian với nhiều cạm bẫy, lương tâm con người có thể trở thành thửa đất màu mỡ đem lại hoa trái dồi dào nhưng cũng có thể trở thành hoang mạc khô cằn hoặc thửa đất đầy tiếng hú rợn rùng của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Do đó, thường xuyên nhìn lại bản thân, thường xuyên đặt câu hỏi về tình trạng lương tâm, thường xuyên học hỏi hỏi và suy niệm lời của Đức Giê-su giúp các Ki-tô hữu có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa cách xứng hợp.
Hơn ai hết, thánh Phao-lô cảm nghiệm sâu xa về thánh ý Thiên Chúa đối với ngài. Chính Đức Giê-su phục sinh biến đổi Phao-lô từ người bắt bớ các Ki-tô hữu trở thành người mời gọi mọi người trở thành Ki-tô hữu; người bách hại Giáo Hội của Đức Giê-su trở thành ‘viên đá sống động và hữu hiệu’ xây dựng ngôi nhà Giáo Hội. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài viết: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô … Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,2-6). Như vậy, nhờ cộng tác với Đức Giê-su phục sinh trong việc biến đổi, thánh nhân trở nên khí cụ loan báo Tin Mừng. Ngài viết cho tín hữu ở Cô-rin-tô: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su” (2 Cr 4,5). Đặc biệt, ngài đã minh chứng cho Đức Giê-su là Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa bằng cái chết tử đạo tại Rô-ma, nơi đất khách quê người.
Để có thể loan báo Tin Mừng, các Ki-tô hữu được mời gọi luôn dõi theo giáo huấn của Đức Giê-su mà các môn đệ Người đón nhận, sống và loan truyền. Chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! Bạn giảng: Đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! Bạn nói: Chớ ngoại tình, mà bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!” (Rm 2,21-13). Đối với thánh Phao-lô, mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của các Ki-tô hữu phải luôn theo thánh ý Thiên Chúa chứ không theo cảm tính bản thân hay bất cứ mãnh lực nào. Điều này có nghĩa rằng các môn đệ loan báo Tin Mừng Đức Giê-su bằng đời sống chứng tá thấm đượm tinh thần của Người.
Thánh ý Thiên Chúa không chỉ liên quan đến con người mà còn muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo bởi vì thế giới thụ tạo được dựng nên cho con người và vì con người. Đặc biệt, khi Đức Giê-su là Con Thiên Chúa hiện diện giữa gia đình nhân loại, Người đã mang lấy tất cả những gì thuộc về con người, thuộc về thế giới thụ tạo. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo và cũng là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại (Cl 1,15.18). Do đó, việc loan báo Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa cho mọi người bao gồm việc mời gọi mọi người biết quan tâm thế giới thụ tạo. Hy vọng của con người cũng là ‘hy vọng’ của muôn vật muôn loài; cánh chung của gia đình nhân loại cũng là cánh chung của vạn vật như lời của thánh Phao-lô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10).
 
4.4 Khó Khăn Trong Việc Thực Thi Thánh Ý Thiên Chúa
Nguyên nhân chính yếu trong việc nhận diện thánh ý Thiên Chúa là tình trạng tội lỗi nơi mỗi cá nhân cũng như các hình thức cộng đoàn hay tập thể của xã hội loài người. Quả thực, tội lỗi hủy hoại các tương quan trong đời sống mỗi người, tương quan với anh chị em, tương quan với vạn vật và tương quan với Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho con người phải đối diện với muôn vàn khó khăn trong việc nhận diện và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Rô-ma: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 3,23-24). Ai không ý thức rằng mình là người tội lỗi và cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa thì không thể thực thi thánh ý Người, không thể là khí cụ góp phần đem lại hạnh phúc, bình an và hòa hợp cho gia đình nhân loại.
Lời của Đức Giê-su trong Kinh Lạy Cha ‘đừng để chúng con sa chước cám dỗ’ cần phải vang vọng trong tâm hồn của những ai nhìn nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của mình. Bởi vì, sống giữa trần gian, con người bị cám dỗ là điều không thể tránh khỏi, ‘sa chước cám dỗ’ là điều cần được quan tâm. Vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này, con người thường nghiêng chiều về sự dữ. Do đó, ai không cộng tác với Đức Giê-su thì không thể thắng được nanh vuốt của ác thần. Tác giả sách Huấn Ca khuyên dạy: “Đừng chiều theo ước muốn và sức lực của con, mà thỏa mãn những đam mê của lòng mình” (Hc 5,2). Con người cần cộng tác với Đức Giê-su, cộng tác với Thiên Chúa thì mới có thể vượt thắng muôn hình thức cám dỗ như lời tác giả Thánh Vịnh 37: “Chúa giúp con người bước đi vững chãi, ưa chuộng đường lối họ dõi theo. Dầu họ có vấp cũng không ngã gục, bởi vì đã có Chúa cầm tay” (Tv 37,23-24).
Tự do là tặng phẩm cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người, gắn liền với phẩm giá con người là hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, tự thân, con người không thể sử dụng tự do của mình cách lành thánh, tốt đẹp, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô viết: Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa (Gl 5,1). Khi con người có tự do đích thực, tự do dưới sự đồng hành của Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa, cũng là khi con người có thế sống như Đức Giê-su đã sống, làm những điều Đức Giê-su đã làm, yêu mến anh chị em mình theo cách Đức Giê-su đã yêu và được đến cùng Chúa Cha theo cách Đức Giê-su đã đến.
Nghịch lý trong đời sống nội tâm của thánh Phao-lô là bài học quý giá cho mọi người. Thánh nhân kể về những thị kiến và mặc khải siêu nhiên cao cả nhưng ngài nhìn nhận: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại (2 Cr 12,7). Đồng thời, ngài khẳng định: Nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9). Ngài cũng chia sẻ cảm nhận của mình:Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh(2 Cr 12,10). Tự hào về yếu đuối, khiếm khuyết, hoạn nạn của bản thân là ngược với xu thế chung của con người qua mọi thời đại. Tuy nhiên, đối với thánh Phao-lô, ‘hình thức tự hào này’ lại sinh hoa trái tốt đẹp trong ơn gọi và đời sống theo Đức Giê-su hầu làm cho danh Người được tỏ rạng giữa các hình thức bóng tối của thế trần.
Đặc điểm chung của mọi người trong gia đình nhân loại là đón nhận sự vật, hiện tượng, biến cố theo những mô thức có sẵn trong tâm trí. Do đó, việc tìm hiểu, đón nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa lệ thuộc khá nhiều vào thiên kiến của mỗi người. Nói cách khác, con người khó thoát khỏi những kinh nghiệm hay mô thức đã hình thành theo dòng lịch sử đời mình. Hậu quả là con người khó nhận ra hay chấp thuận thánh ý Thiên Chúa theo như Thiên Chúa bày tỏ. Do đó, điều cần thiết là con người cần biết xem xét những gì mình đón nhận từ Thiên Chúa với tâm trí rộng mở. Việc mở rộng tâm trí để đón nhận, sống và diễn tả thánh ý Thiên Chúa luôn cần thiết. Tuy nhiên, để việc đó sinh hoa kết quả tốt đẹp thì con người hãy phó mình cho Thiên Chúa hướng dẫn và làm theo mô thức mà Người chỉ dạy.
Việc nhận diện thánh ý Thiên Chúa luôn phải đối diện với nhiều khó khăn bởi vì lắm lúc ‘ý con người’ che khuất ‘thánh ý Thiên Chúa’. Trong Tin Mừng, nhiều lần Đức Giê-su cảnh báo về sự chủ quan, xem mình là ‘tiêu chuẩn’. Chẳng hạn, Người nói: Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? (Lc 6,41). Những nghịch lý của cuộc sống con người thật đa dạng: Muốn làm bạn với thánh nhân nhưng bản thân vương đầy tội lỗi; muốn ăn năn thống hối nhưng theo lối gian tà; muốn cuộc đời thăng hoa nhưng tâm hồn là là mặt đất. Quả thực, những nghịch lý trong thực thể có tên gọi là ‘con người’ không bao giờ liệt kê hết được.
Thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: “Thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác” (1 Pr 3,17). Như đề cập ở trên, con người chịu đau khổ nhưng Thiên Chúa có thể rút ra cho con người những điều tốt. Thăng trầm trong cuộc sống có thể làm cho con người trưởng thành và cũng có thể làm cho con người ngã gục. Tác giả sách Huấn Ca khuyên dạy: “Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn” (Hc 2,4). Tâm hồn lạc quan của ông Gióp đã giúp ông đón nhận thánh ý Thiên Chúa trong thử thách: “Con đường tôi đi, Người đã biết, Người có đem tôi thử trong lò, tôi sẽ nên như vàng tinh luyện” (G 23,10). Mọi người được mời gọi kiên nhẫn trước những thử thách gian truân như lời của thánh Phao-lô: Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng (1 Cr 10,13). Lời cầu chúc của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái đáng được mọi người suy gẫm: “Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (Dt 13,21).
Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Do đó, lắng nghe, phân định và thực thi thánh ý Thiên Chúa luôn là điều thiết yếu cho mọi người. Bao lâu con người còn trong hành trình trần thế thì bấy lâu con người còn phải đối diện với nhiều nghịch lý hay nghịch cảnh trong đời sống cá nhân cũng như các hình thức tập thể mà mình hiện diện. Niềm vui trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa trở nên hiện thực cho những ai biết luôn hướng tâm trí mình về Thiên Chúa trong hy vọng. Những đau khổ, gian truân, vất vả sẽ tôi luyện các tôi tớ trung tín của Thiên Chúa như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,3-5).
 
5. Kết Luận
Thánh ý Thiên Chúa thật cao cả, nhiệm mầu, vượt quá khả năng đón nhận, học hỏi và hiểu biết của con người. Những trình bày trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng thánh ý Thiên Chúa thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhất là trong ba hình thức chính yếu là (1) thánh ý định trước, (2) thánh ý huấn lệnh và (3) thánh ý cho phép. Thiên Chúa thể hiện thánh ý Người qua chương trình sáng tạo, cứu độ, thánh hóa con người và biến đổi vạn vật. Là Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện, Thiên Chúa biết trước những gì sẽ xảy ra. Thánh ý Người chân thật, lành thánh, bền vững giữa những biến chuyển của thời gian, những đổi thay của lòng người cũng như muôn hình thức bấp bênh, đau khổ trong môi trường nhân loại và thế giới thụ tạo.
Các trình thuật Cựu Ước cho chúng ta biết thánh ý Thiên Chúa là con người được sống trong tình nghĩa với Người, nghĩa là con người được hiệp nhất nên một với Người, với nhau và với muôn vật muôn loài. Vì Nguyên Tổ vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân thánh ý Thiên Chúa, tội lỗi đã xâm nhập trần gian. Hậu quả là con người phải đối diện với muôn hình thức sự dữ mà đỉnh điểm là con người phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương nâng đỡ con người. Tình yêu đó được thể hiện cách cụ thể trong việc Thiên Chúa kêu gọi Áp-ra-ham để qua ông, mọi dân tộc trên địa cầu được chúc phúc. Thế nhưng, Áp-ra-ham và miêu duệ ông là dân Do-thái không phải lúc nào cũng thực thi thánh ý Thiên Chúa đúng nghĩa. Nhiều trình thuật Cựu Ước giúp chúng ta hiểu biết hơn về tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do-thái, trong đó Thiên Chúa là Đấng trung tín còn dân Do-thái thì bất trung với thánh ý Người.
Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su đã đến trần gian để kiện toàn thánh ý Thiên Chúa. Sự hiện diện của Người chính là sự hiện diện của thánh ý Thiên Chúa cách trọn hảo nhất. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su mặc khải rằng Người từ Thiên Chúa mà đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa. Đức Giê-su thể hiện quyền năng và tình yêu của Người qua các phép lạ hay dấu chỉ để nâng đỡ mọi người, nhất là những người đau yếu, nghèo khổ, dễ bị tổn thương trong xã hội nhân loại. Người là Đường của Thiên Chúa giữa trần gian và Đường của Người là Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa bởi vì mọi lời nói và việc làm của Người đều ứng nghiệm những gì đã được trình bày trong Cựu Ước. Đặc biệt, Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời để ban ơn cứu độ và giải thoát mọi người trong gia đình nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Là Đường Kiện Toàn Thánh Ý Thiên Chúa ở trần gian, Đức Giê-su đem lại hy vọng cho mọi người giữa muôn bấp bênh, đau khổ và sự chết. Để có thể nhận diện, học hỏi và sống theo thánh ý Thiên Chúa, mọi người được mời gọi hướng tâm trí mình về Đức Giê-su và dõi theo giáo huấn của Người. Đặc biệt, mọi người được mời gọi sống đời cầu nguyện và không ngừng cộng tác với Người trong việc biến đổi tâm trí mình sao cho ngày càng hiểu biết và thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trọn hảo hơn. Ước gì lời căn dặn của thánh Phao-lô luôn vang vọng trong tâm trí những ai đón nhận Đức Giê-su là Chúa, là Thầy và là Bạn của mình: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Giáo Xứ Thủy Trạm: Cử Hành Lễ Lá Khởi Đầu Tuần Thánh
Giáo Xứ Thủy Trạm: Cử Hành Lễ Lá Khởi Đầu Tuần Thánh
Hiệp cùng Giáo Hội hoàn vũ, vào lúc 06g30, tại Nhà thờ Giáo xứ Thủy Trạm, Cha xứ Giuse Vũ Công Phường đã chủ sự nghi thức làm phép lá, đi kiệu lá và chủ tế Thánh lễ Lá khởi đầu Tuần Thánh. Cùng với sự tham dự của đông đảo các thành phần giáo dân trong trong Giáo xứ.
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log