Thứ ba sau CN IX - HÃY TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Cập nhật lúc 16:26 01/06/2015
Ông bị mù, nên khi bà vợ mang con dê được “khuyến mại” thêm với số tiền công về nhà, chỉ mới nghe tiếng kêu be be của nó, ông nghĩ đó là của ăn cắp và bắt vợ trả lại cho chủ nó. Vợ giải thích ông cũng không tin.
Mc 12, 13-17; Tb 2, 9-14
WGPHH: Những người thù nghịch, chống đối Đức Giê-su đã cử mấy người, gồm cả Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê nữa. Họ đến hỏi Đức Giê-su, để Ngài lỡ lời mà mắc bẫy: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Họ khéo mở đầu bằng những lời trịnh trọng tôn sư, tâng bốc, nịnh bợ dễ nghe. Họ nghĩ mình nắm chắc phần thắng, vì Ngài chỉ có thể trả lời có hoặc không. Nếu trả lời phải nộp, Ngài sẽ bị kết tội vào hùa với ngoại bang bóc lột dân chúng. Còn nếu trả lời không phải nộp, họ sẽ kết tội Ngài chống lại hoàng đế Cê-da. Nhưng Đức Giê-su thấu biết bên trong tâm dạ giả hình của họ, Ngài hỏi ngay: “Tại sao các người lại thử tôi?”
Ngày nay trong đời sống người Ki-tô hữu chúng con nhiều khi cũng chẳng khác gì những người Pha-ri-sêu này, khi đến với Chúa mà chỉ muốn lèo lái, bắt Chúa thực hiện theo ý mình những điều chúng con muốn và đang cầu xin. Bình thường tôi sống có vẻ ngoan đạo, nhưng khi bị động chạm đến danh dự, của cải là có thể nổi khùng, không còn biết mình là ai nữa.
“Tư tưởng và đường lối của các ngươi không phải là tư tưởng và đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như vậy.” Các ông Pha-ri-sêu chờ ngóng trước câu trả lời lưỡng nan, nhưng Đức Giê-su giải quyết thắc mắc của họ thật nhanh chóng và khôn ngoan: “Đem một đồng bạc cho tôi xem!” Đến lượt họ bị thẩm vấn: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Rồi người phân giải rõ ràng: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Những kẻ gài bẫy Người phải trắng mắt, hết sức ngạc nhiên về Người.
Chuyện của ông Tô-bi-a trong bài đọc I thì không được giải quyết khôn ngoan như việc Đức Giê-su đã làm hôm nay: Ông bị mù, nên khi bà vợ mang con dê được “khuyến mại” thêm với số tiền công về nhà, chỉ mới nghe tiếng kêu be be của nó, ông nghĩ đó là của ăn cắp và bắt vợ trả lại cho chủ nó. Vợ giải thích ông cũng không tin. Từ hiểu lầm này dẫn đến sai lầm khác, vợ quay ra mắng nhiếc ông đau đớn, rằng ông đã làm việc thiện, việc tốt lành cho Thiên Chúa, sao lại bị tai ương đâu đâu phải mù mắt: “Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!” Với bản tính tốt lành, ông giữ mình, sợ điều gian ác đến độ không tin, phán đoán không tốt vợ mình. Bà vợ thấy ông làm lành tránh dữ vậy mà vẫn gặp tai ương, thành ra nghi ngờ tình thương quan phòng của Thiên Chúa mà nguyền rủa chồng.
Người Ki-tô hữu vừa có bổn phận xây dựng trần thế và có bổn phận dựng xây cho nước trời. Nhưng điều cao sâu hơn, vượt lên chuyện sòng phẳng ấy, là sống chết cho Tình Yêu. Chúa yêu con nên Chúa nộp mình, Chúa chết cho con và vì con. Con yêu Chúa, con dám hiến dâng trọn cuộc đời cho Chúa, vui vẻ hiến dâng thân mình để phục vụ anh em, cho dẫu phải thiệt thòi hay đau khổ bản thân, vẫn một niềm “sống chết cho Tình Yêu”.