“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. (Ga 6, 54 – 55)
Suy niệm 1
“Hãy đến, hỡi những ai được Cha Tôi chúc phúc" (Mt 25, 31 - 46)
--------------------
Hôm nay và cả trong tháng 11 này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho tất cả những người đã qua đời, trong đó có ông bà, tổ tiên và những người thân đã ra đi trước chúng ta. Nhưng để hiệu quả hơn, chúng ta hãy nhìn lại đời sống đạo của chính chúng ta. Hãy sống tốt hơn đừng để khi chúng ta qua đời, người còn sống sẽ cầu nguyện cho chúng ta!
Bài Tin Mừng hôm nay là sứ điệp rất quan trọng gửi đến mỗi người và tất cả chúng ta không phân biệt chúng ta thuộc tôn giáo nào. Chúng ta cần phải biết sứ điệp này bằng con tim. Biết bằng con tim chưa đủ mà còn phải đem ra thực hành trong cuộc sống. Cụ thể hãy để cho Lời Chúa của bài Tin Mừng này thấm nhập vào tâm hồn chúng ta.
Vào ngày cuối cùng của cuộc đời, để phân biệt ai là tốt, ai là xấu, chỉ có một chọn lựa, đó là TÌNH YÊU. Lúc đó không có chuyện phân biệt giữa người công giáo, người Tin Lành, Do-thái giáo, hay Phật giáo, cũng không còn phân biệt giữa người tin và người không tin. Lúc đó cũng không còn phân biệt giữa người bên trái hoặc bên phải, giữa người giàu và người nghèo, giữa người da trắng hay người da mầu nữa. Tất cả những sự phân biệt như vậy đều bị loại trừ, mà chỉ còn có một sự phân biệt, đó là những ai yêu mến và những ai không yêu mến anh chị em mình mà thôi.
Lúc đó chúng ta sẽ không bị xét xử về thực hành tôn giáo, về chất lượng niềm tin và về việc đọc kinh như thế nào. Chúng ta sẽ chỉ bị xét xử và đánh giá về tình yêu của chúng ta. Cũng không phải chỉ về tình yêu chúng ta đối với Thiên Chúa, nhưng còn là tình yêu đối với anh chị em chúng ta. Đó là một Tin Mừng cho tất cả chúng ta. Chúng ta chỉ có thể được cứu độ và giải phóng nhờ Tình Yêu. Đó là sứ điệp quan trọng nhất vượt qua khuôn khổ của một tôn giáo.
Qua bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta về nhân loại vào ngày sau hết. Ngài mời gọi chúng ta thực hành sáng kiến cụ thể. Ngài cho chúng ta những ví dụ. Những ví dụ này chỉ là một phần cho các ví dụ khác mà chúng ta có thể áp dụng.
Ngài nói với chúng ta: “Tôi đói”. Tất nhiên, không phải chỉ có những cơn đói vật chất mà còn có cả những cơn đói tinh thần. Thế giới chúng ta hôm nay được cho là văn minh dư dật, nhưng còn biết bao người nghèo đói xung quanh chúng ta. Đói được yêu, đói được nhận biết. Ước mong được người khác nhìn nhận mình là một con người và có quyền bình đẳng. Đói công lý, đói bình yên, đói công ăn việc làm. Đó là những cơn đói khát của thời đại chúng ta hôm nay. Liệu chúng ta có nhắm mắt và bịt lỗ tai trước những cơn đói như vậy không? “Tôi đói, anh chị em đã cho Tôi ăn không?” Có nhiều người lạ xung quanh chúng ta, chúng ta có nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những người đó không?
Tù nhân không phải chỉ có ở trong các nhà tù theo nghĩa đen. Mà là tất cả những người bị giam giữ, bị tra tấn hoặc bị khai trừ vì lý do lương tâm, bất đồng quan điểm chính trị hoặc vì đức tin. Họ đều là những người muốn được tự do và được giải phóng. Chúng ta đừng nói là mình không thể giúp được gì cho họ. Rồi cũng có những người bị tù đầy vì cờ bạc rượu chè, trai gái v.v.. Nói tóm lại, Chúa Kito mời gọi chúng ta nghĩ tới họ và tìm cách giải phóng họ, quan tâm đến họ và đem tình yêu của chúng ta đến những người thân của họ.
Một điều khác chúng ta cần chú ý: Chính Chúa Kito cũng là người mà nhiều người trên trái đất ngày nay không biết đến. Trong Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe đọc: Tất cả những người tốt cũng như xấu đều nói với Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết Ngài là ai”.
Những người tốt thì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nói: “Vì xưa Tôi đói, các ngươi đã cho Ta ăn…”. Còn những người xấu, cũng nói như vậy, nhưng đối với họ, có thể là mượn một lý do để biện minh.
Trong đời sống của chúng ta, thỉnh thoảng có những sự mù quáng, đó là nhiều người không thấy được điều mà họ không muốn thấy. Chính Chúa Kito là người không được biết đến trong đời sống của thế giới hôm nay. Còn chúng ta, chúng ta biết rõ Chúa Kito hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta còn cần phải nhận ra Chúa Kito nơi những người bé nhỏ mà chúng ta sống gần kề.
Một điều đáng chú ý nữa, đó là tầm quan trọng của cái mà chúng ta cho là tầm thường trong đời sống chúng ta. Chúng ta thường nghĩ rằng: Tất cả những việc tôi làm, như đi làm buổi sáng, học bài, nấu ăn, dọn dẹp cửa nhà, lau chén quét nhà, điều đó giúp ích gì cho tôi? Tất cả những công việc đó cũng chỉ là tầm thường.
Nhưng Chúa Kito trong bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ rằng đó chỉ là công việc bé nhỏ. Những việc làm bé nhỏ như vậy, có giá trị rất quan trọng đối với những người công chính vào ngày cuối cùng của cuộc đời. Và vào ngày cuối cùng, cũng không có những người làm những công việc nổi danh, những người mà người ta nói trên báo chí và truyền hình, những người mà tên của của họ được ghi trong lịch sử. Ngày đó chỉ còn những người làm cho những công việc hằng ngày và tầm thường của họ có một ý nghĩa, nếu họ làm với tất cả tình yêu.
Vì thế chúng ta cần phải học yêu ngay trong gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, lớp học chúng ta, xưởng thợ của chúng ta và làng xóm của chúng ta. Chẳng có gì là vô nghĩa trong đời sống của chúng ta.
Thánh Gioan Thánh Giá nói với chúng ta: “Vào ngày sau hết của cuộc đời, bạn sẽ bị kiểm tra và sát hạch về tình yêu của bạn đó”.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
=========================
Suy niệm 2
HÃY NHỚ ĐẾN CÔNG ĐỨC CỦA CÁC NGÀI
Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là: chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, thì cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian, và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực còn sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đã chín hẳn.
Như vậy, trong quá trình sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của mình cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng…
Cây chuối là biểu tượng cho một tình yêu cao thượng. Nhìn cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên mình của những bậc tiền nhân chúng ta.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ cầu hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu… của chúng ta đã ra đi về với Chúa.
1. Lý do cần cầu nguyện cho các linh hồn
Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. Vì thế, những người con, cháu, chắt hãy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt ghi tâm: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai […], vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (x. Cn 6,20.23).
Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đã sống hết mình vì con cái. Đôi khi vì hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con mình phải đói, phải rách, hay bị thất học… Có những người mẹ đã cống hiến luôn cả một phần cơ phận của mình để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh…:
“Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên,chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Hoặc có những người cha đã phải thức khuya dậy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình và lo cho con cái bằng bạn bằng bè:
“Cha tôi tuy đã già rồi, nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đã dậy để ra đi làm”.
Đó là về vật chất, còn về tinh thần thì sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái mình sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh… Tuy nhiên, vì sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đã biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ vì không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là: “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng: chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng… Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai sương, dầm mưa dãi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm no, hạnh phúc.
Nói chung: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đây là gia tài quý báu mà các ngài truyền lại cho con cháu.
Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đã để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, vì thế,“Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, vì: “Mẹ cha vất vả nuôi mình. từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nhưng có lẽ món quà quý giá nhất giờ đây mà các ngài mong muốn nơi chúng ta, đó là dâng thánh lễ và lời cầu nguyện.
2. Cầu nguyện là món quà quý giá nhất dành cho các linh hồn
Vì thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng: chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, vì: “Sinh ký, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi đứng trước hay nhìn thấy các nấm mồ của người thân yêu đã quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế mãi mãi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta.
Vì thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong Kinh Thánh, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, vì thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Lời hứa về sự sống đời đời còn được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau: “Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn: Ai “tin vào người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Hay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi tháng 11 đến, ngoài việc cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, vì: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” (thánh Augúttinô).
Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lý như: cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giã mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng đến đây chấm dứt, chỉ còn biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi.
Bên cạnh đó, từ nơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta: hãy sống lành để được chết thánh; hãy yêu thương để được yêu thương; hãy tha thứ để được thứ tha; hãy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng.
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong tình thương của Chúa và xin cho chúng con sống tốt trong cuộc sóng hiện tại, để mai ngày được cùng tổ tiên chúng con ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
=========================
Suy niệm 3
Muốn Sống Đời Đời, Hãy Ăn Bánh Giêsu
(Ga 6, 51 – 59)
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy. Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế, ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh là một câu hỏi lớn ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể xác, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: "Là Bánh Hằng Sống … ai ăn … sẽ được sống đời đời" (Ga 6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh. Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ