Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
MỤC LỤC
1. Chú giải của Noel Quesson
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông: Sự ân cần săn sóc của Thiên Chúa
3. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: Phó thác cho Chúa quan phòng
4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Phó thác cho Thiên Chúa quan phòng
5. Sống trong sự chăm sóc của Chúa (Lm. Carolo Hồ Bạc Xái)
6. Tiền có cứu độ được con người không? (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
7. Tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. “Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Người đầy tớ tốt! (P. Trần Đình Phan Tiến)
10. Ai đang thống trị tâm hồn tôi? (Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà)
11. Lạc quan (Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
12. Có tin, có khác (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
13. Yêu thương và tin tưởng vào Cha (Lm. Nguyễn Văn Đông)
14. Thiên Chúa quan phòng (JM. Lam Thy ĐVD.)
15. Giằng co (Trầm Thiên Thu)
16. Thiên Chúa chẳng quên ta bao giờ (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
17. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy (Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
18. Thiên Chúa hay thần tài? (Lm Nguyễn Hồng Giáo)
19. Nguồn sống (Lm Vũ Đình Tường)
20. Suy niệm của ĐGM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
21. Chọn Thiên Chúa hay tiền của (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
22. Thiên Chúa quan phòng (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
23. Tiền và Nước Trời (R. Veritas)
24. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
25. Con là con của Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
26. Ưu tiên tìm kiếm Chúa (Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự)
27. Tiền bạc: Ông chủ hay đầy tớ? (Lm. Đan Vinh)
A. BẢN VĂN
Bài đọc I (Is 49,14-15):
14 Xi-on từng nói : “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi !” 15 Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.
Bài đọc 2 (1 Cr 4,1-5):
1 Thưa anh em, chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. 3 Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. 4 Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa. 5 Vậy xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng.
Tin Mừng (Mt 6,24-34):
24 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.
25 “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo cho thân thể : lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ? 26 Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? 27 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay ? 28 Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học : chúng không làm lụng, không kéo sợi ; 29 thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 30 Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ! 31 Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? 32 Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. 33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 34 Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai : ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM
Ngày nay, một cách đọc Tin Mừng hời hợi thật ra sẽ có hại. Đức Giêsu có lên án tiền bạc không? Người có khuyên người ta vô lo và lười viếng không? Đức Giêsu có thể có lý khi khuyên một người cha trong gia đình đang thất nghiệp đừng lo lắng cho ngày mai không? Khi cho ví dụ “chim trời không gieo, không gặt”, Đức Giêsu có bảo các bà mẹ. Trong gia đình đừng chuẩn bị các bữa ăn, đừng mua lương thực không? Có thật là Người bảo những người nghèo đôi khi thiếu cá nhưng nhu cần thiết phải chờ một phép lạ của sự quan phòng để không chết đói. Từ đó, Đức Giêsu chẳng phải là một con người hiền lành mơ mộng mà ngôn ngữ mang chất thi ca là một thứ trò chơi không có thật, không thể nào phù hợp với thực tế khắc nghiệt của kinh tế và những vấn đề nghiêm túc của việc phân chia các tài nguyên hay sao?
Hẳn ở đây phải có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu những lời của Chúa.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được…”.
Thật là tai hại khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở đây một chữ, quả thật là huyền bí mà Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon…”. Từ ngữ này bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram. Trong ngôn ngữ này; “Mam-mon” có nghĩa cụ thể là “tiền bạc”, “thu hoạch”, “lợi nhuận”, “sự giàu có”. Khi đặt “Thiên Chúa” đối lập với “Tiền Của”, Đức Giêsu dường nhu muốn nhân cách hóa tiền bạc… làm nó thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến “Tiền Của” như đó là đối thủ của Thiên Chúa, một cách diễn tả cụ thể về Xa-tan, “Ông Hoàng của thế gian này” bắt con người làm nô lệ và cố gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa…Để hiểu rõ tư tưởng của Đức Giêsu, chúng ta cũng ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về “chủ”.. về “làm tôi”… Từ “chữ” dịch từ “kurios” thường có nghĩa là “Đức Chúa”. Từ “làm tôi” dịch từ “douleuô”‘ có nghĩa là “làm nô lệ”. Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người đã có một nghề nghiệp: Người đã trải ” qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy; “Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người không có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc tiền thuế hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và chúng ta các dụ ngôn..của Người: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi “. Người bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda” (Mt 22,19). Trong dụ ngôn những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe Người nói “đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối với mọi ý thức (Matthêu 25,27).
Không, Đức Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc sử dụng bình thường của tiền của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên án “sự nô lệ cho tiền của”: Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em không có quyền làm mình trở thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!” (Luca 6,24). “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó” (Matthêu 6,19). “Hãy đi bán tài sản của mình” (Mt 19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ, những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho tiền của là một bệnh “ung thư” thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nền văn minh của ‘đồ bỏ đi ấy của Xa-tan’: tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Xa-tan” như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu nhà doanh nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ còn sống chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên Chúa! Còn nói gì về sự “phung phí” các nguồn tài nguyên của hành tinh này có nguy cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự “cướp bóc” các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?
Không, tiền của không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của cái ác đáng sợ khi nó “nô lệ hóa” Một người nào. Giá một chiếc xe tăng đủ để mua lương thực cho hàng trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh khu trục và ném bom có giá bằng 40.000 nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay biết. Tiền của lẽ ra phải là một “đầy tớ” tuyệt vời, hiện đang là một “ông chủ” xấu.
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Công thức “đừng lo” sẽ trở lại bốn lần trong một vài hàng. Quả thật, sự “lo lắng” là một trong những hình thức nô lệ mà của cải kéo theo nó. Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị tổn thương bởi chúng nhồi máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của thế giới. Dường như Đức Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt đẹp. Anh em hãy sống, nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để chạy, để lúc nào cũng có được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời gian để sống! Và Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị. Lương thực, quần áo dù rất cần thiết… cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên tắc ấy về sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con người trên thế giới hữu hình…. chủ yếu là sự ưu tiên
Của luân lý (đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con người trên đồ vật, sự ưu việt của tinh thần trên vật chất… Điều quan trọng là sự phát triển của con người chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật… Thà có ít hơn để hiện hữu nhiều hơn”.
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì huống hồ là anh em, Ôi những kẻ kém tin?”.
Những hình ảnh này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá ấn tượng nên người ta có thể hiểu sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng không nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến khích người nghèo đi xin xỏ hoặc nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo hoặc thói lười biếng. Thật là quá đáng. Có một thu “tôi mặc kệ”. nào đó làm cho chính những người khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô lo, chúng ta chất lên đầu họ. Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu người khác, những người mà chúng ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận lấy những lo láng này trên vai chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả lại, nếu Đức Giêsu nói: “Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi…” thì tại sao trong toàn bộ Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền “hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng”. Thật ra Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được nuôi ăn” (Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2 Thê-xa-lô-ni-ca 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.
Vậy Đức Giêsu muốn nói điều gì? Khi Người nói “lo lắng mà làm gì?”.
Thế thì người nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải thư giãn một chút phải chống lại sự căng thẳng thần kinh thái quá…
Người bảo chúng ta phải làm việc như “chim trời và hoa cỏ ngoài đồng”: Các bạn hãy nhìn kỹ chúng… hãy nhìn hoạt động và các sự khéo léo mà chúng sử dụng để sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức Giêsu nói với chúng ta nhiều nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả những tạo vật khác, vậy mà Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Tất cả lập luận của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá lo lắng dựa trên một sự tin chắc của đức tin: Cha anh em “biết”? Trước đó, Người đã nói về sự cầu nguyện: “anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha anh em đã “biết” rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về Thiên Chúa đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại… và Thiên Chúa là Cha yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một người “vô lo”… mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy đã trở nên say mê Nước Thiên Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa!”.
Làm tôi tớ cho Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do…
“Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ về ngày ấy”.
Một câu châm ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều gì. Cả cuộc đời, Người đã sống như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo lắng của hôm nay những lo lắng của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày với nỗi sợ hãi những bất hạnh là có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng mỗi ngày… ngày mai rồi sẽ biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.
Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông: Sự ân cần săn sóc của Thiên Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VIII Thường Niên này dâng hiến sự ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Is 49,14-15
Qua vị ngôn sứ của Người, Thiên Chúa khẳng định cho dân Người rằng sự ân cần săn sóc của Người đối với họ thì sâu thẳm và không hề mai một, còn hơn tấm lòng của mẹ hiền đối với đứa con thơ bé bỏng của bà.
Mt 6,24-34
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su miêu tả sự ân cần săn sóc của Thiên Chúa như tấm lòng của người cha quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình, và đặc biệt hơn nữa đối với những ai đặt quyền ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời. Ngài đòi hỏi con người phải nên hoàn thiện như là điều kiện tiên quyết.
1 Cr 4,1-5
Bài đọc 2, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như lời kết luận, không cho thấy những mối liên hệ với hai Bài đọc kia. Thánh Phao-lô công bố rằng thánh nhân thực hiện sứ mạng của mình như một người quản lý trung tín của những mầu nhiệm Thiên Chúa. Về phẩm chất sứ điệp của thánh nhân, các tín hữu Cô-rin-tô không cần phải tranh cãi, bởi vì Thiên Chúa là vị Thẩm Phán duy nhất.
Gợi ý Bài giảng
Bản văn Tin Mừng này còn thuộc vào “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Mát-thêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Đức Giê-su. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước, ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, tô điểm những lời khuyên xử thế thực hành. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, siêu việt: Bài diễn từ tuôn đổ vào Mặc Khải của Chúa Cha và sự ân cần chăm lo vô hạn của Người đối với muôn loài thụ tạo. Đức Giê-su vừa mới dạy cho các Tông Đồ Kinh Lạy Cha và Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo mẫu gương tấm lòng yêu thương của Cha trên trời. Giờ đây, Đức Giê-su tiếp tục khi gợi lên đại gia đình yêu thương, đó là tấm lòng phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
1. Không ai có thể làm tôi hai chủ:
Trước tiên Đức Giê-su nhắc lại yêu sách mà Ngài đã phát biểu từ Mối Phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Đức Giê-su dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng một cách đặc biệt khi đối lập giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Bản văn Hy Lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nghĩa là “thần tài”. Chắc chắn Đức Giê-su đã muốn nhân cách hóa tiền bạc để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Đức Giê-su đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (6,21). Bởi lẽ Thiên Chúa muốn trọn vẹn lòng mến của con người dành cho Người. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết tất yếu cho sự hiến dâng này mà Thiên Chúa đòi hỏi từ họ.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Trong khi khai triển cuộc đời phó thác này, Đức Giê-su định vị nỗi lo lắng của người Ki-tô vào những nỗi âu lo về cuộc sống vật chất. Ngài không đòi hỏi phải từ bỏ những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, nhưng đừng có bận lòng thái quá. Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Vào lúc tham dự Tiệc Ly với các môn đệ, Đức Giê-su đã nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35). Cũng vậy, cô Mác-ta lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo, trong khi cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Đức Giê-su khen ngợi cô Ma-ri-a là chọn phần tốt nhất.
Đức Giê-su thiết lập thứ bậc của những nỗi bận lòng. Vào thời Thiên Sai, nỗi bận lòng ưu tiên là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa:
Sự ân cần chăm lo của Đấng Tạo Hóa đối với các loài thụ tạo của mình thuộc đề tài Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh hát ca: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104,27; 145,15; 136,25; 147,9). Trong số những loài thụ tạo khiêm hạ nhất, Đức Giê-su đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa huệ. “Hoa huệ” mà Đức Giê-su nói đến ở đây chỉ “hoa đồng cỏ nội”. Vào mùa hè, sau một trận mưa, trên những triền đồi miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này được các nông dân Ga-li-lê thu lượm lại, không chỉ để làm cỏ khô nuôi gia súc, nhưng để làm chất đốt để đốt lò nướng bánh.
Đức Giê-su điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: từ chim trời chẳng có giá trị gì và hoa đồng cỏ nội “nay còn mai mất”, Đức Giê-su đề cập đến phẩm chất cao quý của con người. Đây là yếu tố thứ hai mà các môn đệ Đức Ki-tô phải đặt trọn niềm tin tưởng của mình vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa. Con người là một loài thụ tạo cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho phép người Ki-tô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ dân ngoại. Nếu họ tin vào Thiên Chúa, họ sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời. Nhưng tiên vàn phải tin vào Thiên Chúa. Tất cả vấn đề là ở đó.
4. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người:
“Trươc hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”: Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Đức Giê-su vừa mới đề cập ở trên: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Đức Giê-su không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. Cũng vậy, như trong lời kinh mà Đức Giê-su vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
“Anh em đừng lo lắng về ngày mai”: Đừng bận lòng ngày mai là một thái độ tin tưởng và là một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó.
Bài 3. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: PHÓ THÁC CHO CHÚA QUAN PHÒNG
Khi Đức Giêsu bảo chúng ta chọn Thiên Chúa làm chủ nhân duy nhất, lý do duy nhất, đó là chúng ta không thể tìm được hạnh phúc ở bên ngoài Thiên Chúa.
1- Ngữ cảnh
Chúng ta có thể theo dàn bài của cha Marcel Dumais, mà cho rằng: phân đoạn Mt 5,17–7,12 của Bài Giảng trên núi có nhan đề “Sự công chính của Nước Trời hay là Sống như con cái của Chúa Cha” với bố cục như sau:
Mở: hoàn tất Luật và các ngôn sứ (5,17-19).
1- Đức công chính dồi dào (5,20-48) [ x. “dồi dào” từ 5,20-47]:
1) Lời công bố tổng quát về đức công chính (5,20),
2) Sáu áp dụng (5,21-48).
2- Đức công chính được thực hiện nơi bí ẩn trước nhan Chúa Cha (6,1-18):
1) Lời công bố tổng quát về đức công chính (6,1),
2) Ba áp dụng (6,2-18).
3- Đức công chính phải ra sức tìm cho có và không lo lắng (6,19-34):
1) Tích trữ của cải bằng cách phụng sự Thiên Chúa chứ không phụng sự Mammôn (6,19-24),
2) Tìm đức công chính của Nước Trời không lo lắng (6,25-34).
4- Những câu được quy tụ lại (7,1-11):
1) Đừng xét đoán anh em (7,1-5),
2) Đừng quăng của thánh cho chó (7,6),
3) Hãy xin, thì Chúa Cha sẽ ban cho (7,7-11).
Kết: Đây là Luật và các ngôn sứ (7,12).
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Câu chuyển tiếp: Thiên Chúa và tiền bạc (6,24);
2) Tin tưởng vào Chúa quan phòng (6,25-34): Ba phần với câu “Đừng lo lắng”
a) Đừng lo lắng về mạng sống (cc. 25-30),
b) Đừng lo lắng về ăn mặc (cc. 31-33),
c) Đừng lo lắng về ngày mai (c. 34).
3- Vài điểm chú giải
- Ghét (24): Ý nghĩa Sê-mít của động từ miseô này là “không yêu thương; yêu thương ít” (so sánh với Lc 14,26 và Mt 10,37); và ý nghĩa của động từ “khinh dể” là “trở nên lãnh đạm với”.
- Mamônas (24): Từ ngữ A-ram (mâmônâ’) này không có trong Cựu Ước, mà chỉ xuất hiện ở đây và ở Lc 16,9.11. Nền văn chương Do-thái giáo thường dùng từ này để nhân cách hóa tiền bạc, và của cải trần thế.
- Mạng sống (25): Psychê ở đây không có nghĩa là “linh hồn”, mà hiểu theo nghĩa Sê-mít là “mạng sống”, bởi vì nó ăn và uống được.
- Lo lắng (25): “Lo lắng”, merimnaô, là xu hướng tìm cách bảo đảm cho cuộc sống của mình ở trần gian này.
- bông huệ (28): Chúng ta không biết đây là loại “huệ” nào; nhưng krinon cũng có thể có nghĩa chung là “bông hoa”.
- những kẻ kém tin (30): Theo truyền thống kinh sư cổ xưa, “những kẻ kém tin” là những người Israel đã muốn lượm man-na và chim cút vào ngày sa-bát trong hoang địa (x. Xh 16,4.19.27; Ds 11,32).
4- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Thiên Chúa và tiền bạc (24)
Câu chuyển tiếp này đi từ một kinh nghiệm: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”, để dạy rằng không thể phục vụ Thiên Chúa với một con tim chia sẻ, hoặc nói tích cực, cần phải lấy một quyết định căn bản là yêu mến Thiên Chúa trên mọi sự và chỉ chấp nhận mọi sự khi chúng hòa hợp với tình yêu căn bản này. Vị “chủ” kình địch có thể là bất cứ vật gì hoặc bất cứ người nào, nhưng đến cuối câu, bản văn đưa ra một ví dụ, “mâmônâ’”, một từ Sê-mít để chỉ tiền bạc của cải.
* Tin tưởng vào Chúa quan phòng (25-34): Ba phần với câu “Đừng lo lắng”
Bài này là một bài giáo lý hoặc khuyến thiện Kitô giáo. Cũng rất có thể vào lúc đầu, bài này là một lời khuyên ban cho các nhà thừa sai, song song với Mt 10,8-10.
Lệnh truyền tiêu cực “đừng lo lắng” (mê merimnate) là chìa khóa giúp đi sâu vào bản văn này. Nó xuất hiện ở đầu, ở giữa và ở cuối bản văn (x. cc. 25.31.34). Cũng động từ ấy được lặp đi lặp lại ba lần trong bản văn (cc. 27.28.34). Đây là một nỗi ưu tư khắc khoải, phát xuất từ tình trạng thiếu đức tin (c. 30), đưa tới chỗ đặt những câu hỏi đầy lo âu (c. 31). Ta hiểu lệnh truyền này hơn khi đặt nó đối lập với lệnh truyền tích cực thứ hai: “Trước hết hãy tìm kiếm…” (c. 33). Nỗi lo lắng khắc khoải sẽ biến mất khi ta thực sự tìm kiếm (zêteô) Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Bản văn này có vẻ như nối tiếp Bài Tám Mối Phúc: những người nghèo, những người đói, sầu khổ, bị bách hại, được tha thiết mời gọi đừng để mất sự thanh thản và tin tưởng cho dù phải thiếu những của cải căn bản. Đức Giêsu không gợi ý cho người ta những cách thức để thoát khỏi sự cùng quẫn, nhưng để chận đứng, để làm im tiếng sự khắc khoải. Câu 25 giới thiệu chủ đề của bản văn: đừng lo lắng về đời sống, về những nhu cầu của thân xác, tập trung vào cái ăn cái mặc. Động từ merimnaô, “lo lắng” được nói đến 6 lần trong bản văn (cc. 25.27.28.31.34), cho thấy chủ ý của bài giảng. Họ hãy nhớ đến Thiên Chúa tốt lành và quảng đại. Luận chứng khiến họ phải tin tưởng vào Chúa Quan phòng dựa trên những ân hệ Thiên Chúa đã ban rộng rãi và còn ban rộng rãi cho loài người. Ai đã ban chuyện lớn, chuyện cao hơn (đời sống và thân xác) thì cũng có thể ban chuyện nhỏ hơn (thực phẩm và y phục). Ngay về phương diện khôn ngoan tự nhiên, có ích gì nếu cứ lo lắng triền miên?
Đức Giêsu vận dụng hai ví dụ trong thiên nhiên: Thiên Chúa săn sóc (a) loài chim (c. 26), (b) các bông huệ và cỏ (cc. 28.30), là những thọ tạo không đáng kể. Đây phải là chuyện văn chương, mà là chuyện mỗi ngày và mọi giờ. Chắc chắn tác giả không muốn bảo họ sống vô vi và vô trách nhiệm, ăn bám; ngài chỉ muốn bảo họ rằng tất cả những gì họ được kêu gọi và bị buộc phải thực hiện để giải quyết các khát vọng căn bản thì phải làm với sự thanh thản và tin tưởng. Đó là lý do khiến tác giả đã để xen vào giữa hai ví dụ một câu mang tính minh triết và bi quan: “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (c. 27). Không một người nào có thể thay đổi mức độ Thiên Chúa đã đặt định cho mình! Sau đó, cc. 31-32 tóm kết lời khuyên bằng cách nhắc lại lời đưa vào Kinh Lạy Cha (x. 6,7t). Những câu sau phải được hiểu dưới ánh sáng của niềm tin của cộng đoàn cầu nguyện; Cha trên trời biết rõ họ cần gì ngay trước khi họ xin.
Câu 33 minh họa ý nghĩa của khẳng định trước. Vấn đề không phải là xoá đi một điểm trong chương trình (dấn thân trần thế) để đề cao một điểm khác (Nước Thiên Chúa), nhưng là thiết lập giữa chúng một sự ưu tiên đúng đắn. Câu “Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” có nghĩa là: sự công chính là một lối sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa, nghĩa là phù hợp với các đòi hỏi và luật lệ của Nước ấy. Tác giả muốn làm sáng tỏ điều này là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa không phải là một sự chờ đợi tiêu cực, không chỉ là một thái độ tôn giáo nội tâm, nhưng là một lối thực hành đức công chính thấy được, như Bài Giảng trên núi trình bày (x. lời lưu ý 5,20).
Câu cuối cùng (c. 34) nhắc lại tầm mức của bản văn. Thật không khôn ngoan chút nào nếu muốn gánh vác gánh nặng của ngày mai. Ưu tư khắc khoải ngày hôm nay để được sống yên hàn ngày mai, trong khi ngày mai tự nó là không chắc chắn, không thể tiên liệu và không nắm chắc được, thì không phải là cách xử sự của những người thông minh.
+ Kết luận
Đoạn này không phải là một lời mời gọi đừng lo xa, và càng không phải là một lời khuyến khích đừng làm việc. Đây là một lời kêu gọi tin tưởng vào Cha trên trời: Ngài không thể bỏ rơi con người khi mà họ có giá trị hơn loài chim. Câu 32 nêu “dân ngoại” ra như một điển hình tiêu cực (anti-modèle): họ khắc khoải lo lắng tìm kiếm tất cả những thứ này. Ta nhớ rằng dân ngoại không ngỏ lời với Thiên Chúa với thái độ tin tưởng, bởi vì họ không xem nhưng là một Người Cha biết các nhu cầu của họ (x. 6,7-8 // 6,32). Còn người môn đệ “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài”. Đây là một mối bận tâm, nhưng không khắc khoải. Tiếng “trước hết” không loại trừ, nhưng đúng hơn bao hàm một tiếng “kế đó”, nghĩa là một mối quan tâm hợp lý (không khắc khoải) đến những nhu cầu cơ bản của cuộc sống.
5- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả Mt có trước mắt tình cảnh tuyệt vọng của những người đói khát và nỗi lo lắng của đám đông những người nghèo túng. Ngài nhắc cho họ nhớ đến lòng nhân lành, lòng quảng đại của Đấng Tạo hóa. Tuy nhiên, tác giả không cổ võ sự biếng nhác, ăn bám, ươn lười, nhưng là sự năng nổ, khi nhớ rằng Thiên Chúa đã ký thác vũ trụ cho con người làm chủ (x. St 1,27-28).
2. Nhiệm vụ trần thế phát xuất từ Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không miễn chuẩn cho con người khỏi phải tìm kiếm, khỏi phải mệt nhọc, băn khoăn nhằm giải phóng đất đai khỏi sỏi đá gai góc và làm cho nó nên phì nhiêu mà sinh hoa kết quả (St 2–3). Tìm ra những cách thức tốt mà làm việc có thể là dấu chỉ về tình yêu đối với Thiên Chúa và người anh em rõ ràng hơn là sự “tách biệt khỏi các sự vật”, bởi vì người ta đang đưa đến chỗ hoàn tất công trình mà Đấng Tạo hóa đã ký thác cho loài người.
3. Khi bảo chúng ta chọn Thiên Chúa làm chủ nhân duy nhất, Đức Giêsu không hề có ý nói là Thiên Chúa cần chúng ta, hoặc Thiên Chúa muốn dùng chúng ta làm gì cho Ngài. Lý do duy nhất, đó là chúng ta không thể tìm được hạnh phúc ở bên ngoài Thiên Chúa. Ngài là của cải vô biên, còn chúng ta là sự nghèo nàn vô biên. Do đó, đòi hỏi này cuối cùng lại là một cách Thiên Chúa tỏ bày tình yêu đối với chúng ta. Thiên Chúa đoái thương nghiêng mình xuống trên chúng ta là thọ tạo của Ngai, và dùng tiếng nói của Đức Giêsu mà nhắc lại cho chúng ta nhớ định mệnh đích thực của chúng ta.
4. Hội Thánh hôm nay phải đặt mình trước đòi hỏi sống niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, rồi tự hỏi: sự nghèo khó, việc sống ơn gọi, hoặc sự từ bỏ việc làm có thể có ý nghĩa gì trong việc phụng sự Nước Thiên Chúa. Bản văn không cung cấp một giải pháp, nhưng cho những hướng phải theo và mở chúng ta ra với những chọn lựa mà chính chúng ta phải cân nhắc để đi đến quyết định.
Bài 4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: PHÓ THÁC CHO THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Đâu là ý nghĩa của thái độ “chớ lo” xét trong tương quan với việc “tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của nó”?
2. Đâu là những thái độ đối nghịch? phải chăng đó là lời kêu mời đừng dấn thân, đừng tiên liệu?
3. Trong đoạn văn này, Chúa Giêsu có thực tế không?
1. Ý nghĩa toàn bộ của bản văn thật rõ ràng: Thiên Chúa là Đấng Kyrios. Đối diện với Ngài, con người chỉ là tôi tớ. Nhưng con người luôn luôn có khả năng quyết định: hoặc sẽ quay về Thiên Chúa là Chủ duy nhất của mình và yêu mến Ngài, hoặc sẽ khinh miệt hay ghét bỏ Ngài. Nếu quay về một ông chủ khác, bất cứ là ai và mang tên gì, thì con người đã phục dịch một kẻ không phải là Thiên Chúa. Cho dù vẫn trung thành với ông chủ đầu tiên nhưng đồng thời còn phục dịch một chủ khác, thì người tôi tớ đó đã phá vỡ cuộc sống chung với ông chủ trước là kẻ độc quyền trên mình. Cũng vậy việc dính bén của cải có thể là một trở ngại đối với tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa chính vì ta chỉ có thể yêu hoặc ghét một thái độ thứ ba, thái độ trung lập, không được bàn đến ở đây cũng như trong các giáo huấn khác của Chúa Giêsu.
2. Ngược lại, Thiên Chúa hằng quan tâm đến tất cả những thứ con người cần. Nhưng Ngài mong chờ con cái Ngài chia sẻ các ưu tư của Ngài về Nước Trời. Nếu biết hoàn toàn phó thác mọi lo âu của mình cho Thiên Chúa, người môn đồ Chúa Giêsu sẽ hiểu được quyền năng diệu kỳ giải quyết mọi ưu tư của con cái Thiên Chúa. Việc quan trọng là hãy tìm kiếm nước Ngài và sự công chính của Nước ấy trước tiên. Điều đó không có nghĩa là mọi cái khác sẽ bị chểnh mảng, song chúng sẽ trở nên thành phần của một toàn bộ cần thiết hơn, quan trọng hơn: Nước Trời.
3. Dù sao, các câu này không phác họa một bức tranh lý tưởng phản ảnh sự lạc quan tự nhiên của một thi sĩ đắm chìm trong Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn thực tế. Người biết rõ chim trời, về mùa đông, cũng phải chết vì đói lạnh, rằng trong thiên nhiên vẫn có cuộc tranh đấu sinh tồn. Đức tin của người vào Thiên Chúa không phải là đức tin ngây ngô. Dĩ nhiên, mọi sự đều nên tốt lành cho những ai yêu mến Thiên Chúa (Rm 8, 21), nhưng có một điều chắc chắn là: khi phục vụ Thiên Chúa, con người sẽ không bị hư mất. Ngay cả chim trời chết lạnh và các thánh tử đạo bị giết cũng chẳng phải là những kẻ bị quyền năng Thiên Chúa từ bỏ. Thành ra không được xem tình phụ tử của Ngài như là một lý tưởng nhân đạo khoác lác. Tình phụ tử của Thiên Chúa chẳng phải là chính sách phụ mẫu, nghĩa ]à một sự chở che đầy ủy mị khỏi mọi may rủi, bất trắc của cuộc đời. Một người cha biết yêu con cái không phải bao giờ cũng tránh cho con mình khỏi thử thách hay đau khổ: theo sức ông, ông sẽ biến thử thách hay đau khổ đó thành ích lợi cho đứa con. Thiên Chúa cũng vậy, Ngài lúc nào cũng có thể rút tỉa sự lành từ sự dữ, và biến cả cái chết và tội lỗi thành ơn cứu độ cho tạo vật Ngài. Ngài chỉ xin tạo vật hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài, chọn lựa Ngài dứt khoát.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Chớ lo”: Chỉ trong 10 câu đây, một đã 6 lần dùng động từ “lo” để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi lo âu thái quá vì cả cuộc sống ta đã được đặt trước mặt Chúa Cha là “Đấng biết rõ điều ta cần” (6, 8 được lặp lại trong 6, 32). Không phải là ở đây Chúa Giêsu cổ võ sự nhàn cư rảnh rỗi, lạc quan vô tâm hay phó thác thụ động vào Thiên Chúa. Đúng hơn Người đối nghịch hai thái độ sâu xa trước các nhu cầu của cuộc sống: bình tâm hay lo lắng. Dĩ nhiên phải làm việc kiếm cơm bánh hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng điều cốt yếu là trong mọi sự, phải biết quy về Chúa Cha.
“Há mạng sống không hơn của ăn… “: Chúa Giêsu suy luận thế này: Nếu Thiên Chúa đã ban sự sống và tạo dựng thân xác, Ngài cũng sẽ đảm bảo cho chúng mọi thứ cần thiết. Vậy đừng lo lắng làm chi.
“Hãy coi chim trời… hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng”: Đừng lo lắng, nhưng cũng chẳng được làm biếng. Chắc hẳn chim trời “không gieo không gặt”, tuy vậy vẫn không ngừng làm việc để kiếm thức ăn. Chỉ cần đưa mắt quan sát, ta sẽ thấy chúng bay khắp bốn phương tìm của ăn thích hợp, loài nào thứ ấy. Hoa huệ ngoài đồng không ngừng đâm rễ ngày mỗi sâu hơn vào trong lòng đất để hút lấy nhựa cần thiết cho sự sống hay sắc hương. Thành ra tín thác vào Thiên Chúa quan phòng không đồng nghĩa với vô vi vậy.
“Dân ngoại”: Khi xem của cải vật chất là đối tượng kiếm tìm không ngơi và đầy lo lắng, dân ngoại tỏ ra chẳng hề biết Đấng tạo hóa của mình, nếu không họ đã nhận lãnh chúng từ tay Ngài với lòng biết ơn vô hạn. Thành thử ở đây điểm được nhấn mạnh là động từ epizêtoun: tìm kiếm với đam mê và lo âu Một lần nữa, cái đặc trưng con người, không phải là bản chất của chính mình, song là cái mà con người dồn hết tâm lực hướng đến, là “kho tàng” của nó vậy (6, 19-21); cho dù đối tượng lo âu tìm kiếm này không phải là một trái cấm, thì đó cũng là “kiểu sống dân ngoại”. Thiên Chúa biết rõ các nhu cầu chính đáng của ta và hằng muốn thỏa mãn; sai lầm của dân ngoại là ở chỗ bất biết tình yêu ấy của tạo hóa và, bởi đó, bạo thành với tạo vật Ngài, để chiếm đoạt cho kỳ được (epizêtoun) khiến gây nên nhiều bất công xã hội.
“Hãy tìm kiếm Nước và sự công chính của nó trước tiên”: Chữ “trước tiên” thật là nằm trong tinh thần kinh Lạy Cha: Nước Chúa trước tiên đã (3 lời cầu xin đầu) rồi mới đến cơm bánh. Sự “công chính” của Nước Trời cũng là sự “công chính” ít nói đến trong cả Tin Mừng của ông, nghĩa là cách ăn nết ở phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Kitô hữu tiên vàn phải tìm cách để Thiên Chúa ngự trị trong đời mình, để đời mình là lời đáp trả với tình yêu thánh ý Thiên Chúa.
“Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy”: Nhận xét cuối cùng này cho thấy Chúa Giêsu rõ ràng là con người thực tế. Người ý thức rõ đời không phải chỉ toàn màu hồng, nhưng cũng lắm “khổ cực gian nan”. Người chỉ xin đừng thổi phồng khổ cực này cách vô ích vì quá ưu tư lo lắng cho ngày mai.
KẾT LUẬN
Đời sống con người chủ yếu là quy hướng về “Nước Trời và sự công chính của Nước ấy”, là phục vụ Thiên Chúa trong chính trực và thánh thiện. Các thứ còn lại đều tùy thuộc vào đó Lương thực và y phục là phương thế để đạt đến các mục tiêu của một định mệnh tôn giáo. Chúng cũng là phần thưởng thường được Thiên Chúa bảo đảm cho những ai phục vụ Ngài và tín thác vào Ngài trong khi vẫn luôn can đảm làm.
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi đòi buộc ta phải chọn Ngài như là chủ duy nhất, Thiên Chúa vẫn hoàn toàn vô vị lợi, vì Ngài chẳng cần gì nơi ta. nhưng Ngài biết rõ ta không thể tìm được hạnh phúc ngoài Ngài; Ngài là sự giàu sang vô biên, còn ta là nghèo khó vô tận. Vì thế yêu sách vô điều kiện của Ngài chỉ là một thái độ tình yêu mới đối với ta, nói lên rõ ràng định luật của hữu thể ta, khuynh hướng sâu xa của con tim ta. Con người được dựng nên cho Thiên Chúa như chim để bay, cá để lội. Điểm khác biệt là khuynh hướng về sự dữ của nó lôi kéo nó đi theo một nẻo đường khác. Do đó Thiên Chúa hằng xót thương ghé mắt nhìn đến tạo vật Ngài và, nhờ tiếng nói của Chúa Giêsu con Ngài, Ngài nhắc lại cho con người biết vận mệnh đích thực của nó.
2. Chúa Giêsu không đòi ta phải dửng dưng với các vấn đề lớn hiện nay như: nạn nhân mãn, bất quân bình kinh tế và xã hội, ô nhiễm môi sinh, giải phóng chính trị v.v… Người cũng chẳng buộc ta chểnh mảng trách nhiệm gia đình, nghề nghiệp. Nhưng Người đòi ta phải biết giải quyết các vấn đề đó trong một viễn ảnh “đối thần “, nơi Nước Trời chiếm chỗ ưu việt và con người trước tiên được quan niệm như con cái Thiên Chúa. Không phải tiện nghi hay của cải thực sự giải thoát con người: các nước kỹ nghệ vẫn luôn tìm kiếm thêm tiện nghi, và những kẻ giàu thuộc thế giới thứ ba vẫn luôn ao ước chất đầy của cải. Chỉ có sự cải hóa tâm hồn mới làm cho con người nên huynh đệ. Chỉ có niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa Cha mới làm cho kẻ nghèo biết tin tường ở tương lai.
3. Người ta có thể chỉ được một mảnh đất nhỏ mà cũng lo lắng về tương lai như một nhà triệu phú. Trong đoạn văn này, Chúa Giêsu không xét đến việc quản lý các tài sản khổng lồ, song bàn về việc tìm kiếm các nhu cầu sơ đẳng của cuộc sống. Thế mà cũng như gia sản khổng lồ, việc lo lắng tìm kiếm kế sinh nhai vẫn có thể là một ngại vật cho đời sống đức tin: vì không phải địa vị xã hội, nhưng chính thái độ của tâm hồn mới là yếu tố quyết định. Mọi người đều được mời gọi sống đời tự do của con cái Thiên Chúa: điều kiện duy nhất để được tự do ấy là hoàn toàn tin vào tình phụ tử của Ngài.
Bài 5. SỐNG TRONG SỰ CHĂM SÓC CỦA CHÚA
Lm. Carolo Hồ Bạc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong Thánh lễ hôm nay, Lời Chúa sẽ cho chúng ta biết rằng Ngài rất yêu thương chúng ta, Ngài biết rõ chúng ta cần gì ngay trước khi chúng ta mở miệng xin Ngài, Ngài hằng chăm sóc chúng ta từng phút từng giây, và ngay cả khi chúng ta quên Ngài thì Ngài vẫn không quên chúng ta.
Vậy chúng ta hãy dâng Thánh lễ trong tâm tình tạ ơn, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn sống phó thác trong sự chăm sóc của Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống vật chất đến nỗi quên phó thác vào Chúa.
- Chúng ta bỏ nhiều thời giờ và công sức để tìm kiếm của cải vật chất, mà không ưu tiên tìm biết để thi hành Thánh ý Chúa.
- Chúng ta hay xét đoán và lên án người khác.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 49,14-15) :
Vì phải sống kiếp lưu đày bên Babylon, chịu biết bao khổ cực, cay đắng, dân Israel nản lòng, đức tin yếu đi. Họ than “Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi”.
Đoạn sách này là phần thứ hai của sách mang tên ngôn sứ Isaia, còn được gọi là “Sách an ủi”. Tác giả, một đồ đệ của Isaia, khẳng định với dân : Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ, bởi vì họ là con của Ngài. “Nào người mẹ có thể quên con mình sao ? Cho dù có người mẹ nào quên con thì Ta, Ta sẽ không quên con đâu”.
2. Đáp ca (Tv 61) :
Tv này nối tiếp ý tưởng của Đệ nhị Isaia : Bởi vì Chúa không bao giờ quên chúng ta là con cái của Ngài, cho nên chúng ta hãy vững tin rằng lúc nào cũng có thể tìm được nơi Ngài sự nghỉ ngơi, ơn cứu độ và sự che chở : “Duy nơi Thiên Chúa mà thôi, linh hồn tôi mới nghỉ ngơi yên hàn”.
3. Tin Mừng (Mt 6,24-34) :
Khởi đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo chúng ta hãy chọn lựa một là phụng sự Thiên Chúa, hai là phụng sự tiền của, bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ được”.
Phụng sự Thiên Chúa là ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa – nghĩa là cố gắng sống theo Hiến chương Nước Trời – và tìm sự công chính của Ngài – nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Chúa.
Ngài còn bảo đảm : tất cả mọi như cầu khác về cuộc sống vật chất, như của ăn, áo mặc, sức khoẻ v.v. Ngài sẽ lo hết cho chúng ta.
4. Bài đọc II (1 Cr 4,1-5) :
Tín hữu Côrintô có rất nhiều tính xấu. Chúng ta đã thấy một số tính xấu trong những đoạn thư được trích đọc trong các Chúa nhựt trước, như óc bè phái, tính hay tranh cãi, tính tự kiêu v.v. Hôm nay ta thấy thêm một tính xấu khác, đó là hay xét đoán.
Thánh Phaolô lưu ý họ một chân lý nền tảng : Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, bởi vì duy có Ngài là biết rõ mọi sự trong đầu và trong tim mỗi người. Còn chúng ta là người phàm không biết rõ thì đừng bao giờ xét đoán ai.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. “Có người mẹ nào quên con mình được không ?”
Tại Dublin có một người mẹ hết sức đau khổ vì bà có một đứa con trai hư đốn. Nó không chịu học hành mà cũng chẳng chịu làm ăn. Suốt ngày chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt và kết bạn với những tên lưu manh. Tiền bạc và đồ đạc gì có giá trị của bà hể hở ra thì bị nó ăn cắp. Nhiều lần Bà hết khuyên dạy đến năn nỉ nó sửa mình, nhưng chẳng bao giờ nó nghe theo. Cuối cùng nó bị bắt giam trong tù. Nhiều người nghĩ rằng bây giờ bà có thể nhẹ gánh khỏi phải lo cho nó nữa. Nhưng không, tuần nào bà cũng đều đặn vào tù thăm nó với một túi xách đầy những thứ nó cần.
Một hôm khi Bà đang trên đường vào tù thăm con thì gặp Cha Xứ. Cha nói :
- Thằng con của Bà đã phá hỏng tất cả hạnh phúc của đời Bà. Thôi từ này về sau đừng thèm nghĩ tới nó nữa.
Nhưng Cha rất đỗi ngạc nhiên khi Bà đáp lại :
- Dù nó đã gây biết bao tội lỗi và dù con không hề thích những tội lỗi của nó, nhưng dù sao nó vẫn luôn là con của con, con không thể bỏ nó được.
Lời bà mẹ này nói cũng chính là lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay : “Có người mẹ nào quên con mình được chăng ? Và cho dù có người mẹ nào như thế, thì Ta, Ta sẽ chẳng bao giờ quên ngươi đâu”.
Quả thật không có tình yêu nào bao la và bền vững như tình mẹ,ï tình cha, và trên cả tình mẹ cha là tình yêu Thiên Chúa.
Chính vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu bao là bền vững như thế cho nên trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mới khuyên chúng ta hãy phó thác tất cả nơi tình yêu của Ngài : Đừng lo chi đến cái ăn, cái mặc, cũng đừng lo đến mạng sống và tuổi thọ. Hãy chỉ lo một điều duy nhất mà thôi là lo tím kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
2. Hãy xem chim trời và cỏ hoa đồng nội
Những người lớn quá bận rộn nên không còn thời giờ làm một việc mà hồi nhỏ rất thường làm, đó là ngắm nhìn thiên nhiên. Hôm nay, chúng ta hãy tạm gác qua một bên mọi bận rộn của người lớn để tìm lại thú vui thời con nít.
Hãy ngắm chim trời : mặt trời mọc lên, chim thức giấc với những tiếng hót líu lo, bắt đầu một ngày cách rất lạc quan. Rồi chim mẹ đi kiếm ăn. Xem ra ngay cả việc kiếm ăn này dù cực khổ nhưng cũng rất lạc quan : chim bay đi bay lại trong bầu trời cao rộng, lượn lờ trên những khóm cây, vừa bay lượn vừa tíu tít ca hót. Tìm được một chút thức ăn, chim vui mừng mang về tổ cho con, chim còn vui mừng hơn nữa khi thấy đám con vui sướng với những miếng mồi nhỏ xíu mình mang về… Cứ thế cho đến khi mặt trời sắp gác bóng, chim tìm về tổ ấm, cả gia đình chim cùng nhau đi vào giấc ngủ thảnh thơi, không cần lo lắng gì cho ngày mai…
Hãy ngắm hoa cỏ ngoài đồng : chúng đẹp rực rỡ, “ngay cả Salomon trong tất cả vinh hoa của ông cũng không trang phục được bằng một trong những đóa hoa đó”. Có đóa màu vàng tươi sáng, có đóa màu hồng êm dịu, có đóa màu trắng khiết trinh, rồi màu tím, màu đỏ, màu xanh… Thật là muôn màu muôn sắc. Nhưng thử hỏi hoa làm gì để có những màu sắc tuyệt vời ấy ? Ta có hỏi hoa thì hoa cũng chẳng biết trả lời. Hoa chỉ nói : “Em chỉ biết sống trong thiên nhiên thôi, em hứng lấy sương trời, em tiếp nhận nhựa sống từ thân cây, em vui đùa trong ánh nắng. Em không biết tại sao từ một chiếc búp rồi tới ngày em hé nhụy, cánh em nở ra, sắc màu em tươi thắm”. Nếu hoa biết suy nghĩ thì hoa sẽ nói thêm : “Chúa làm đó !”
Chim và hoa chỉ biết làm theo những gì mà thiên nhiên hướng dẫn chúng làm. Ngoài ra, chúng chẳng lo lắng gì cả. Mọi kết quả tốt đẹp rực rỡ đều là thiên nhiên làm cho chúng. Mà “thiên nhiên” là gì ? Thưa là Tạo Hoá, là Thiên Chúa. “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn tất cả những điều khác Người sẽ ban thêm cho các con”.
3. Suy nghĩ về sự lo lắng
Theo kết quả thống kê, người Mỹ thường lo lắng về những điều sau đây :
- Lo về tiền bạc : 45 %
- Lo về người khác : 39 %
- Lo về sức khoẻ bản thân : 32 %
- Lo về học hành thi cử : 20 %
- Lo mất công ăn việc làm : 15 %
Thực ra biết lo không phải là vô ích, vì nhờ biết lo xa nên người ta mới thoát khỏi những tình trạng bối rối (như chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến của Lafontaine). Nhưng sự lo lắng thái quá rất có hại.
Chính vì thế, Đức Giêsu không bảo ta đừng lo gì hết. Ngài dạy chúng ta cách giảm bớt sự lo lắng : một mặt là tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha, mặt khác là hãy tập trung lo điều chủ yếu quan trọng nhất mà thôi, tức là lo làm theo ý Chúa (ý nghĩa của kiểu nói “Tìm Nước Thiên Chúa và Sự công chính của Ngài”).
Thánh Augustinô chia xẻ cho chúng ta một cách sống hồn nhiên và vô tư như sau : “Phó thác quá khứ cho lòng Thương xót của Chúa, hiện tại cho Tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự Quan phòng của Ngài”.
4. Làm tôi tiền của
“Làm tôi tiền của”, một câu nói quá nặng ! Chắc không ai chịu nhận rằng mình đang làm tôi mọi cho tiền của. Tuy nhiên, ta hãy bình tĩnh để làm hai bảng trắc nghiệm.
A/ Bảng trắc nghiệm thứ nhất :
- Tôi vừa khai trương quán ăn. Mấy bữa trước khách đến lưa thưa. Hôm nay Chúa nhựt chắc chắn sẽ đông từ sáng tới chiều. Tiếc quá, tôi phải đến nhà thờ dự lễ. Không có tôi thì ai đón khách ? ai coi chừng tủ tiền ? rủi có chuyện gì xảy đến thì ai có thể xử lý ? Tôi nên bỏ lễ không ?
- Con của thằng em tôi bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện. Nó túng quá đến mượn tiền tôi. Mà tôi thì đang để dành tiền để sắm một chiếc Wave. Tôi sẽ từ chối nó ?
- Khi trả tiền mua một món hàng, cô bán hàng thối lại cho tôi dư một số. Tôi biết cô này thường bán mắc lắm, tôi nghĩ bấy lâu này cô đã lời của tôi hơn số tiền này nhiều. Vậy tôi sẽ làm như không biết gì cả, coi như hôm nay mình hên vậy chăng ?
Đặt mình vào 3 tình huống trên, nếu bạn đều trả lời “Phải” hay “Có” thì bạn đã làm tôi cho tiền của rồi, vì rõ ràng bạn đã coi tiền của trọng hơn Chúa, trọng hơn anh em ruột của mình, thậm chí còn trọng hơn danh dự và lương tâm của mình nữa.
B/ Bảng trắc nghiệm thứ hai :
- Nhà tôi bị trộm, vợ tôi tiếc nên cứ than vắn thở dài mãi. Phần tôi thì nghĩ “Có tiếc thì cũng mất rồi. Thôi từ từ sẽ làm lại”.
- Đồng bào nhiều nơi đang bị lũ lụt. Nhiều tổ chức từ thiện đi quyên góp. Gia đình tôi thì không dư dả gì, nhưng cũng hy sinh góp một ít tiền, vì tôi nghĩ “Mình nhịn ăn nhịn xài một chút, để giúp cho những người đang thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống”.
- Tôi đang thất nghiệp. Có người bạn chỉ tôi đi buôn lậu, vốn rất ít mà lời rất nhiều. Tôi thà nghèo chứ không thèm đến những đồng tiền bất chính.
Nếu tôi đồng ý với cách những giải quyết trên thì chứng tỏ tôi quả thực không bị nô lệ cho đồng tiền.
5. Đừng xét đoán
Một thực tế rất rõ ràng là người ta hay xét đoán nhau, chính chúng ta cũng hay xét đoán người khác : Anh đó sai, Cô đó làm vậy là xấu, mấy người ấy thật đáng trách… Thử nhớ lại những cuộc trò chuyện của chúng ta. Có bao nhiêu cuộc trò chuyện mà trong đó không có những lời xét đoán người khác ?
Giả như ai đó vì tín nhiệm chúng ta nên đem một vụ việc đến nhờ chúng ta xét đoán. Muốn xét đoán cho nghiêm túc, chúng ta phải làm gì ? Trước tiên là tìm hiểu vụ việc, không chỉ tìm hiểu một phía mà cả hai, có khi nhiều phía. Rồi tìm bằng chứng hay lý chứng. Rồi suy nghĩ thật kỹ. Sau cùng mới đưa ra kết luận.
Có khi nào chúng ta làm đúng và đủ những việc cần thiết đó không ? Ngay cả các quan tòa làm việc rất nghiêm túc mà cũng có khi đưa ra những xét đoán sai lầm.
Bởi vậy, Thánh Giacôbê hỏi : “Bạn là ai mà dám xét đoán người khác ?”
Còn thánh Phaolô trong bài Thánh thư hôm nay nhắc : “Anh em đừng đoán xét ; Đấng đoán xét chính là Thiên Chúa”.
6. Chuyện minh họa
Dân chúng ở một thành phố nọ có quá nhiều điều phải lo lắng. Vì thế họ họp nhau bàn cách giải quyết vấn đề này.
Một người đề nghị phải lập một công viên để người ta đến đó giải khuây. Người thứ hai đề nghị làm một sân chơi golf. Người thứ ba đề nghị xây một rạp xinê. Người thứ tư có một đề nghị độc đáo :
- Chúng ta hãy hùn tiền mướn một người gánh hết mọi nỗi lo của chúng ta.
- Nhưng người đó là ai ?
- Là anh thợ vá giày David đó.
- Mướn bao nhiêu ?
- Mỗi tuần 1000 bảng anh.
Tất cả mọi người đồng ý. Họ hỏi David người thợ vá giày :
- Anh có đồng ý với việc làm mới này không ?
David cười rạng rỡ :
- Tại sao không !
Tưởng là mọi việc đã thu xếp ổn thỏa. Nhưng bỗng một người đặt vấn đề :
- Chúng ta mướn David gánh hết mọi nỗi lo. Nhưng mỗi tuần hắn có 1000 bảng anh thì hắn còn gì phải lo nữa ? (Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa quan phòng muốn chúng ta ưu tiên tìm biết để thi hành thánh ý của Người, còn mọi sự khác hãy phó thác để Người lo cho chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ tình thương của Chúa và dâng lên Người những lời cầu xin tha thiết.
1- Sứ mạng của Hội Thánh là hướng dẫn cho mọi người biết thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết làm theo những hướng dẫn của Hội Thánh.
2- Chúa trao cho những vị lãnh đạo các nước trách nhiệm lo cho dân mình được ấm no hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cầm quyền / xin Chúa cho các vị biết hết lòng thương dân và lo cho dân.
3- Có nhiều người khổ sở vì thiếu thốn vật chất / nhưng lại có nhiều người khác khổ sở hơn / vì tuy dư thừa về vật chất nhưng lại túng thiếu về tinh thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người ấy / biết quan tâm đến những giá trị tinh thần và đạo đức.
4- Ngay cả nhiều người tuy là kitô hữu mà cũng chưa dám phó thác trọn vẹn vào Chúa quan phòng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn xứ đạo chúng ta / xác tín tình thương bao bọc của Chúa / để có thể an tâm ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
CT : Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Cha đã hứa rằng dù có người mẹ nào quên con mình thì Cha cũng không bao giờ quên chúng con. Chúng con thành thật xin lỗi vì biết bao lần không tin tưởng phó thác vào tình thương của Cha. Từ nay chúng con sẽ cố gắng ưu tiên làm theo ý Cha và phó thác mọi sự khác trong tay Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô là Chúa chúng con.
Bài 6. TIỀN CÓ CỨU ĐỘ CON NGƯỜI ĐƯỢC KHÔNG?
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Khi đến tuổi trưởng thành, người ta phải đối diện với thực tế cuộc sống như: nghề nghệp, đi tu hay xây dựng gia đình…? Vì thế, đòi mỗi người phải có sự chọn lựa, để chọn sao cho trọn, nhằm tránh đừng “đứng núi này trông núi nọ”. Tuy nhiên, khi đã chọn cho mình một nghề nghệp hay một ơn gọi, con người cần phải tiến xa hơn nữa để chọn lựa cho mình một giá trị tinh thần trong cuộc đời phù hợp với nghề nghiệp, lương tâm và ơn gọi, hầu mang lại sự hạnh phúc và bình an, nhất là ơn cứu độ của mình.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng giúp cho các môn đệ đi đến tận căn khi xác định chọn Chúa hay tiền tài, Ngài nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13b). Một là Thiên Chúa, hai là tiền của. Không có chuyện “bắt cá hai tay”. Thật vậy, chúng ta có hoàn toàn tự do để chọn lựa. Nhưng như một quy luật, chúng ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước sự chọn lựa của mình.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về sự chọn lựa và hậu quả của sự chọn lựa đó. Nếu chọn Chúa thì con người sẽ được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Ngược lại, không chọn Chúa và đi theo những trào lưu tục hóa, hay những cái mau qua chóng hết thì ắt sẽ bị đau khổ hay dẫn tới hành vi gian ác.
Khi ấy, tiên tri Isaia lên tiếng khuyên răn và củng cố lòng tin của dân, ông nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15). Vì thế, tuy không nói, nhưng ông ngầm gợi lại hình ảnh của một bà mẹ để thấy được rằng Thiên Chúa không bao giờ quên lời hứa của mình, là đã chọn họ làm dân riêng và sẽ cứu độ.
Sang bài đọc II: khi thấy dân thành Corintô đang có dấu hiệu bị phân tán do những tật xấu như: tham lam, ích kỷ, tự phụ và hay có sự phê phán, xét đoán người khác, làm cho trong cộng đoàn mất sự bình an và nghi kị nhau. Nhận ra điều đó, thánh Phaolô đã mạnh mẽ lên tiếng khuyên ngăn dân chúng đừng có đi vào con đường nguy hiểm đó, con đường đó là con đường dẫn đến diệt vong, bởi lẽ những hành vi xấu xa ấy xuất phát nơi Ma Quỷ chứ không đến từ Thiên Chúa.
Nếu chọn Chúa thì phải gạt ra bên lề tất cả những tật xấu đó và để dành quyền xét xử cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người mới thấu xuốt lòng dạ con người, và cũng chỉ có mình Người mới có quyền xét xử mà thôi. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy” (Mt 7, 1-2).
Cuối cùng là bài Tin Mừng: Đức Giêsu thấy rất rõ mối nguy hại của đồng tiền, nên Ngài lên tiếng dạy cho mọi người phải biết chọn lựa. Chọn Chúa hay tiền của. Nếu chọn Chúa thì phải từ bỏ những điều bất chính của đồng tiền gây nên, để chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13a). Chọn Chúa thì phải coi tiền bạc chỉ là phương tiện. Nếu đã coi nó là phương tiện, tức khắc, nó trở thành nô lệ. Chúa mới là niềm cậy trông, phó thác và cùng đích, là niềm vui và hy vọng, là Chủ của cuộc đời. Nói như thế, Đức Giêsu không dạy người ta: “ngồi mát ăn bát vàng”; hay “bắc nước chờ gạo người”; hoặc “không làm cũng có ăn”. Không phải như vậy, vì nếu như thế thì một cách vô hình trung, Chúa cổ xúy cho cái nghèo, hay bảo người ta “an phận thủ thường”. Nhưng Ngài muốn nói rằng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Khi chọn Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng vào tình thương của Ngài qua sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!” (Lc 12, 22-24).
2. Chọn sao cho trọn
Trong cuộc sống, nhất là thời điểm hiện đại như ngày nay, con người luôn bị cuốn vào vòng soáy của đủ thứ. Mọi chuyện trong xã hội thay đổi từng ngày. Nhiều giá trị cuộc sống cũng bị đổi thay không ngừng theo thời gian làm cho con người ngày nay cũng hay thay đổi và chạy theo những trào lưu hoặc xu hướng thời đại mà ít quan tâm đến tính bền vững của sự lựa chọn. Họ thượng tôn đồng tiền lên làm chúa của mình. Vì thế, không lạ gì khi có nhiều người cho rằng: đồng tiền giải quyết được mọi sự: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Hoặc: “Mạnh về gạo, bạo về tiền”; “Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời”. Ngay cả việc đạo, nhiều người cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”.
Tuy nhiên, có phải vậy không? Thưa không! Tiền có thể mua được nhiều thứ, nhưng nếu coi nó như ông chủ thì sẽ không thể mua được: mái ấm; thời gian; mục đích; hạnh phúc; bình an; trân trọng; nhân cách; tình nghĩa; tâm hồn; đời sau; Thiên Đàng. Còn nếu nó là đầy tớ thì mới hy vọng đạt được những thứ trên.
Sứ điệp mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhắm tới chính là chúng ta chọn Chúa hay chọn đồng tiền? Chọn điều chính yếu hay phụ thuộc? Đồng thời cũng mời gọi con người không được lo lắng, nhưng biết tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Thật vậy, không được lo lắng, bởi vì lo lắng thái quá sẽ mất niềm hy vọng, mà ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng. Nhưng Chúa dạy chúng ta hãy biết lo liệu, bởi vì: “Không biết lo xa ắt phải rầu gần”. Lo liệu là một trong Bẩy ơn của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ giúp cho con người biết khôn ngoan để cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Đừng lo lắng, bồn chồn quá sức, bởi vì quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và giây phút hiện tại là tốt đẹp nhất, vì thế, ai đang làm gì và nắm giữ vai trò nào thì chúng ta cứ thi hành với lòng mến, chu toàn, tin tưởng và trao phó cho Chúa: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,31-32). Ý của Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự khôn ngoan và biết tiên liệu.
3. Sống Lời Chúa
Thật ra, Đức Giêsu không lên án tiền của, bởi vì đã có lần Đức Giêsu nói: “Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33). Nếu biết sử dụng thì nó thì nó là tên đầy tớ tốt. Còn không thì nó sẽ là ông chủ tồi. Thật vậy, chính đồng tiền nó sẽ gây nên lòng tham, vì: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10). Đồng tiền, nó có thể làm cho chúng ta mù mắt và bất chấp mọi sự để đạt được mục đích, cho dù “mục đích rẻ tiền hay bẩn thỉu”. Đồng tiền nó rất rễ điều khiển con người, khiến con người bị lớp bụi ham lợi phủ lên lương tâm, làm cho lương tâm trở nên mù quáng và từ đó dẫn đến mọi chuyện bất chính, khuất tất. Tiền có thể làm cho trí khôn u mê. Giuđa là điển hình cho vấn đề này: ông đã được Chúa chọn, gọi để đi theo Ngài, để rồi sẽ như các tông đồ khác kế tục sứ vụ của Chúa, ấy vậy mà chỉ vì 30 đồng bạc, ông sẵn sàng bán Thầy của mình để Thầy phải chết.
Tiền có thể làm cho tâm hồn vô cảm. Chúng ta cứ xem chuyện ông phú hộ giàu có và Larazô nghèo khó. Ông ta dửng dưng với người anh em chỉ vì chúa của ông ta là đồng tiền và cái bụng. Tiền có thể làm cho ý chí chai lì. “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong “ (1 Tm 6, 9).
Khi diễn tả về việc đồng tiền hay làm cho con người “thay trắng đổi đen”, ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Ngồi trên đống cát, ai cũng quân tử và hiền nhân. Nhưng khi ngồi trên đống vàng mới biết ai thực sự là hiền nhân, quân tử”.
Thật vậy, người môn đệ của Chúa mà ham tiền hơn cả Chúa, hơn cả sứ mạng, thì hạng người đó là đồ bỏ, vì nó đã bị “hư thối”, bị “hết đát”, không dùng được nữa, họ như muối mà hết mặn thì chỉ còn đổ ra đường cho người ta trà đạp lên mà thôi. Nhưng có lẽ đau đớn hơn cả khi những người đó ham tiền thì chẳng khác nào một khối “ung thư di căn”. Họ sẽ dùng mọi lời lẽ khôn khéo xảo quyệt để ngụy biện cho hành vi trục lợi của mình. Khiến cho nhiều người bị họ “đánh lận con đen” nên không biết đâu là thật, đâu là giả nữa.
Những người ham tiền, họ sẵn sàng tôn thờ chúng mà bỏ Chúa, bất chấp tình nghĩa cha con, anh em, bạn bè. Đọc lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ: nhiều đấng bị ngay chính con của mình làm hại chỉ vì ham tiền, tham danh vọng. Cũng vì ham tiền, nên họ có thể sẵn sàng hồ nghi sự quan phòng của Thiên Chúa, và họ khấn vái tứ phương: “gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”, miễn sao được lợi. Những hạng người này được ví như người “ba phải”, kẻ “bắt cá hai tay”
Tuy nhiên, người bắt cá hai tay khó có thể thành công, mà nếu có thành công thì không bền vững. Bởi vì, họ bắt được con cá này thì ngỡ con khác to hơn. Đi tìm con khác thì hóa ra nó nhỏ hơn con trước, nhưng như một cái giá phải trả, con cá trước đã cao chạy xa bay, và con cá sau cũng không còn nữa, nên cuối cùng không bắt được con nào. Những người như thế là những người vô dụng và đáng bị nguyền rủa: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25, 30).
Lạy Chúa, xin tha thứ cho mỗi người chúng con vì những lần con đã thượng tôn tiền của mà đánh mất hay làm ngơ trước tiếng nói của Lương Tâm. Xin cũng cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm Chủ cuộc đời mình và tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. Amen.
Bài 7. Tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Chúa đã thương bênh đỡ phù trì, Người kéo tôi ra chỗ thảnh thơi, vì yêu thương tôi nên Người giải thoát“. Ca nhập lễ Chúa nhật hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyên suốt và là một chìa khóa để giải thích ý định của Thiên Chúa tình thương, Ngài muốn giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc thế trần, giúp chúng ta biết “vui vẻ phục vụ mà không lo lắng” và, mong sao “mọi việc ở trần gian luôn diễn tiến trong hòa bình trật tự, theo sự quan phòng của Chúa Cha” (x. Lời nguyện nhập lễ). Vì thế, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa là sứ điệp chính yếu trong phụng vụ lời Chúa của Chúa nhật hôm nay.
Tin tưởng vào Chúa
Để tin tưởng vào Chúa, trước hết chúng ta phải sửa trị sự mất lòng tin của chúng ta, từ khi con rắn làm hư hỏng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người, nó ghen tị với hạnh phúc của chúng ta và hành hạ tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta kém tin vào Chúa. Lời tiên tri Isaia là một thần dược chống lại nọc độc của con rắn xưa: ” Sion nói: “Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi“. Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ có quên, nhưng Ta sẽ không quên người đâu. Lời Thiên Chúa toàn năng phán ” (Is 49, 14- 15). Ðó là lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu không bao giờ phôi phai của Thiên Chúa. Tình yêu của đó được diễn tả qua hình ảnh của người mẹ. Thật cảm động khi lời tiên tri Isaia vang lên đúng vào lúc thành Giêrusalem bị tàn phá, điều này đem lại cho dân chúng niềm hy vọng, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa giữa lúc tưởng chừng như vô phương, mất hướng.
Lời mời gọi này cũng được đề cập đến trong Tin Mừng Matthêu, khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ của mình tin tưởng vào sự quan phòng của Cha trên Trời, Ðấng nuôi dưỡng mọi loài chim trời và điểm trang cho hoa huệ ngoài đồng, Ngài là Ðấng thấu biết mọi điều cần thiết của chúng ta (x. Mt 6, 24-34). Chúa Giêsu dạy: “Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng : Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì lấy gì mà mạc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều ấy” (Mt 6, 31-32). Và Người mời gọi chúng ta hãy đặt lên hàng đầu việc “tìm kiếm nước của Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban them cho” (Mt 6, 33). Niềm tin vào sự quan phòng không thế chỗ cho những nỗ lực chiến đấu để hướng đến một cuộc sống đúng với phẩm giá con người, nhưng giải phóng chúng ta khỏi những nỗi bận tâm về của cải và những nỗi sợ hãi trong tương lai.
Nhưng thế giới chúng ta đang sống, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, “một thế giới mà đồng tiền thống trị và điều khiển mọi sự“. Nên con người bị chi phối và nghiêng chiều về nó, sẵn lòng phàm hóa mọi sự, bỏ Chúa ra khỏi đời sống, chẳng tin tưởng vào Thiên Chúa nữa. Lời Chúa mời gọi chúng ta chọn Chúa, thờ phượng Chúa, và vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu.
Không làm tôi của cải
Trong cuộc sống, luôn có cái lôi kéo, thậm trí cắt đứt tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giam hãm con người vào trong sợ hãi: sợ về tương lai, sợ người khác, sợ bệnh, sợ không lường trước được, sợ sự đảo ngược của số phận, vì thế chúng ta đi tìm kiếm sự an toàn, bảo đảm mọi sự, với hy vọng sẽ tìm thấy ở tiền, và tiền được cho là bảo vệ chúng ta khỏi tất cả các thay đổi bất thường của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã lấy tiền làm mô hình để áp dụng cho lòng tham, vì tiền của đề cập đến quyền lực và vinh quang theo kiểu thế gian. Tuy nhiên, tiền tự nó không phải là nguyên nhân gây nên sự bất hạnh của con người, nếu đặt nó làm nô lệ, phương tiện cho con người. Nếu không có tiền, cần phải đặt để một thứ khác để trao đổi, như thế sẽ tốt hơn. Điều Chúa Giêsu chỉ trích ở đây là tương quan của chúng ta với tiền: tiền là đầy tớ, hay đúng hơn là một phương tiện trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Nhưng nó đã trở thành một mục đích tự thân tuyệt đối, nghĩa là một thần tượng, người ta tôn thờ nó. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được ” (Mt 6,24): hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của.
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi thật lòng mình: chúng ta đặt niềm tin tưởng vào ai? Nơi bản thân mình, nơi tiền bạc, hay nơi Thiên Chúa? Tất cả chúng ta bị cám dỗ đặt mình làm trung tâm, và tưởng rằng tự chúng ta có thể xây dựng đời mình và rằng đời mình chỉ được hạnh phúc nếu xây trên của cải, tiền bạc hay quyền lực. Không phải thế! Chắc chắn của cải, tiền bạc hay quyền lực có thể đem lại cảm xúc nhưng nhất thời, ảo tưởng hạnh phúc, rốt cuộc những thứ ấy lại ám ảnh chúng ta và làm cho chúng ta cứ muốn có nhiều và nhiều thêm nữa, không bao giờ thỏa mãn: “Hãy mặc lấy Đức Kitô” vào trong đời ta và đặt tin tưởng nơi Người.
Chúa là nơi ta trú ẩn, là hạnh phúc của đời ta
Chúng ta còn nhớ chuyện nhà phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: “Hồn ơi! mày có chán của cải, sẵn đó cho nhiều năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?” Và Chúa Giêsu kết luận, nếu chúng ta không không cẩn thận thì sẽ “như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa” (Lc 12, 16-21). Phúc cho người nào nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Duy có nơi Thiên Chúa, hồn tôi mong được an nghỉ, tự nơi Người, ơn tế độ cho tôi. Duy có Người là tảng đá, là ơn tế độ cho tôi, là đồn trú của tôi, tôi sẽ không hề mảy may nao núng!” (Tv 61, 2-3), người ấy sẽ không thất vọng vì họ cậy dựa vào Đấng Toàn Năng. Điều này không có nghĩa là người ấy sẽ được chở che khỏi mọi thử thách, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa đã đủ cho họ: “Hỡi anh em, hãy kể như niềm vui trọn hảo, khi anh em sa vòng trăm điều thử thách, bởi biết rằng: đức tin thí luyện của anh em làm nên kiên nhẫn; mà kiên nhẫn tất sinh quả phúc trọn lành, để anh em nên trọn lành, toàn bích, không thiếu sót về một sự gì” (Gc 1, 2-4).
Khi bàn về vấn đề tiền bạc, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: “Tiền bạc cho phép chúng ta hạnh phúc và làm ra của cải trên thế giới, nhưng tiền của mà thôi không đủ mang đến hạnh phúc cho chúng ta [...]Hạnh phúc là một cái gì đó mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nhưng một trong những thảm kịch của thế gian này là con người không bao giờ tìm thấy, vì nó không ở chỗ con người tìm kiếm. Chìa khóa hạnh phúc rất đơn giản : hạnh phúc thật chỉ thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải can đảm đặt hy vọng tuyệt đối ở nơi Thiên Chúa, không phải nơi tiền của, nơi sự thành công thế gian, hay nơi người đời, nhưng là ở nơi Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người” (Thư gửi các bạn trẻ trường công giáo Twickenham).
Lạy Chúa, chúng con chọn Chúa, Chúa là gia nghiệp đời con. Amen.
Bài 8. “KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày vừa qua, bức “Thư Ngỏ” viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x. vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. “Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao”. Nhưng “TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên”, nên “xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên”.
Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó”.
Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?
Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà “ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (Lc 16,8).
Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu” (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?
Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn “người quản gia” với dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó” (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.
Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.
Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng “tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè“, bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.
Câu hỏi: “Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?”.
Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.
1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình
Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.
Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.
Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ… Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: “Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!” (Mt 16, 26).
Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụï người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.
Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: “Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời”. Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự “giàu có”. Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa
Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó“. Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.
3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi“. Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Bài 9. Người đầy tớ tốt!
P. Trần Đình Phan Tiến
Quý độc giả kính mến! Lời Chúa luôn là sự thách thức đối với con người, kể cả những ai bước theo Chúa Kitô. Vâng, bởi vì “Đức Tin” là một hành trình đầy thử thách. Nhưng thử thách càng lớn , thì giá trị càng cao. Tại sao, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì giá trị của “Đức Tin” không mua được bằng tiền, không cân, đong, đo, đếm được. Mà là “Đức Tin” được trao ban cách nhưng không (vô điều kiện). Theo đó, chúng ta hiểu được rằng: Tại sao “Lời Chúa” nghe “trái tai” quá! Không đâu, thưa quý vị, Lời Chúa vô cùng hợp lý, nhưng chúng ta không đủ sức để hiểu ra Lời Chúa, khám phá sự kỳ diệu của Lời Chúa.
Vâng, Lời Chúa là “khuôn vàng, thước ngọc” cho chúng ta, cho những ai biết khám phá gía trí của Lời Chúa. Rõ ràng, sống trên đời, điều gì quý giá hơn “tiền bạc”, nhưng chúng ta có biết đặt giá trị của tiền bạc đúng chổ không? Không phải chúng ta cất tiền bạc vào nơi chắn chắn, cẩn thận nhất là chúng ta biết đặt tiền bạc đúng chổ. Không phải là Chúa Giêsu không biết, hay không chịu biết giá trị của lao động, lao động chân chính làm ra của cải và tiền bạc. Chính Thiên Chúa ban cho con người giá trí của lao động, biết lao động, hăng say lao động, chứ không thụ động. Có lần. Chúa Giêsu nói: “Cha Ta (Chúa Cha) cũng lao động và Ta cũng lao động” (Ga 5, 17). Từ sự giáo huấn của Chúa Giêsu, nên hầu hết các dòng tu đều lao động ( làm việc chân tay hoặc trí óc). Chủ trương cũng như tôn chỉ của Dòng Thiên An là: “Lao động và Cầu nguyện” (Labour and Pray). Vì ai cũng biết lao động làm ra của cải, tiền bạc để duy trì cuộc sống trần thế một cách lành mạnh. Như vậy, làm việc để kiếm tiền là tốt. Tiền bạc kiếm được để làm gì? Để chi dùng cho bản thân, cho gia đình là tốt.
Nhưng cuộc sống của chúng ta không dừng lại nơi trần thế, mà là chúng ta “Tin” có một cuộc sống vĩnh cửu. Vậy, chúng ta làm gì cho cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta ? Vâng, đó là vấn đề mà Lời Chúa (Mt 6,24-34) hôm nay nhắc nhở chúng ta. Vậy, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta 02 chủ đề:
- Thiên Chúa và tiền bạc ( c 24)
- Sự mầu nhiệm và tiên liệu của Thiên Chúa (c 25 -34).
Vâng , Lời Chúa không phải là những bài văn thông thường, không phải là những định luật khô khan, sáo rỗng, hay cứng ngắc. Không phải là những công thức toán học, hay hóa học. Lời Chúa không tranh cãi như những luận điệu triết học rẻ tiền, mà là “Lời Hằng Sống”. Lời “ấy” có sức biến đổi tất cả, vì mang ý nghĩa “mầu nhiệm”. Vâng, Lời Chúa đích thực chính là “yếu tố” nầy. Lời Chúa được mệnh danh là “Lời Hằng Sống”, bởi vì mang tính mầu nhiệm.
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu luôn đưa ra những sự chọn lựa dứt khoát, minh định rõ ràng cho những vấn đề trong cuộc sống. Người không úp mở, nhưng Người nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24 b). Chúa nói rõ ràng: “Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được, vì hoặc sẽ yêu chủ nầy mà ghét chủ nọ…” (c 24a).
Rõ ràng đòi hỏi của Chúa Giêsu thật hợp lý. Nếu chúng ta chọn Thiên Chúa, mặc nhiên, Thiên Chúa là CHỦ của chúng ta, còn chúng ta chọn tiền của, thì mặc nhiên tiền của là CHỦ của chúng ta. Rõ ràng Thiên Chúa là sự sống vĩnh cửu, còn tiền bạc chỉ mang lại sự sống tạm bợ. Chúng ta chỉ được chọn một trong hai, không thể chọn cả hai, điều đó ,Thiên Chúa không cho phép.
Vâng, thưa quý vị thoạt nghe Lời giáo huấn của Chúa Giêsu qua câu Lời Chúa trên, người nghe có vẻ bị phản ứng và do dự khi chưa nhận ra giá trị của Tin Mừng. Chúa Giêsu đòi hỏi dứt khoát, chứ không dụ khị ai. Chúa không sợ chúng ta bỏ Chúa mà đi theo tiền của, nhưng Chúa sẽ ” buồn “, nếu chúng ta chọn tiền của. Bởi vì, như thế chúng ta sẽ không có sự sống đời đời và như vậy, cả hồn và xác chúng ta sẽ trở nên vô ích như Lời Chúa: “… nếu được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn, nào có ích lợi gì, vì lấy gì đổi được linh hồn?” (Mt 16, 26 ; Mc 8, 36 ; Lc 9, 25). Ngày nay dịch là: “…Nếu được cả thế giới mà phải mất chính mạng sống mình, thì nào có lợi ích chi”.
Phần thứ II: Sự Quan Phòng của Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)
Quan Phòng có nghĩa là: Nhìn thấy và tiên liệu. Vâng, chính Chúa Giêsu cho chúng ta biết sự Quan Phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Chủ đề nầy cũng cho chúng ta nhiều thách thức, Thiên Chúa không dựng nên con người như loài chim hay hoa cỏ, nên chi, Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống như loài chim. Nhưng chúng ta hãy xét xem, nếu chúng ta làm lụng vất vả, cực nhọc suốt ngày một cách chăm chỉ, chẳng lẽ chúng ta bị đói sao? Chắn chắn là không. Cũng như chim trời bay lượn cả ngày và kiếm mồi, nhưng có con nào chết vì đói đâu. Nhưng nếu, chúng ta cố công gieo hạt, mà không nảy mầm, không sinh hoa kết trái, thì chúng ta cũng cố công vô ích. Vì hya4 nảy mầm, cây cối sinh hoa kết trái đó là lẽ tự nhiên. Vậy lẽ tự nhiên do đâu mà có ? Há không phải là do bởi Thiên Chúa sao? Qủa thật, ý nghĩa lớn lao là chúng ta cứ lao động, cứ làm việc, còn thành quả là do bởi Thiên Chúa.Ý nghĩa của đoạn Tin Mừng hôm nay là hãy tín thác vào lòng thương xót và hải hà của Thiên Chúa, đó mới là vấn đề.
Khởi đi từ bài đọc I (Is 49, 14-15), chúng ta thấy, Thiên Chúa phán: “Có người mẹ nào quên con thơ của mình…? Cho dù nàng có quên con mình đi nữa, thì Ta cũng không quên ngươi.” Bởi vì, cây cỏ ngoài đồng, tức là cây đồng cỏ nội, là vật nay còn mai mất, không có linh hồn, mà Thiên Chúa còn cho nó mặc đẹp hơn cả vua Salomon, huống chi là chúng ta, được Thiên Chúa nhận làm con, có nghĩa là chúng ta giống Thiên Chúa, thì lẽ nào Thiên Chúa bỏ quên chúng ta.
Bài đọc II (1Cr 4, 1-5) thánh Phaolô triển khai cho chúng ta hiểu rõ sự tín thác vào Thiên Chúa. Dù là những đầy tớ trung thành, thì cũng đừng tự hào là công chính, trước khi Thiên Chúa xét xử. Vậy chúng ta đừng tự hào, cũng đừng bi quan điều gì trước Nhan Thiên Chúa. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối…
Như vậy, chúng ta chỉ có một “Ông CHỦ” duy nhất, đó là Thiên Chúa. Còn tiền của là “đầy tớ” tốt của chúng ta mà thôi.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, qua Lời dạy của Đức kitô, chúng con hiểu được giá trị của ân sũng từ Cha, là Đấng sáng tạo và nuôi dưỡng mọi loài thọ sinh. Xin cho chúng con biết tín thác vào Một Chúa là Cha mà thôi, để kính tin sùng mộ cách chân thực và duy nhất, là “CHỦ” cuộc đời chúng con hiện tại và mai sau. Amen.
Bài 10. Ai đang thống trị tâm hồn tôi?
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Kiên quyết không để lòng tham thống trị tâm hồn và cuộc sống.
Lòng tham lên ngôi thống trị
Ai đang điều khiển bản thân ta? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.
Khi vừa mới nghe qua câu hỏi nầy, nhiều người sẽ vội đáp: Tất nhiên là lương tri tôi, lý trí tôi đang điều khiển tôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là không hẳn như thế.
Có nhiều thứ quyền lực đang thống trị và điều khiển bản thân ta mà chính ta cũng không hay biết.
Nơi người nầy, có thể là những ham muốn nhục dục đang thống trị; nơi người kia, có thể là sự khao khát danh vọng đang nắm quyền chỉ huy…
Nhưng có lẽ quyền lực lớn lao và mạnh mẽ hơn hết đang thống trị nhiều người, đó là lòng tham lam.
Khi lòng tham đã lên ngôi, đã nắm quyền thống trị ai, thì lý trí, lương tri của người đó mất hết quyền chỉ huy bản thân mình.
Một số bác sĩ thừa biết thế nào là “lương y như từ mẫu”, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn các vị nầy đã thôi thúc các vị thực hiện những hành vi man trá tác hại đến sức khoẻ bệnh nhân để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân không tiền đang lúc nguy kịch, khiến họ phải chết cách oan ức.
Không ít thầy cô thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng lòng tham đang thống trị trong lòng một số thầy cô đã chỉ đạo cho các vị nầy bắt học sinh phải học thêm liên tục, để tăng thêm thu nhập cho mình, bất chấp các em phải học ngày học đêm, vừa cạn kiệt túi tiền, vừa khiến cho đầu óc tê liệt, thân xác rã rời!
Không ít vị lãnh đạo (như Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang gọi là cả một bầy sâu) thừa biết rằng tham ô là quốc nạn, là tội ác đối với dân tộc, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn những vị nầy sai khiến họ phải tiếp tục vơ vét không biết điểm dừng.
Nói chung, lòng tham đang thống trị trong tâm hồn con người đã xui khiến, xô đẩy người ta thực hành đủ mọi hình thức tham ô, trấn lột, chiếm đoạt, cướp bóc, giành giựt, xâm lấn, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên biên giới… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.
Điều đáng sợ là trong xã hội ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy vị trí thống trị trong tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực nào – ngoại trừ quyền lực của Tin Mừng, của điều thiện – có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho lòng đạo đức và lương tri được lên ngôi.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nếu chúng ta để cho lòng tham thống trị là chúng ta đã truất phế Chúa ra khỏi tâm hồn và khỏi cuộc đời mình. Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mat-thêu 6,24)
Một khi đã truất phế Thiên Chúa, lật đổ chân thiện mỹ, để cho lòng tham lên ngôi, thì cuộc sống con người sẽ sa đoạ và đau thương.
Chúa Giê-su kêu gọi truất phế lòng tham.
Chúa Giê-su khuyến khích nhân loại đừng vơ vét tài sản vật chất khi Ngài tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3) và đừng tích trữ “kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm cho hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách lấy đi, nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời…” (Mt 6, 19)
Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài răn dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…” (Lc 12, 15); khi Ngài cảnh báo người phú hộ chỉ biết lo tích luỹ của cải đời nầy mà không biết chia sẻ cho tha nhân rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay ta đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi tích trữ sẽ về tay ai?” (Lc 12,20)
Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài kết án những người sống xa hoa như ông nhà giàu chỉ biết vui hưởng của cải dư dật của mình mà không chia sớt cho La-da-rô nghèo khổ (trong Tin Mừng Luca 16, 19-26) thì sẽ phải chịu cực hình đời đời trong hoả ngục.
Và đặc biệt, Chúa Giê-su kêu mời mọi người hãy đánh đổi, đổi một lấy trăm triệu lần hơn, bằng cách chia sớt tài sản đời nầy cho người nghèo khổ để mai sau được vui hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua lời Ngài nói: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những những túi tiền, những kho tàng bất hoại trên trời…” (Lc 12,33)
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con kiên quyết lật đổ lòng tham, không để nó thống trị tâm hồn và cuộc sống chúng con và dứt khoát tôn Chúa lên làm vua thống trị đời mình, biết vâng lời Chúa dạy để tích luỹ kho tàng trên trời bằng cách rộng tay chia sẻ những gì mình có với anh chị em chung quanh. Amen.
Bài 11. LẠC QUAN
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Người ta nói rằng sống trong cuộc đời luôn phải chiến đấu để vươn lên, chiến đấu để tồn tại. Cuộc sống luôn có những khó khăn, luôn có những thử thách đòi hỏi con người phải can đảm vượt qua những khó khăn của dòng đời. Nhất là trong việc tìm kiếm cơm áo gạo tiền luôn là nỗi lo của hàng triệu người. Có kẻ ăn bữa no bữa đói. Có người ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Vì người đông của hiếm. Kinh tế thị trường lại cạnh tranh khiến kẻ mạnh luôn thắng còn người nghèo đói luôn thua thiệt. Những ngày tết vừa qua tại bệnh viện Truyền Máu và Huyết Học Quận 5 vẫn có những người nghèo khổ tấp nập tìm đến đây với hy vọng bán được thứ duy nhất bán được để tồn tại. Đó là Máu hay Tiểu Cầu để có tiền trang trải nợ nần và cho con cái hưởng chút hương vị mùa xuân. Gọi là “chợ” vì có kẻ bán, người mua. Nhưng nơi đây chỉ duy nhất một “người mua” là bệnh viện. Theo báo tuổi trẻ ghi nhận rẵng: “Sài Gòn những ngày tết sạch sẽ và yên tĩnh, mọi người gặp nhau với những lời chúc tốt đẹp. Ngoài kia tiếng chiêng trống của một đám múa lân rộn rã. Thế mà trong này vẫn có những người nghèo khổ phải nhốn nháo xin bán từng giọt sức của mình”.
Thế nhưng, cho dù là giầu có hay có công danh sự nghiệp, dường như ai cũng không bao giờ toại nguyện về cuộc sống mình. Người giầu cũng khóc, kẻ nghèo cũng than. Kẻ có địa vị cũng khổ, người dân thấp hèn càng bất hạnh hơn. Con người thường hay than phân trách phận vì Trời chẳng bao giờ làm cho họ toại nguyện về những gì mình đang có.
Có một chàng thanh niên nọ lúc nào cũng than vãn số mình không tốt, không thể giàu có được. Một ngày kia, một ông lão đi qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của anh bèn hỏi :
- Chàng trai, sao trông cậu buồn thế, có việc gì không vui à?
- Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
- Nghèo ư, cháu là một người giàu đó chứ ?
- Chưa ai nói với cháu như vậy cả, cháu rất nghèo.
- Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, ta trả cháu 3 đồng tiền vàng cháu có đồng ý không?
- Không ạ.
- Giả như ta chặt một bàn tay của cháu, ta trả 30 đồng tiền vàng, cháu có chịu không?
- Không bao giờ.
- Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả cháu 300 đồng tiền vàng, cháu thấy thế nào?
- Cũng không được.
- Vậy ta trả cháu 3000 đồng tiền vàng để cháu trở thành ông lão như ta, già cả, lú lẫn được không?
- Đương nhiên là không.
- Cháu muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu 30,000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của cháu, cháu thấy thế nào?
- Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là một người giàu có.
Trong cuộc sống, rất nhiều người thường than thân trách phận mà không thực sự hiểu ra mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Có kẻ giầu nhưng gia đình lại không hạnh phúc. Có kẻ tuy nghèo nhưng gia đạo lại trên dưới thuận hoà. Có kẻ có tiền nhưng không có sức khoẻ. Có người vất vả ngược xuôi nhưng lại chẳng đau yếu bao giờ. Vì thế, dầu chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng hãy lạc quan với những gì mình có. Hãy vui với phận số an bài. Đứng đứng đó để nguyền rủa đời mình mà hãy nhìn về tương lai với tinh thần lạc quan và hy vọng. Người xưa vẫn thường nói: “không ai giầu ba họ – Không ai khó ba đời”. Cuộc sống luôn tặng ban cho chúng ta biết bao niềm vui và hạnh phúc. Hãy biết tận hưởng những giây phút hiện tại, đừng đứng đó mà nguyền rủa ngày tháng mình sinh, nhưng hãy đứng dậy để vượt qua những khó khăn trước mắt. Hãy tin tưởng vào tương lai đang chờ đón những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai còn ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn nhưng “sau đêm dài là ánh bình minh”. Hiện tại là bóng đêm nhưng bình minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: “chim trời chúng con gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh tươi rực rỡ”. Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta biết an vui với phận số của mình trong niềm tin tưởng phó thác vào Chúa. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và giúp chúng ta vượt qua những khó khăn của dòng đời hôm nay. Amen.
Bài 12. CÓ TIN, CÓ KHÁC
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Vai mang bị bạc kè kè. Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm”. “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. “Có tiền mua tiên cũng được”. “Vạn sự phải có cái đầu tiên là tiền đâu?”. “Hạ tầng kiến trúc quyết định thượng tầng kiến trúc”. “Ai nắm hầu bao thì người ấy có quyền quyết định”. “Có thực mới vực được đạo”. “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”… Rất nhiều kiểu nói văn hoa hay dí dỏm của người xưa hay người đời nay như đã minh chứng sức mạnh to lớn, sức cuốn hút khó cưỡng của vật chất, tiền bạc. Chính Chúa Kitô cũng đã từng đặt đối trọng thần tài với Thiên Chúa khi dạy bảo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
Dĩ nhiên, đã là người trong thân phận xác phàm thì không thể coi thường các điều kiện thể lý và vật chất. Pascal đã từng cảnh tỉnh rằng ai muốn sống như thiên thần thì sẽ có nguy cở trở thành loài vật. Để ban ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa đã chọn con đường vào trần gian, mang lấy thân nhục thể. Đã đón nhận xác đất vật hèn thì Con Thiên Chúa làm người chấp nhận bị điều kiện hoá bởi các quy luật sinh hoá lý mà trong đó vai trò của vật chất, tiền bạc không nhỏ chút nào. Ngay từ lúc khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, chính Người cũng đã bị thần dữ cám dỗ về lãnh vực này (x.Mt 4,1-11).
Vấn đề đặt ra đó là vị trí chủ-tớ trong tương quan giữa con người chúng ta với của cải, tiền bạc. Của cải, tiền bạc vốn là tốt nhưng chúng chỉ tốt khi phục vụ con người, nghĩa là làm tôi con người. Chúng trở thành xấu khi con người đội chúng trên đầu trên cổ, xem chúng như những vị thần toàn năng. Rất nhiều câu ngạn ngữ nói đến ý tưởng này, chẳng hạn như “tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tồi”… Chúng ta có thể nói rằng xưa lẫn nay người ta đều đồng thuận về chân lý này nghĩa là phải biết làm chủ tiền bạc, của cải. Thế nhưng trong thực tế thì dường như ngược lại. Chuyện để cho của cải, tiền bạc lôi kéo mình đến chỗ không hay, điều khiển mình làm những sự chẳng nên là chuyện không hiếm. Một thực tế nữa đó là những người thường lên tiếng khuyên dạy người ta cách thế làm chủ tiền của theo kiểu luân lý hay nói nôm na là dạy đời thì thường là những người đang sung túc, đủ đầy tiền của, không phải gánh chịu cảnh bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngày hai buổi, để kiếm cái ăn, cái mặc cho mình và gia đình. Chính vì thế mà biết bao văn chương chữ nghĩa về đề tài bạc tiền thoặt nghe rất dễ nhận nhưng chẳng làm thay đổi người nghe. Dòng đời xô bồ vẫn cứ chảy. Ma lực của đồng tiền vẫn cứ ngự trị cách này cách khác. Làm sao để đứng vững trước dòng xoáy của các nhu cầu cơm áo gạo tiền cũng như các phương tiện để sinh tồn và phát triển? Chúa Kitô cho chúng ta chiếc chìa khoá căn bản đó là lòng tin.
Đức tin tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa. Đức tin cũng là sự đáp trả của con người trong tự do và hiểu biết. Chúa Kitô mời gọi chúng ta dùng trí khôn để suy xét, cân nhắc và chọn lựa giữa những điều hơn kém. Với trí khôn bình thường, người ta dễ dàng nhận ra phần hơn kém giữa mạng sống và của ăn, giữa thân xác và áo quần. Thế mà vẫn có đó nhiều người vì cơm áo mà đã phải thiệt thân. Lưới đã rách thì cố tìm mấy viên chì cũng chẳng được ích gì. Từ dữ kiện đời thường Chúa Kitô mời gọi chúng ta phân định phần thiệt hơn giữa sự sống đời này với sự sống đời đời, đồng thời mời gọi chúng ta hướng cái nhìn lên Đấng Toàn năng chí ái, Đấng đã cho chúng ta từ hư vô hiện hữu ở đời này.
Cần xác định rằng không một ai trên trần gian này tự quyết định hay phải trả một giá nào cho việc làm người, chào đời của bản thân. Không một ai tự mình làm người nhưng là được dựng nên, được tạo thành. Người có niềm tin nhìn nhận việc làm người của mình do Đấng toàn năng. Cách riêng Kitô hữu tin nhận Đấng Toàn Năng cũng là Người Cha chí ái. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã cho tôi làm người, chào đời. Không bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta. Chẳng có người mẹ nào quên được đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù thỉnh thoảng có một đôi người mẹ trần gian vô tâm với con của mình thì Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta (x.Is 49,14-15). Tác giả Thánh Vịnh luận lý rằng nếu Thiên Chúa ghét bỏ bất cứ loài nào thì Người đã không dựng nên nó.
Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhìn xem hoa cỏ, chim trời để vững tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, chăm sóc mọi loài, nhất là loài người. Có được niềm tin này thì Kitô hữu cho dù vẫn phải gắng công kiếm tìm sinh kế cho bản thân và tha nhân nhưng không quá “lo lắng” theo kiểu người chưa hoặc không nhận biết Thiên Chúa. Vẫn nỗ lực lao tác kiếm tìm của cải vật chất nhưng chúng ta phải biết sử dụng chúng để phục vụ sự sống, để phát triển tình yêu. Đây là nội hàm lời dạy của Chúa Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…” (Mt 6,33).
Chúng ta ra sức kiếm tìm vật chất, tiền của để làm gì? Trả lời rốt ráo câu hỏi trên theo ánh sáng mạc khải thì chúng ta sẽ biết cách kiếm tìm của cải đẹp lòng Thiên Chúa. Thử hỏi rằng đã có nét khác biệt nào giữa Kitô hữu và bà con lương dân hay người khác đạo trong cách thế kiếm tìm vật chất, của tiền cũng như cách thế sử dụng chúng? Thiết nghĩ đây là một cách thế biểu lộ niềm tin mang tính khả tín và cũng là một cách thế rao giảng tin mừng hữu hiệu ngay giữa môi trường sống của Kitô hữu chúng ta. Và sẽ không thừa khi đề cập đến một hiện thực đó là đã có nhiều anh em lương dân hay bà con khác đạo xa lánh, từ chối ánh sáng tin mừng chỉ vì các gương xấu của Kitô hữu trong vấn đề kiếm tìm và sử dụng của cải, tiền bạc.
Dùng niềm tin để biện minh cho lối sống thì ít thuyết phục hơn là dùng chính cuộc sống để minh chứng cho niềm tin.
Bài 13. Yêu thương và tin tưởng vào Cha
Lm. Nguyễn Văn Đông
Tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng ta được bình tâm giúp chúng ta nhìn mọi sự trên đời một cách tương đối. Không ai có thể hoàn toàn thoát khỏi mọi nỗi âu lo vì đó là yếu tố trong cuộc sống xã hội hôm nay. Lời cầu nguyện nhập lễ mời gọi chúng ta cầu xin Chúa ban ơn bình an, và hi vọng. Niềm hi vọng là chính Chúa Giê su không ngừng cầu xin Cha của Ngài chăm sóc chúng ta.
Sách tiên tri Isaia 49,14-15
Thiên Chúa luôn luôn gìn giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Tiên tri so sánh Tình yêu của Thiên Chúa Cha với tình yêu của một người mẹ trần gian không thể nào quên đứa con của mình. Ngài yêu thương chúng ta bằng lòng nhân ái và xót thương, hơn bất cứ người mẹ tốt lành nhất trên trần gian.
Thánh Vịnh 61
Đây là Thánh Vịnh củng cố, trấn an người đang bị xao xuyến và thúc đẩy họ hành động. Không bao giờ Thiên Chúa có thể quên người mà Ngài yêu mến. Luôn hiện diện trong chúng ta nên Ngài là đấng mà chúng ta phải đặt trọn niềm hi vọng.
Thư thứ nhất Cô rin tô 4,1-5
Chúng ta là những người quản lí của Thiên Chúa. Như những người tôi tớ, chúng ta không được làm tôi một Ai khác, vì Ngài là Ông Chủ duy nhất của chúng ta. Vì thế chúng ta không cần phải quan tâm đến những phê phán của bất kì ai ngoài Thiên Chúa. Rồi chúng ta cũng hãy đối xử như vậy đối với tha nhân, hãy để cho Thiên Chúa xét xử mọi người. Duy nhất Ngài là đấng có thể đem ra ánh sáng mọi chỗ ẩn khuát. Nhất là hãy tránh những phán đoán hời hợt vội vã về những người có trách nhiệm mục tử. Trái lại hãy kề vai sát cánh với họ trong sứ mạng nhiều khi rất khó khăn.
TIN MỪNG: Mt 6,19-34
NGỮ CẢNH
Chúng ta đang đọc bài giảng trên núi của Chúa Giê su (cc.5-7). Cả đoạn nầy đưa ra hình ảnh về kho tàng, và giáo huấn về sự giàu có đích thực cần phải tìm kiếm trước hết mọi sự. Nó không có trên trần gian, nơi nó sẽ mục nát, nhưng chỉ có trên trời (96,19-21). Một kho tàng mà chỉ có đôi mắt trong sáng mới có thể nhận ra (6,22-23). Do đó, nó không phải là tiền của (6,24), nhưng là Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa (6,25-34).
TÌM HIỂU
Những kho tàng: là cái có giá trị qua sự đánh giá của con người, là cái mà tâm hồn mật thiết gắn bó (6,21). Chỉ có sự lựa chọn Nước Trời mới có thể cho phép tích trử một kho tàng ở trên trời. Hình ành nầy sẽ trở lại trong một dụ ngôn (13,44). Sự lựa chọn nầy, được bàn đến trong các đọan 7,13-15.24-27, sẽ được Chúa Giê su qui chiếu đến trong đoạn 16,24-26.
Lc cũng dạy rằng để tích trữ kho tàng cần phải bỏ hết những gì mình đang có: “Anh em hãy bán hết những gì mình có và bố thí” (Lc 12,33).
Thánh Phao lô đưa ra cùng một giáo huấn ấy trong thư gửi cho Timôthê: “Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1, Tm 6,18-19).
Con mắt: phải hiểu từ nầy theo ngữ cảnh ở đây là thực hiện một sự lựa chọn. Mắt, cũng như tâm hồn (6,21) trong Kinh Thánh chỉ tòan vẹn con người trong cách hành xử, nhất là trong tương quan với Thiên Chúa. Như tâm hồn, con mắt liên kết và đưa đến một hướng, xấu hoặc tốt. Mắt sáng, hay chính xác hơn, đơn sơ, chỉ sự dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa, tâm hồn không chia sẻ. Cùng ý tưởng nầy được diễn tả trong mối phúc thanh sạch trong tâm hồn: họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa (5,8). Tính từ trong nguyên bản tiếng hi lạp được dịch là “đơn sơ”, “trong sáng”, hoặc từ “sự đơn sơ”, xuất hiện trong Gc 1,5: “Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi”, nghĩa là quảng đại; trong 2 Cr 11,3 nói đến sự “đơn sơ đối với Đức Ki tô” nghĩa là tòan bộ thuộc về Ngài.
Bóng tối: hình ảnh thường thấy trong Kinh Thánh để chỉ sự dốt nát hoặc sự xấu xa. Lời mời gọi phải chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối (Ga 3,19; 8,12; 12,46; Rm 13,12; 2Cr 6,14; Ep 5,8; 1Tx 5,5) cũng còn xuất hiện trong tài liệu phái Essêniên ở Qumran.
Làm tôi: Thánh Giêrônimô ghi chú ở đây rất đúng rằng Chúa Giê su không nói về việc “sở hữu” tiền bạc, nhưng là “phục vụ” nó (x. Lc 6,13): tiền bạc có thể trở thành một thần tượng. Thánh Giêrônimô chú giải: “Người nào làm tôi tớ tiền của sẽ phục vụ nó như một tên đầy tớ; nhưng ai đã bẻ gẩy ách của sự giàu sang, sẽ đem của cải ra phân phát cho mọi người như một ông chủ”. Chủ đề trong đoạn nầy luôn là phải có một sự chọn lựa dứt khoát: giữa ghét bỏ / yêu thương; yêu thích / khinh bỉ; Thiên Chúa / tiền của. Tương quan với mối phúc khó nghèo (5,3).
Lo cho: động từ nầy sẽ xuất hiện trở lại 6 lần trong đọan 6,24-34; một lần được dịch là “nhờ lo lắng” (6,27). Đây là chủ đề trung tâm của đơn vị văn chương mới nầy.
Trong đọan nầy, sự lo lắng được hiểu là lòng gắn bó với của cải vật chất, khiến người ta quan tâm thái quá đến độ “phục vụ” nó như một ông chủ (x. 6,24). Do đó mà sự lo lắng nầy giết chết lòng tín thác vào Thiên Chúa là Cha.
Chim trời: đoạn nầy gán một tầm mức quan trọng to lớn cho con người, hình ảnh của Thiên Chúa, vươn tới Nước trời (“Chim trời…”, “Há anh em không trọng hơn chúng sao?”). Với mục tiêu là chỉ tìm kiếm của cải Nước Trời (6,24), người môn đệ Chúa Giê su được mời gọi tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa là Cha, Người đã biết tất cả những gì chúng ta đang cần. Như thế ở đây long trọng khẳng định tình phụ tử của Thiên Chúa. Tuy nhiên lòng tín thác ấy không lọai trừ, thậm chí bao hàm, việc con người nỗ lực tìm kiếm cơm bánh hằng ngày cho mình và cho người khác. Chắc hẳn, của cải vật chất được Thiên Chúa ban cho, nhưng chúng cũng được làm ra bởi sự cố gắng của con người. “Ai không muốn làm việc, thì đừng ăn” (2 Tx 3,10).
Sự cố gắng cho sự sống hằng ngày là điều kiện cho mọi người và của mọi xã hội. Sự vươn tới Nước trời, như đã được mô tả trong đoạn nầy, là bầu khí trong đó người ki tô hữu được mời gọi phải thực hiện cố gắng đó. Bản văn nầy là nền tảng lên án mọi văn hóa vật chất dần dần phá hủy những dây liên kết xã hội bởi vì nó khiến con người không còn tìm kiếm kho tàng đích thực.
Hoa huệ ngoài đồng: đó là giống hoa huệ nở rộ vào mùa Xuân ở Đất Thánh, hoa đỏ, như chiếc áo khoác của vua (x. 27,28-31).
Những kẻ kém tin: kiểu nói Mt thích dùng (x. 8,26; 14,31;16,8; 17,20). Mời gọi người tín hữu nghiêm chỉnh tự hỏi chính mình về mối tương quan với Thiên Chúa.
Ăn – uống – mặc: một cách diễn tả tòan bộ những nhu cầu vật chất của con người. Lúc nào cũng thế, vấn đề kinh tế dưới nhiều hình thức chiếm dụng thời gian dành cho cuộc sống thiêng liêng
Tìm kiếm: tìm kiếm Thiên Chúa nơi giáo huấn các tiên tri là một chủ đề quan trọng. Ở đây muốn nói rằng trước tiên cần phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và cùng lúc, sự công chính của Người. Đó chủ đề của toàn bài diễn từ được loan báo trong các câu 5,6.10.20 và được lặp lại trong câu 6,1. Cần tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa mà con người chỉ có thể đón nhận như là một ân huệ.
SỨ ĐIỆP
Thiên Chúa và tiền của
“Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa tình yêu và Tiền của được” Cả hai hoàn toàn đối nghịch nhau. Thiên Chúa và tiền của là hai ông thầy mà chúng ta phải lựa chọn: hoặc là Thiên Chúa hay là tôi. Đó là cái “tôi” thích tiện nghi, mãi mê tìm kiếm tiền bạc, lo lắng cho cái ăn cái mặc. Đó là cái “tôi” muốn tự mình làm chủ lấy mình. Đó là cái tôi mà chúng ta có khuynh hướng muốn phục vụ. Ở đây, từ “phục vụ” mang ý nghĩa thờ phượng. Thế mà, Kinh Thánh không ngừng nói với chúng ta rằng đấng duy nhất mà chúng ta phải thờ phượng là Thiên Chúa. Chúng ta không được biến mình thành thần tượng vì tất cả mọi thần tượng đều biến chúng ta thành nô lệ. Tiền của có thể trở thành một thần tượng. Khi người ta bị ám ảnh vì ham muốn luôn luôn chiếm đoạt nhiều hơn, mau chóng người ta sẽ trở thành nô lệ. Không bao lâu chúng ta sẽ không còn thời giờ để nghĩ đến những điều gì khác nữa. Vì thế chúng ta hãy cảnh giác đối với những gì mà chúng ta sở hữu để khỏi trở thành bị chiếm hữu hay bị truất hữu.
Chúng ta đang sống trong thế giới của kim tiền, càng lúc càng bị đồng tiền chế ngự. Lợi nhuận là cái mà người ta quan tâm trước khi nghĩ đến ích lợi của người khác. Không phải Chúa Giê su lên án việc sử dụng tiền của. Nó có thể rất ích lợi để mang lại cho chúng ta những thứ cần thiết. Nhưng nó luôn luôn là một ông chủ xấu xa. Người ta không thể kiếm tiền bằng mọi cách, nhất là dùng bạo lực. Nhiều người tưởng rằng có nhiều tiền, họ sẽ sung sướng hơn. Xã hội chúng ta dễ tạo ảo tưởng đẩy người ta đến khát vọng ấy, nhiều khi đến chỗ cuồng nhiệt. Những vấn đề vật chất có thể sẽ được giải quyết, nhưng tiền bạc không thể bảo đảm tương lai cũng như hạnh phúc đích thực cho chúng ta. Của cải tiêu xài mà chúng ta ki cóp tích lủy cho đầy nhà, luôn làm cho chúng ta không thỏa mãn. Đàng khác, rồi sẽ có một ngày chúng ta phải ra đi, chúng ta phải bỏ lại tất cả. Và Chúa Giê su muốn chúng ta hiểu rằng nó sẽ không còn một ích lợi nào cả.
Chủ nhật nầy, Đức Ki tô muốn nhắc chúng ta nhớ rằng tương lai của chúng ta ở trong tay Thiên Chúa. Ngài là Cha chúng ta, một người cha yêu thương con cái mình và muốn cho họ được hạnh phúc. Ngài gắn bó với họ như là của cải quí giá nhất của Ngài. Ngài quan tâm đến mọi tạo vật Ngài đã dựng nên. Ngài nuôi dưỡng chim trời. Ngài mặc cho những cánh hoa đồng nội những chiếc áo tuyệt đẹp, đẹp hơn những gì mà Sa lô mon đã mặc lúc vinh hoa nhất trong cuộc đời ông. Đối với Ngài, chúng ta còn có giá hơn gấp nhiều lần mọi chim trời và hoa đồng nội. Ngài mời gọi chúng ta hãy rút ra các kết luận: đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa là Cha.
Một cách cụ thể, Chúa Giê su nói với chúng ta hãy ngừng quì gối thờ lại tiền bạc, và coi các ngân phiếu như những ảnh tượng để thờ phượng. Đừng lo lắng thái quá. Cha trên trời biết rõ những gì mà chúng ta cần đến. Đó không phải là lời mời gọi làm biếng hay dửng dưng đối với mọi sự. Chúng ta không phải là chim cũng chẳng phải là hoa. Chúng ta có một khối ốc và những cánh tay để chinh phục và sắp xếp mọi sự để mang lại điều tốt lành cho chúng ta và cho thế giới. Nhưng ưu tiên lớn của chúng ta là ơn gọi trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giê su mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời chúng ta, chỗ của vị Thầy, và không quan tâm đến mình, vì Ngài sẽ lo lắng cho chúng ta chu đáo hơn.
Lời mời gọi ấy của Đức Ki tô chúng ta phải không ngừng lắng nghe và để thấm nhập vào tâm hồn chúng ta. Nguy hiểm chờ đợi chúng ta là đánh mất điều cốt yếu để sa vào những con đường không đưa đến cuộc sống đích thực, những ngõ cụt. Có những điều mới nhìn thì lấp lánh, nhưng rút cục chỉ là ảo tưởng. Điều quan trọng là tìm kiếm trước tiên Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài; nghĩa là làm mọi sự để Thiên Chúa ngự trị trong chúng ta và định hướng đời sống chúng ta. Ngài không ngừng gọi chúng ta hãy điều chỉnh bản thân theo đúng thánh ý Ngài mà không quan tâm đến chính mình. Chúng ta không được do dự phó thác cho Ngài tất cả những gì liên can đến chúng ta.
Lòng tin tưởng vào Thiên Chúa không loại trừ những gian khổ trong cuộc sống, nhất là trong những tháng ngày khó khăn. Nhưng đức tin đến giải thoát chúng ta khỏi mọi âu lo, hoặc ít nhất, nó giúp giảm thiểu để không chúng ta không bị chìm ngập. Khi người tín hữu có kinh nghiệm đó, họ sẽ cảm nhận được bình an trong tâm hồn mà Chúa Giê su đã hứa ban. Con người có giá hơn mọi của cải tiền bạc và giàu sang mà nó chiếm hữu. Điều làm nên giá trị một cuộc sống đó là tình yêu mà chúng ta đặt vào đó. Và chính đó là điều chúng ta sẽ bị xét xử.
Chân trời của người tín hữu là Nước Thiên Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa là đấng duy nhất đáng được phụng thờ và tôn sùng. Thánh Phao lô nói với chúng ta: “Dù anh em ăn, dù anh em uống, hãy làm tất cả vì vinh quang Thiên Chúa”. Lo lắng cho tiện nghi được đầy đủ là điều hợp lí, nhưng điều đó chỉ là phụ thuộc. Điều quan trọng là chúng ta phải nắm lấy cơ hội đó để giải thoát tâm hồn khỏi những âu lo trần tục và hướng đến điều ưu tiên nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa và anh em: “Kho tàng anh em ở đâu, tâm hồn anh em ở đó” (Mt 6,21).
Lạy Chúa, ngày hôm nay, chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con quá lo lắng, nhưng cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin vào Chúa. Xin dạy chúng ta chúng biết giải thoát khỏi mọi ách nô lệ để trở thành người mang tình yêu của Chúa đến cho anh em chúng con. AMEN.
Bài 14. THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG
JM. Lam Thy ĐVD.
Con người ta sống trên đời thì vấn đề cơm áo gạo tiền mãi mãi vẫn là một vấn đề thiết thân. Thiếu nó, sự sống cũng đi tong. Cứ nhìn cảnh (trong Cựu Ước) anh nghèo kiết xác “La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16, 19-31); hoặc ngày nay, đồng bào bị bão lụt nhà cửa tiêu tan, của cải không còn, muốn gầy dựng lại cơ nghiệp cũng phải một thời gian dài, ngay trước mắt chỉ có thể trông chờ vào sự cứu trợ; cũng đủ biết cơm áo gạo tiền cần thiết cho cuộc sống trần thế như thế nào. Như vậy thì Lời dạy của Đức Ki-tô trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VIII/TN-A): “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc” (Mt 6, 25) có gì là nghịch lý không?
Kể ra mới nghe qua cũng thấy có vẻ không được thuận tai cho lắm (không lo cho cái ăn cái mặc thì làm sao sống được trên đời?). Đến ngay như việc sống Đạo cũng phải “có thực mới vực được Đạo” (có ăn thì mới hành Đạo được), huống hồ! Bình tâm đọc cho hết bài TM sẽ thấy Đức Ki-tô chốt lại: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 34). Như vậy, Đức Ki-tô chỉ khuyên đừng lo lắng thái quá (“Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” – Mt 6, 27), bởi Người biết rõ con người khi quá lo lắng về sự gì (về của cải vật chất, chẳng hạn), thường tập trung tinh thần vào đó mà xao lãng những việc làm cần thiết khác (thu tích của cải Nước Trời). Vì thế, Người mới khuyên là hãy “Tin tưởng vào Chúa quan phòng” và lo “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 25-34).
Tuy Đức Giê-su đưa ra hình ảnh những con chim trời hay những bông hoa vẫn được Thiên Chúa nuôi dưỡng, mặc dù chúng không gieo không gặt, không thu tích lương thực, để minh họa cho Lời dạy “đừng lo cho cái ăn cái mặc”; nhưng lai nói ngày mai cứ để ngày mai lo. Vậy thì chẳng khác nào vẫn phải lo (“ngày hôm nay lo cho ngày hôm nay, còn ngày mai để ngày mai lo”) và vì thế nên “ngày mào có cái khổ của ngày ấy”. Điều này cho thấy “tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa” không có nghĩa là cứ nằm “há mệng chờ sung”. Thật thế, chim trời không gieo, không gặt, không thu tích, nhưng liệu không tự làm tổ, không biết kiếm mồi, thì có chỗ trú ngụ, có cái ăn không? Đến ngay như hoa cỏ ngoài đồng chỉ là thực vật vô tri vô giác, nhưng đặt giả thử để chúng ở trên phiến đá khô, bên vệ đường hay trong lùm gai, thì liệu có ra hoa đẹp hơn cả áo của vua Sa-lô-môn được không? Ít ra thì cũng phải được gieo vào miếng đất màu mỡ và phải tự hút lấy chất bổ dưỡng từ đất, chuyển sang thành nhựa, mới có thể sống và ra hoa đẹp được.
Con người cũng vậy thôi, muốn có cái ăn, cái mặc thì phải biết kiếm tìm và làm vịêc (“Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” – ca dao VN). Sự lo lắng cho miếng cơm manh áo là điều tất nhiên. Có lẽ cũng vì thế nên Đức Ki-tô mới chốt lại “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Ngày nào cũng phải lo cái ăn cái mặc, thì khổ sở là cái chắc. Nếu ngày hôm nay lo lằng cho ngày hôm nay mà lại còn ôm cả mối lo cho ngày mai, ngày mốt, thì còn đau khổ nào bằng? Nên chi “ngày mai cứ để ngày mai lo”. Nói cách cụ thể, Đức Ki-tô không muốn vì lo lắng thái quá, con người sẽ dồn hết sức lực vào vịêc kiếm tìm, thu tích của cải trần thế, để rồi coi nó như một chủ nhân ông quyền lực và làm tôi mọi, làm đầy tớ nó lúc nào không biết.
Quả thực mãnh lực của đồng tiền không thể lường được, nó có một sức mạnh vạn năng, có thể đổi nguy thành an, đổi trắng thành đen, hoặc ngược lại. Suy cho cùng, nó chính là chủ nhân ông của cái gọi là thế thái nhân tình. Chẳng thế mà Nguyễn Công Trứ – một con người có nghị lực và đầy khí phách – đã phải thốt lên “Thế thái nhân tình gớm chết thay! Nhạt nồng trong chiếc túi vơi đầy. Hễ không điều lợi khôn thành dại, Đã có đồng tiền dở hoá hay. Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi, Hẳn hoi không hết một bàn tay. Suy ra cho kỹ chi hơn nữa, Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây”. Thế thái nhân tình biểu hiện rõ rệt ngay trong cái túi tiền: Túi đầy thì nồng nàn, túi vơi thì nhạt nhẽo (“Nhạt nồng trong chiếc túi vơi đầy”). Cái túi đầy những tiền bạc ấy khoác ở trên vai thì “vai mang bị bạc kè kè, Nói lếu nói láo chúng nghe rầm rầm” (ca dao VN), nhưng nếu là túi rỗng, túi vơi thì còn khuya!
Cũng vì “Đống tiền liền khúc ruột” như vậy nên nó đã trở nên cứu cánh của cuộc đời. Thật đúng “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân… ” ; “Có tiền mua tiên cũng được” ; “Nén bạc đâm toạc tờ giấy” ; “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” ; “Có tiền có bạc chán vạn kẻ hầu, Có bấc có dầu chán vạn người khêu”. Muốn có được túi đầy thì không dễ gì tự làm ra được, mà phải biết đi vơ vét, bòn rút, thậm chí trộm cướp của người khác (“Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” – Kiều – Nguyễn Du). Câu “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi” nghe ra thì chua chát, nhưng thực tế lại thấy nó lột tả được chân tướng sự việc. Đúng vậy, thế thái nhân tình là thế! Hễ “giàu sơn lâm” tất “lắm kẻ tìm” mà “khó giữa chợ” ắt “ít người hỏi”.
Có một sự ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đã nói lên được bản chất của đồng tiền: Đầu tiên, bạc đi với vàng (vàng bạc) chỉ là 2 thứ kim loại do con người tìm ra và sử dụng như một thước đo giá trị vật chất, rồi đi đến chỗ coi nó như một thứ để trao đổi của cải, hàng hoá, giống như tiền (nên mới gọi “tiền bạc”). Càng về sau, con người càng coi trọng, thì nó lại càng trở nên như một thứ ông chủ để quay lại đối xử bạc bẽo với người cần đến nó. “Tiền bạc” lúc đó trở thành một thứ tiền “bạc quá vôi, mà mỏng quá mây” là vậy. Danh từ “bạc” (kim loại) trở thành tĩnh từ “bạc” (phai lạt, bạc bẽo), thú vị thật! Đáng lẽ tiền của chỉ là một công cụ trao đổi mua bán, là đầy tớ đắc lực của con người, thì nay nó đã trở nên một chủ nhân ông quyền thế áp đảo con người, bôi đen cuộc đời. Thì ra “hoàng kim hắc thế tâm” (vàng bạc bôi đen lòng người) là thế đó.
Cứ kể để minh hoạ cho cảnh coi tiền của là chủ nhân ông ở thời đại ngày nay thì nhan nhản, mà ngay cả ở thời đại cách đây 2000 năm cũng không thiếu. Như người thanh niên giàu có thà rằng từ giã Đức Giê-su – nguời mà anh ta muốn theo để được nhận làm môn đệ – chớ không thể từ bỏ tiền của, đến ngay như cả đám đông người Pha-ri-sêu cũng vậy thôi (“Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. Người bảo họ: “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” – Lc 16, 14-15). Ấy thế là chỉ cắm cúi lo tích trữ của cải vật chất, xây thêm kho lẫm, đúc lại nhà cửa, sắm sửa đồ dùng, kiến tạo tiện nghi, toàn những thứ tối tân nhất, hiện đại nhất! Lòng tham vốn là một “cái túi không đáy” nên càng giàu có lại càng tham lam. Và cũng chính vì thế, nên “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 25).
Tuy nhiên, cũng cần phân biệt 2 loại: một loại làm ra tiền của bằng chính mồ hôi nước mắt bản thân (giàu chính đáng) và một loại làm giàu bằng bất cứ giá nào (giàu bất chính). Dù sao chăng nữa, thì việc làm ra tiền của (thậm chí trở nên giàu có nữa) cũng không phải là một cái tội, nếu việc làm đường đường chính chính, ngay thẳng thật thà. Tổ phụ Ap-ra-ham cũng “rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc.” (St 13, 2). Rồi đến “Ông I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần. ĐỨC CHÚA chúc phúc cho ông và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể.” (St 26, 12-13). Kể cả “Ông Gia-cóp làm giàu… Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa.” (St 30, 1.43). Tuy giàu có như vậy nhưng các ngài vẫn được đẹp lòng Đức Chúa, vì đã làm giàu bằng chính mồ hôi nước mắt của minh và nhất là biết sử dụng tiền của kiếm được một cách công chính. Chỉ khi nào vì muốn làm giàu mà hại đến người khác, trộm cướp, lừa đảo, giết người…, ấy mới là có tội và đáng bị lên án.
Thực ra, Đức Giê-su Ki-tô chỉ muốn cho người nghe hiểu là đừng lưu luyến những gì thuộc về thế gian, mà hãy khao khát những gì thuộc về Nước Thiên Chúa (“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” – Mt 6, 19-20). Nói khác hơn, Người muốn dạy cần phải coi tiền của chỉ là phương tiện để duy trì sự sống của con người ở trần thế, chớ không thể là cứu cánh đem lại hạnh phúc đích thực cho mai sau. Con người khi được Thiên Chúa trao cho quyền làm chủ trần thế (“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” – St 1, 28), thì cũng có nghĩa là phải làm chủ được bản thân, làm chủ được tiền của. Con người cần phải biết coi trọng bản thân – công trình tạo dựng của Thiên Chúa – coi tiền của chỉ là phương tiện để bảo dưỡng thân xác. Tuyệt đối không coi trọng tiền của như một ông chủ để biến mình thành nô lệ. Vâng, “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24).
Nói tóm lại, tự bản chất, của cải cũng chỉ là do con người làm ra để phục vụ cho cuộc sống con người, tiền bạc do con người đặt ra làm phương tiện trao đổi, mua bán cũng là để phục vụ con người. Tiền của không phải là không cần thiết, mà còn phải nói là nó rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng như thế không có nghĩa tiền của là chủ nhân ông trong cuộc sống con người, mà chính con người phải làm chủ nó. Vâng, “Thà ít của cải mà sống công chính hơn nhiều huê lợi mà thiếu công minh” (Cn 16, 8), “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).
Như vậy là đã rõ, chủ nhân đích thực của con người là ai, là tiền của hay là Thiên Chúa? Hỏi tức là trả lời và trả lời được thì tất nhiên phải biết chọn lưa, không thể cùng lúc tôn thờ cả hai, vừa làm tôi tiền của lại vừa làm tôi Thiên Chúa được. Một cách cụ thể thì chỉ cần biết tới nơi tới chốn một điều là: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33). Mà muốn được như thế thì hãy tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng bởi chính Người là khởi nguyên và tận cùng (Alpha và Omega) của vũ trụ. Ước được như vậy. Amen.
Bài 15. Giằng co
Trầm Thiên Thu
Đời người là cuộc chiến đấu không ngừng giữa Thiện và Ác, hai phe luôn GIẰNG CO không ngừng và rất dữ dội: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19).
Cuộc chiến đời người không chỉ giới hạn giữa Thiện và Ác, mà rất đa dạng và nhiều mức độ. Khi nói về việc ở độc thân để lo việc Chúa, Thánh Phaolô nói: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Đặc biệt là giằng co còn có dạng xem chừng “thanh thản” lắm, như Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:23-24).
Giằng co rất gay cấn, nhất là khi hai bên ngang ngửa, khó chọn lựa. Về sự chọn lựa, có triết lý này: Khi phải chọn lựa mà chúng ta không chọn lựa, đó cũng là chọn lựa – tức là chúng ta chọn cách “không chọn lựa”. Vì thế, chúng ta rất cần có sự sáng suốt và thái độ dứt khoát, không thể lờ lững nước đôi, càng mạnh mẽ càng dễ dứt khoát. Và Thiên Chúa cũng muốn chúng ta phải dứt khoát: “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16).
Sion từng nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!” (Is 49:14). Chúng ta cũng thường xuyên có động thái như vậy. Cũng có thể vì chúng ta yếu đuối, cũng có thể vì chúng ta cứng lòng và cố chấp. Thế nhưng chúng ta đã ngộ nhận, hoàn toàn lầm tưởng, vì Thiên Chúa hứa chắc chắn: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Ngài đã hứa thì Ngài luôn giữ đúng lời, trước sau như một.
Con người luôn bị giằng co, nghĩa là luôn bất an, dù đôi khi nhìn có vẻ… rất thanh thản. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng” (Tv 62:2-3). Bí quyết đơn giản là “bám vào Chúa”. Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì khó lắm. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực và quyết tâm giằng co với chính mình để có thể giảm bớt mức độ giằng co. Muốn vậy, chúng ta chỉ có cách duy nhất là cậy nhờ Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh đã dày kinh nghiệm: “Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang, Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân. Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi, trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can: Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu” (Tv 62:6-9). Chắc hẳn là vậy, vì có lẽ mỗi chúng ta cũng đã và đang có chút kinh nghiệm nào đó về phương diện này.
Là người đã từng bị giằng co dữ dội và vượt qua chính mình, Thánh Phaolô bộc bạch: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1 Cr 4:1-4). Như vậy là Thánh Phaolô đã thực sự thanh thản, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Được như vậy thì hẳn phải chiến đấu nhiều lắm!
Chắc chắn không ai lại không muốn được Thiên Chúa cứu độ, được hưởng phúc trường sinh, được làm công dân nơi Thiên Quốc, thế nhưng người ta lại thường “ngại” sống “khác người”, cứ so đo thế này hay thế nọ. Đó chính là sự giằng co trong mỗi chúng ta hằng ngày, thậm chí là từng phút, từng giây. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng” (1 Cr 4:5).
Cuộc đời nhiêu khê, đủ dạng giằng co – nhất là về lĩnh vực vật chất, tiền bạc, danh vọng, địa vị, chức tước,… Người ta thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Thế nhưng có người luôn sống tốt lành, ngoan hiền, đại lượng, nhân hậu,… mà vẫn gặp nghịch cảnh. Người ta cũng thường nhắc tới “luật nhân – quả”. Thế nhưng vẫn có những người sống ngang ngược, ích kỷ, ác độc, không coi ai ra gì, vậy mà họ vẫn phây phây, sống ung dung tự tại, sung sướng, không hề biết khổ là gì. Lạy Chúa tôi!
Quả thật, trí óc con người như bã đậu, không thể nào hiểu nổi. Cuộc đời là bí số như một hằng số, một số vô tỷ hoặc phương trình vô nghiệm!
Vì nghèo mà bị khinh, chịu thua thiệt, thế nên người ta phải nỗ lực làm giàu, nhưng đâu phải ai cũng “xuôi chèo mát mái”, có người trở thành hèn hạ và độc ác chỉ vì tiền bạc. Thật là rắc rối và tội lỗi quá!
Chuyện kể rằng…
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp, chẳng dám tiêu xài. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được một gia tài kếch xù. Một ngày nọ, Tử Thần đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới chợt nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia.
Anh ta năn nỉ: “Tôi chia 1/3 tài sản của tôi cho ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi”. Tử Thần lắc đầu: “Không được”. Anh ta van nài: “Vậy tôi đưa ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không?”. Tử Thần vẫn không đồng ý: “Không được”. Anh ta vội nói: “Vậy… tôi xin giao hết của cải cho ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?”. Tử Thần vừa nói vừa giơ cao lưỡi hái trên tay: “Không được”. Anh ta tuyệt vọng cầu xin lần cuối: “Thế thì ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy”. Lần này Tử Thần đồng ý. Anh run rẩy viết: “Xin hãy nhớ: Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Chắc hẳn người này đã từng bị giằng co rất nhiều trong suốt cuộc sống, thế mà đến lúc sắp chết vẫn chưa hết bị giằng co. Cuộc đời là thế! Tuy nhiên, thứ giá trị nhất trong cuộc sống là thời gian. Khi chúng ta chưa làm được gì có ích cho đời thì cũng đừng làm điều gì vô vị. Có một danh nhân đã nói: “Dù chưa làm được điều mình muốn thì ít ra cũng phải biết muốn điều mình làm”. Quả là một triết-lý-sống độc đáo lắm! Dù không có ý xấu, nhưng ông Alfred Nobel (1) và Mikhail Kalashnikov (2) vẫn bị giằng co. Ông Alfred Nobel cảm thấy hối hận vì đã “lỡ” phát minh chất nổ, còn ông Mikhail Kalashnikov cũng bị dằn vặt vì đã “lỡ” phát minh súng AK-47.
Chúa Giêsu biết nhân loại luôn bị giằng co, thế nên Ngài muốn chúng ta phải dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24).
Ngài khuyên răn và đưa ra ví dụ cụ thể: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:25-29).
Vâng, rất rạch ròi, rất chi tiết. Thế nhưng con người lại không dễ đạt được mức tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, dù thâm tâm vẫn tự nhủ phải ghi nhớ lời Đại Sư Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Kiếp người chán thật! Thế nhưng đừng vì thế mà tuyệt vọng, dù có những lúc chúng ta hoang mang và thất vọng (x. 2 Cr 4:8). Chúa Giêsu biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta tự biết mình, chắc chắn Ngài cảm thông lắm. Đừng lo, đừng sợ! Ngài sẽ ra tay tế độ nếu chúng ta thật lòng muốn “sờ vào tua áo” của Ngài (x. Mt 9:20; Mt 14:36; Lc 8:44).
Chúa Giêsu vừa lý luận vừa quở trách chúng ta: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6:30-32). Ôi chao, thật là xấu hổ quá đi thôi!
Chúa Giêsu rất nghiêm túc và thẳng thắn: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:33-34). Hiểu và chấp nhận như vậy thì chúng ta sẽ bớt bị giằng co!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vui vẻ chấp nhận những đau khổ hằng ngày, chấp nhận chính sự giằng co để chúng con khả dĩ “xé lòng” mà biến đổi không ngừng theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(1) Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại Stockholm, Thụy Điển, mất ngày 10-12-1896. Ông phát minh chất nổ rất có lợi cho nhân loại, nhưng người ta lại dùng nó để giết hại con người. Tài sản của ông để lại được dùng làm Giải Nobel để tặng thưởng những người có công lớn đối với nhân loại về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực hòa bình.
(2) Mikhail Timofeyevich Kalashnikov (Nga) đã thực sự hối tiếc vì phát minh súng AK-47, loại súng trường nổi tiếng nhất thế giới, ông lo lắng cuộc sống bị huỷ diệt vì vũ khí của mình, và điều đó đã luôn ám ảnh ông. Ông sinh ngày 10-11-1919 trong một gia đình nông dân ở Nga. Gia đình ông không được chính quyền Soviet chấp thuận nên đã bị trục xuất về Siberia, nơi ông phải đi săn với cây súng trường để nuôi sống gia đình. Ngày 23-12-2013, ông chết trong sự cô đơn, không một người thân, nhưng vũ khí AK-47 vẫn đang gây ra biết bao cái chết!
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Khi chúng ta được giầu có, sung sướng thì chúng ta dễ dàng tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Nhưng khi chúng ta phải thiếu thốn và khổ cực về vật chất hay về tinh thần thì việc chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng khó khăn hơn nhiều. Thậm chí chúng ta còn cho rằng dù có Thiên Chúa thì Vị Thiên Chúa ấy cũng chẳng nhớ đến chúng ta và chẳng quan tâm đến cuộc sống của chúng ta. Nhưng kinh nghiệm của Ngôn Sứ I-sai-a lại hoàn toàn khác: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.”
Phúc thay những ai cảm nghiệm được sự hiện diện và chăm lo của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 49, 14-15): Ta chẳng quên ngươi bao giờ
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1 Cr 4,1-5): Chúa sẽ phơi bày những ý định trong thâm tâm con người
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 6,24-34): Anh em đừng lo lắng về ngày mai
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa
- là Đấng yêu thương và chăm lo cho con cái của Người là hết thẩy chúng ta: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).
- là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để dậy dỗ các môn đệ không được làm tôi (nô lệ) của cải tiền bạc và phải tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng yêu thương và quyền năng.
- là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sức mạnh thần linh cho các Ki-tô hữu để họ vượt qua những lo âu thường tình về cuộc sống và tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng quyền năng và yêu thương.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp hay Giáo huấn của Lời Chúa hôm nay là “Ta chẳng quên ngươi bao giờ” tức là Thiên Chúa quan phòng hằng chăm lo cho chúng ta nên chúng ta phải tin tưởng phó thác cho Người (tức chỉ làm tôi Thiên Chúa) mà không làm tôi Tiền Của.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha, Đấng đã dậy: Ta chẳng bao giờ quên ngươi, dù người mẹ có quên con cái nó.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã dậy chúng ta không được làm tôi (nô lệ) tiền của mà phải tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng va làm tôi một mình Thiên Chúa mà thôi.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng và ban sức mạnh cho các Ki-tô hữu, để giúp chúng ta đón nhận và thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là không làm tôi tiền của mà tin cậy phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng yêu thương vả quyền năng.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới, nhất là cho dân tộc đang bị đói khát, bệnh tật, kém phát triển hay chiến tranh hành hạ, để họ biết chạy đền với Thiên Chúa Quan Phòng yêu thương và quyền năng.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn trung thành với Thiên Chúa và với sứ mạng Thiên Chúa đã giao cho.
5.3 “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu thuộc giáo xứ chúng ta, để mọi người dành ưu tiên cho việc tìm kiếm các giá trị trường cửu là sự công chính thánh thiện, trong đời sống cá nhân và cộng đoàn.
5.4 “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đang phải đau khổ phần hồn hoặc phần xác để họ có được ơn trên trợ giúp mà vượt qua cái khổ của mỗi ngày.
Đời sống chúng ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể bình thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
1) Hơn một người mẹ thương con
Chắc chắn những lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài trích đọc hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại Yêrusalem.
Sứ mạng không dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: “Yavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã quên tôi”. Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của ngoại bang; Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng “quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người”, tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.
Đó chính là trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người, ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy. Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
“Mẹ nào lại quên con đẻ của mình…?”.
Isaia cho chúng ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm, lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn, xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho yêu thương… nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải hóa… Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể nào tưởng tượng được.
Isaia cũng nói đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù “chúng quên được con mình, thì phần Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi”.
Thiết tưởng không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia có thể kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về Cha trên trời.
2) Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy
Thật vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến để tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.
Nhưng rất ít kẻ đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ; người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng chúng ta muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy nhiên chính vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn về áo mặc chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời Chúa dạy rất đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc “đừng” lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm, chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta “chớ lo đến ngày mai, mai sẽ lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy”. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Điều Người muốn nói với chúng ta là “hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi”. Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy. Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những con người như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ “lo”, bởi vì niềm tin luôn giữ họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.
Nhưng con người không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.
3) Đấng xét xử tôi chính là Chúa
Chúng ta ít có khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác. Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người không chủ quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công. Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là không.
Tuy nhiên không vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?
Giờ đây chúng ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là các người quản lý tốt ở trong một xã hội.
Lạy Cha, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó thác cuộc đời chúng con trong tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy. Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào trong tình yêu của Cha. Amen.
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”.
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Cơm ăn, áo mặc là nhu yếu cần thiết cho cuộc sống con người. Vì là nhu yếu không thể thiếu nên nó chi phối cuộc sống đến độ trở thành mối lo, phiền toái chính cho mọi lứa tuổi. Giầu hay nghèo, Đông hay Tây, nơi nào cũng có mối lo riêng liên quan tới vấn đề cơm ăn, áo mặc.
Dân chúng nơi các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ rất thấm Lời Chúa nói: Ngày nào có cái lo của ngày ấy.
Quả thực, gạo chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày. Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến; trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê chân bước về nhà, túi trống, bụng không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn nhau thông cảm. Lại một tối uống nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi ngủ chung giường. Có đêm nó xuất hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi khi may mắn chiêm bao được hưởng bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là hạnh phúc hơn người. Tết đến mong có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.
Nơi các quốc gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp. Quảng cáo tới tấp dậy người ta đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng nên cần phải có tiếng. Chúng đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã hội đang sống. Chúng mặc cho lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao hơn kẻ thất học, thượng lưu thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta lao đầu chạy theo quảng cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương trước người khác. Như thế đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp hơn người mới đáng hàng thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như thế mới là có vai vế trong xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang, theo mùa, vừa trình làng. Như thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ ăn, đủ mặc là một nhu cầu. Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí phạm. Phí phạm đáng chê, trách.
Xa xỉ
Gọi là xa xỉ vì đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước muốn có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ. Đây không phải là so sánh, không chạy theo thiên hạ, không đua đòi mà giải thích là cho có với người ta. Không hơn người ít ra cũng phải bằng người. Để thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén sinh ra từ đó. Rõ khổ.
Nhiều trường hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng, sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình, sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm không khao khát tràng pháo tay bề ngoài. Một người có nguồn vui nội tâm không cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du, chóng qua, mau tàn.
Thực tế cuộc sống
Thực tế cuộc sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả bất chính. Chi tiêu chính đáng như tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền mua thực phẩm còn nhiều thứ khác phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì tiền học phí, tiền xăng xe, tiền thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm, quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt lội.
Chi tiêu thừa là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính làm cho đời thêm ưu phiền. Thực tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất nhiều chừng nào cuộc sống càng nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu lo. Ít khao khát, dính bén vinh quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều này không có nghĩa là phí phạm tài năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ, mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế, hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa, ân sủng Chúa ban.
Nguồn sống thật không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh thơi muôn đời.
Nghe qua bài Tin mừng này với những từ ngữ Chúa dùng như: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”, hoặc “Anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn… lấy gì mà mặc”, có lẽ chúng ta những doanh nhân đang theo đuổi mục đích làm ra của cải, cảm thấy lúng túng. Tin mừng muốn nói gì đây. Vì thế ta phải tìm hiểu cẩn thận để hiểu Lời Chúa hôm nay thực sự là một Tin mừng, là sự bằng an cho cuộc sống.
Trước hết bài Tin mừng này có liên quan đến bài diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu, cũng gọi là bài giảng về hiến chương nước Thiên Chúa, cho thấy đâu là hạnh phúc thật cho nhân loại, hay còn gọi là tám mối phúc thật với ba nội dung chính:
- Thiên Chúa Toàn Năng, đầy tình yêu thương nhân loại, chính Ngài là hạnh phúc thật của chúng ta, ngoài Người ra con người không tìm đâu được hạnh phúc, cho nên phải đặt hết tin tưởng, gắn bó yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
- Hai là con người là anh em với nhau, vì cùng mang dấu ấn Thiên Chúa nới mình. Cần theo đuổi cuộc sống đầy tình người, sống tinh thần hòa bình, khoan dung tha thứ, chân thành trong sáng và đặc biệt phải biết thương yêu những người yếu kém trông cộng đoàn.
- Ba là trước mọi gian nan thử thách, kể cả sự bắt bớ ngược đãi vì Tin mừng, hãy coi đây là cơ hội để làm chứng lòng trung tín và hy vọng nơi Thiên Chúa của mình.
Sau bài diễn từ quan trọng đó thì Chúa đem ra nhiều trường hợp cụ thể để thực hành cho đạt tới Hạnh phúc thật đó. Và coi chừng những trở ngại có thể làm ta sai lạc mục tiêu hạnh phúc thật. Một trong các trở ngại đó là vấn đề của cải, của cải có thể trở thành tà thần đầy nguy hiểm.
Trước vấn đề của cải, Chúa cẩn thận dạy các tông đồ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi của cải được” hoặc “anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn…lấy gì mà mặc” thế là gì? Nhu cầu sự sống như cơm áo, phương tiện giao dịch của thời văn minh như tiền bạc, trương mục ngân hàng ta phải lo cho có để dùng mới được. Thực ra ở đây Chúa không kết án tiền bạc mà Chúa đề cập đến cách làm ra và sử dụng tiền bạc. Chúa nói “đừng lo lắng”, không có nghĩa là đề cao những người biếng nhác, những người vô trách nhiệm, siêng ăn nhác làm, không quan tâm đến gia đình con cái. Chúa cũng không phê phán những người lập ra những kế hoạch, lên chương trình trong công việc làm ăn. Kinh tế thị trường kinh tế tự do, không biết lo là thất bại. “Đừng lo lắng” ý Chúa muốn nói, phải kết hợp sao cho hài hòa giữa công việc làm ăn, với niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu, Ngài đang tham dự vào đời sống chúng ta. Trong đời sống đó có phần cố gắng của chúng ta, mà có cả quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Cái thất bại của con người tại vườn địa đàng là họ đã bỏ Thiên Chúa tin vào satan và kế hoạch riêng tư đầy kiêu căng của mình.
Sự tham dự của Thiên Chúa vào đời ta là kế hoạch kỳ diệu ta không tưởng tượng được. Tại tiệc cưới Cana, trông khi người ta cần mười lít rượu là cùng, nhờ lời Đức mẹ, Chúa tham dự giải quyết cuộc khủng hoảng với 600 lít rượu tặng đôi tân hôn. Tại bãi biển hoang vu, các tông đồ chỉ kiếm được năm chiếc bánh và mấy con cá, Chúa biến thành cả núi cá và bánh cho 4.000 người ăn no mà còn dư. Cho nên trong việc làm ăn, hãy biết trông cậy vào Chúa để Ngài yêu thương giúp đỡ. Bông hoa sớm nở chiều tàn, hay con chim bé nhỏ Chúa còn thương phương chi con người là con của Chúa.
Khi nói người ta không thể làm tôi hai chủ: vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ý Chúa muốn giải thoát, muốn tránh cho ta thói tham lam, lấy thế lực vạn năng mạnh mẽ của tiền của để bảo đảm tương lai, người ta coi tiền tài như thần thánh và tìm kiếm bằng bất cứ giá nào. Người ta quên thời gian hiện tại và hạt giống của tương lai, chỉ đi tìm của cải mà đánh mất tương lai đời đời thì đó là người ngu dại. Để làm sáng tỏ vấn đề Chúa lấy chuyện người phú hộ làm thí dụ, ông làm kinh tế giỏi, ông lập kế hoạch lớn, làm nhiều kho lẫm, và cho thế là an toàn, thủ hưởng lâu dài suốt đời. Nhưng Chúa bảo hắn: “Đồ ngu, nội đêm nay người ta cất linh hồn ngươi về thì những của cải đó ngươi để cho ai?”
Nhớ lại câu chuyện ông Giakêu, suốt một quá khứ dài ông mãi mê tìm tiền của, làm giàu bất chính. Vậy mà hạnh phúc chưa thấy vì lòng vẫn còn đói tiền của, trong khi những tiếng phê phán chê bai chỉ làm cho ông chán ngấy cuộc đời. Vậy mà sau một đêm, Lời Chúa soi sáng cho ông thấy rõ chân lý giá trị của hiện tại, ông đã có một quyết định thật lớn lao: “Ông sẵn sàng lấy một nữa gia tài cho người nghèo, đền lại gấp bốn sự thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.”, lúc đó Chúa nói ngay với ông: “Hôm nay ơn cứu độ đến với nhà này” (Lc19,9). Hai tiếng “hôm nay” ở đây rất quan trọng vì nó cho ta thấy Chúa hiện diện ngay lúc chúng ta làm việc bác ái để ghi công đời đời cho chúng ta. Cuộc sống này là thời kỳ gieo tỉa, mùa gặt sẽ đến mai sau. Nhưng kết quả việc bác ái là của cải cho đi đã trở thành hồng phúc vinh quang Chúa cất sẵn trên trời cho chúng ta.
Dụ ngôn Cuộc phán xét chung cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ở đây không thấy nói đến đạo nào, chức vị nào mà chỉ nói đến Tình Yêu. Lúc đó Chúa cho người ta thấy việc bác ái thực hành là tiêu chuẩn duy nhất làm cho chúng ta được thưởng công đời đời, vì mỗi lần giúp đỡ người nghèo là giúp cho chính Chúa. Chúa nói với họ: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo Thiên lập địa.Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han”. Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi Chúa: Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Đó là những người được tuyển chọn. Còn những người bị loại, bị xua đuổi vào lửa đời đời dành cho ác quỉ, thì lý do cũng là không biết thương những người đói khát, bơ vơ v.v… Anh em thấy rõ Thiên đàng chúng ta ở đâu? Đó chính là “Tình Yêu”, là trân trọng và yêu thương con người vì có Chúa ở nơi họ. Như vậy các việc lành khác thì sao? Có cần không? Tất cả đều hướng về Tình yêu là điều răn trọng nhất.
Nói tóm lại, hiện tại ta hướng về Tình yêu thì Thiên Chúa Tình yêu sẽ đón nhận ta. Ta chỉ biết hướng về mình để dùng của cải phục vụ cho mình và gia đình thì chúng ta mất sự sống đời đời. Chúng ta chọn đường nào? Bài Tin mừng kết luận: “Trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…”. Nước Thiên Chúa là Tình Yêu. Sự công chính của Ngài cũng là Tình Yêu, vì Ngài là Tình Yêu.
Cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông điệp Tình Yêu và chân lý, Ngài đã khẳng định rằng: “Mọi sự bắt nguồn từ Tình Yêu, mọi sự được định hướng trong Tình Yêu và mọi sự sẽ kết thúc trong Tình Yêu”.
Người doanh nhân có công làm cho tiền của luân chuyển để cho dân giàu nước mạnh thật là quý trông thời kỳ kinh tế thị trường này. Nhưng khi thành công ta phải biết chia sẻ cho người nghèo thì mới đúng nghĩa doanh nhân công giáo. Vì chỉ chờ cho đến lúc giàu có nhiều của mới chia sẻ thì đã bỏ mất cái ngày Hôm Nay. Chúa còn nói thêm: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái khổ của ngày mai.
A. DẪN NHẬP
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải có sự lựa chọn cho đời sống của mình về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa chọn:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”(Mt 4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa, hai là Tiền của. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về sự lựa chọn đó.
Chúng ta là những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa vì chúng ta là con của Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Chúa khuyên chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý: Chúa khuyên chúng ta đừng “lo lắng” nhưng phải biêt “lo liệu”. Lo lắng là dấu chỉ chưa đủ tin tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự trong hiện tại cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác cho Chúa.
Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 49,14-15
Dân Israel bị lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè nén của ngoại bang, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị giảm sút.
Nhưng tiên tri Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động và cụ thể: có người mẹ nào mà bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên đâu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 4,1-5
Tín hữu Corintô có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác, đó là xét đoán.
Thực ra, không ai biết được con tim khối óc của người khác, chỉ là phỏng đoán, duy một mình Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi người hãy dành quyến xét xử cho Thiên Chúa “Đấng thấu suốt lòng mọi người”.
+ Bài Tin mừng: Mt 6, 24-34
Hôm nay Đức Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải biết lựa chọn. Chỉ có hai con đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay phụng sự Tiền của.
Phụng sự Thiên Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương Nước Trời và tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Ngài.
Nếu phụng sự Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành rằng chúng ta phải làm việc để giải quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc… nhưng chúng ta phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Bắt cá hai tay
Người Việt nam chúng ta thường dùng câu tục ngữ “Bắt cá hai tay” để chỉ những người tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ này như thế nào? Nhân dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con, và kết quả là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà ca dao Việt nam đã từng khuyên nhủ mọi người:
Thôi đừng bắt cá hai tay
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.
Câu tục ngữ này có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24).
I. PHẢI BIẾT CHỌN LỰA
1. Lựa chọn là điều cần thiết
Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn. Chính những lựa chọn này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở thành người tốt hay người xấu, được hạnh phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng là một giằng co, nuối tiếc.
Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền của.
2. Phải chọn lựa thế nào?
a) Thời xa xưa, trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal. Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa chon:”Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó” (1V 18,21)
b) Thời nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ tiền của như sau:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24)
* Ý nghĩa chữ “Tiền của”
Tiền của ở đây được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON, có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta lựa chọn, thì quyền lực của nó phải là vô song.
* Ý nghĩa chữ “tôi” và “chủ”.
Đối với người xưa “không ai được làm tôi hai chủ” có ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Từ ngữ là “tôi” trong nguyên ngữ Hy lạp là “nô lệ”, làm nô lệ cho; còn từ “chủ” để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này sẽ rõ hơn nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.
Để hiểu ý nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ thời xưa. Nô lệ, trong quan điểm luật pháp, không phải là một con người mà là một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào cũng được. Đối với luật pháp, nô lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán, đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời xưa không có chút thời giờ nào là của riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ đều thuộc về chủ…
Đây chính là mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?
3. Nguy hại của thần Mammon.
Thần Mammon hay thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng. Người Vệt nam chúng ta có câu:
Có tiền mua tiên cũng được
Hoặc:
Mạnh về gạo, bạo về tiền
Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời.
Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong:
Có thực mới vực được đạo.
Nguyên ngữ Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên nghĩa của nó không phải là một chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn dạy:”Hãy quí trọng mammon của người khác như của chính ngươi”, nghĩa là mọi người phải coi tài sản vật chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.
Tiền của là như vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Ngài không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi. Hay nói cách khác, Thánh Kinh đã nói:”Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tim 6,10).
Và chúng ta phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau. Tự bản chất của tiền là tốt, nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta.
Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô nghèo khó.
Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy vào Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.
Vì thế, Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Ngài cảnh báo như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
Truyện: Nô lệ hay tự do
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ:”Xem chừng anh mơ ước giầu có lắm. Vậy từ giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả nhữngg ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.
Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỷ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.
Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.
Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.
Sự nô lệ cho tiền của là một bệnh “ung thư” thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây phương đang tự phá hủy chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Satan” như cách gọi của tác giả người Ý, Papini.
II. TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG
1. “Đừng lo lắng về của ăn áo mặc”
Tiếp theo việc phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của, Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và hoa đồng nội, chúng sống thế nào!
Chúng ta cần phân biệt giữa “lo lắng” và “lo liệu”. Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.
Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.
2. Hãy tin vào Chúa quan phòng
Quan phòng là hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không bao giờ được quên là ta tùy thuộc vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài trong tay.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là ngay cả khi họ bị lưu đầy bên Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên tri Isaia bảo ta là phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những ngày đen tối, bởi vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình ảnh người mẹ với đứa con, không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người mẹ có quên con đi chằng nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con Ngài.
Tin mừng cũng nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội bên tai ta như là lời an ủi vỗ về:”Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc… Cha trên trời biết rõ chúng con cần những sự đó” (Mt 6,31-32).
Truyện: Người mẹ không quên con
Một phụ nữ nghèo nàn ở trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm tan nát đời bà.
Anh ta không chịu làm việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh lấy trộm hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu xin anh thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ anh tan nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.
Có lúc anh ta phải vào tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta không bỏ tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh ta trong một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà đang trên đường đến nhà tù.
“Đứa con trai này làm đời bà tan nát” vị linh mục nói. “Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Tại sao bà không quên nó đi”?
“Làm sao tôi có thể quên nó được”? bà đáp lại. “Tôi không thích việc nó làm nhưng nó vẫn là con tôi”.
Bạn có thể nói rằng người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa một bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh nào. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của bà mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa (McCarthy).
3. Quan phòng và hành động
Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng:”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.
Nếu Đức Giêsu nói: “Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền:”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.
Thật ra, Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.
Vả lại, Ở Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã trải qua kinh nghiệm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc sống.
Nhà nho cũng hiểu điều đó khi nói:”Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh của trời để làm theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa quan phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.
Nhà nho chân chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng:”Chí những toan xẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao:”Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”. Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.
III. TÌM CÁI ƯU TIÊN CHO CUỘC SỐNG
Trong tất cả các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh vật trên mặt đất, mối quan tâm trước tiên của Chúa là con người, vì con người là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa.
Nhưng chúng ta phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ sống của ta không phải là Chúa nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những hoàn cảnh hay trạng huống của cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta sống thế nào để có thể cảm nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc này qua lúc khác, từ ngày nọ qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm Lời Chúa:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ ban cho”(Mt 6,33).
Truyện: Nguyên tắc sinh tồn
Một giáo sư thực vật học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một học sinh đứng lên hỏi:
- Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời:
- Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
Hạt giống là một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể với sự tài giỏi của khoa học, tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, song không thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ duy nhất ở trong tay Thiên Chúa thôi.
Nếu Chúa đã nói:”Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”(Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay, phải chu toàn nó; tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an bình thư thái.
Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34)
Suy niệm:
Phân tích
Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:
1. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.
2. Một ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho nhà thờ một nửa” mục sư té xỉu.
3. Sở dĩ con người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.
4. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).
Cuộc sống hiện tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán nản.
Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân con.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chọn Chúa là gia nghiệp đời con. Vì chỉ nơi Chúa mà chúng con mới có sự sống đời đời. Xin Mình Thánh Chúa nâng đỡ những yếu đuối, nhẹ dạ nơi bản tính loài người chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cạm bẫy của thế gian để hồn xác chúng con mãi mãi thuộc trọn về Chúa.
Nhưng Chúa ơi! Ở đời người ta cần công danh. Ở đời người ta chuộng sự giàu có. Chúng con cũng nhiều lần chạy theo những danh lợi thú trần gian. Chúng con đã để tâm tìm kiếm của phù hoa mà quên đi hạnh phúc thiên đàng. Chúng con tin Chúa nhưng lại chưa thờ Chúa trên hết mọi sự. Chúng con chưa thực sự phó thác đời mình cho Chúa. Chúng con còn lắm bon chen để tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng con thích tích góp của cải hơn là tích đức đời sau. Chúng con lao tâm khổ trí vì của ăn mau hư nát hơn là giá trị vĩnh cửu Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa hơn mọi sự trần gian. Xin loại trừ nơi chúng con những quyến luyến của đam mê tội lỗi, lầm lạc. Xin cho chúng con luôn được trung thành phụng sự Chúa hết cuộc đời. Amen.
Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:
Tiền có thể:
- Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng
- Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.
- Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.
- Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.
- Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.
- Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.
- Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.
- Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.
- Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.
- Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.
- Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa
- Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)
Đồng tiền là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè…
Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.
Chúa Giêsu không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)
Tâm sự của con chim Sẻ:
Bạn thân mến!
Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi…
Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư…
Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy…
Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che …
Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối…
Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?… (Mt.6:26)
Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!
“Hãy tìm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”
Trong hai Chúa Nhật trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những người thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương quan đối với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.
1. “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24)
Trước hết, bài Tin Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24).
Làm tôi (douleuein) là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai khiến và quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc đời mình. Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt đối tùng phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai chủ, nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những người rất đòi hỏi.
Nhưng sự “làm tôi” mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông thường rất nhiều. Khi đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể, Người muốn cho thấy sự “làm tôi” ở đây phải là sự dấn thân phục vụ hết mình, trọn vẹn, chân thành, với tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người ta càng không thể làm tôi hai chủ được. “Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”.
Cuối câu 24, Đức Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng định một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Hạn từ “Tiền Của” ở đây có thể được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa thông thường. Một số khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người ta kiếm chác được, nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu (một cách hữu lý) rằng “Tiền Của” ở đây là tất cả những gì người ta tìm kiếm được và sở hữu được, ngay cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài năng…, nói tóm lại là tất cả những giá trị và thực tại trần thế, không loại trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả những thứ đó đều có thể được người ta sùng bái quá đáng, và đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh không khoan nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của người ta.
Chúa Giêsu không lên án “Tiền Của”, nhưng Người không chấp nhận những ai để cho thói tôn sùng “Tiền Của” làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những ai yêu mến và gắn bó với những thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn đề không phải là không có “Tiền Của”, mà là không được ưu tiên nó như là thực tại quan trọng nhất và có sức chi phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa, quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên Chúa phải chiếm vị trí số một, và các đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi. Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài. Chính trong thái độ tâm linh căn bản đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử đúng đắn đối với những thực tại và giá trị trần thế, ngay cả những thực tại và giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.
2. Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)
Những của cải và giá trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào.
Chúa Giêsu dạy: ” Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (cc.25-32).
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).
Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
3. Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (cc.33-34)
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt.6,24).
LÀM TÔI THIÊN CHÚA
Năm 1989, 1 trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai ông đang học.
Ở đó, ông nhìn thấy 1 đống đổ nát – ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: “Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!”. Và ông bật khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ huynh thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: “Quá muộn rồi!”,”Anh không làm được gì đâu”, “Về nhà đi” hoặc “Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi”… Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng 1 câu: “Giúp tôi 1 tay!”. Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường ra ngoài.
Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát.
- Chúng tôi sẽ lo việc này, ông về nhà đi!
Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch và chỉ đáp:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông:
- Anh đang trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà!
Nhưng họ cũng chỉ nghe được 1 câu:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Một người rồi nhiều người vào “giúp 1 tay”
Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng… 12 tiếng… 24 tiếng… 36 tiếng… Và đến tiếng thứ 38, khi kéo 1 tảng bê-tông ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.
- Armand? – Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại
và ông nghe thấy tiếng trả lời:
- Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà…
14 học sinh trong số 38 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái “hang” nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì “bố tớ sẽ đến cứu chúng ta!”. Các em nhỏ hoảng sợ, đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1 người cha đã hứa.
Làm tôi Thiên Chúa là làm con Thiên Chúa:
“Hạnh phúc thật” của con người.
Vì, làm tôi Thiên Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.
“Làm tôi Thiên Chúa” không phải là sống kiếp đời “Tôi mọi”, mà là được Ngài chia sẻ sự sống, và niềm hạnh phúc.
“Làm tôi Thiên Chúa” là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là vâng phục Thiên Chúa và được Ngài che chở.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được “công tác” vào chương trình cứu độ của Ngài, vì được Ngài nâng lên bậc “làm con Thiên Chúa”. “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là “bạn hữu”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc viên mãn.
“Làm tôi Thiên Chúa” chính là “làm con Thiên Chúa”. Và chính vì thế, ta có thể vui sống, vững tin, vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của Ngài.
“Làm tôi Thiên Chúa” ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh hằng.
Và như thế, ta có thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện kể trên: “Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn bảo vệ con mà!”.
“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is.49,15).
LÀM TÔI TIỀN CỦA
Làm tôi tiền của là “đại họa” cho bản thân và cộng đồng nhân loại.
“Làm tôi tiền của” là sống một kiếp đời đày đọa.
“Làm tôi tiền của” là sống “tôi mọi” không ngừng.
“Làm tôi tiền của” là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên không được bảo vệ.
“Làm tôi tiền của” là sa lầy vào những hành vi đen tối.
“Làm tôi tiền của” là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.
“Làm tôi tiền của” là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.
“Làm tôi tiền của” là mất tất cả.
“Tiền của” là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! “Ông chủ” xấu đó không ai khác hơn là “ma quỷ”! Tiền của là phương tiện đáng sợ của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma quỷ!
Thực tế, tiền của đem lại cho con người “cơm no, áo ấm”, “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhưng tham vọng con người là “túi tham không đáy”, thường không dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, nên đi xa hơn, tiến đến hành vi “tom góp”, cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu càng nhiều càng tốt, bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và tìm cách phá đổ tất cả những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm, chối từ Thiên Chúa.
Đó là sự tiến hóa về miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người không “thức tỉnh”, con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành tinh chết, không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những giá trị tinh thần.
Hãy xem sự phá hoại môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự đóng góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.
Tin Mừng hôm nay không phải là bài học “nghệ thuật sống” về sự an nhàn thanh thản, mà là giáo huấn về “Tình Yêu Thiên Chúa”, để con người tìm thấy đâu là nơi nương tựa, đâu là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự mỏng manh vô nghĩa mà con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.
Sự lo lắng sẽ đến khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con người mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì để sở hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả “là mây là khói”, là “là phù hoa”, là “cát bụi”, là vô nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên Chúa. “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12,20).
Ngược lại, sự bình an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra sự giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!
Sự giàu có ấy là gia tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà ta đau khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.
Con người chỉ hiểu được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái độ thế nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc biệt khi Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).
“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt.4,7).
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Mt.4,10).
“Thờ phượng một mình Người mà thôi”. Đó là con đường của chúng ta. Con đường sống của nhân loại.
Vì thờ phượng, là tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui, nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. “Chúa là nguồn vui của con” (Tv.43,4).
Lạy Chúa,
Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ.
Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu,
Ngài dành những gì bất ngờ cho con,
chỉ tin Chúa là Cha của con,
chừng ấy đủ rồi. Amen.
(Đường Hy Vọng. Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).
Truyện áp dụng:
Chờ sung rụng
Xưa có một anh rất lười, không chịu làm gì, ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn nữa.
Một hôm, anh ta nằm ngửa dưới gốc cây sung, há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.
Xui quá, sung chín rơi rụng đầy trên mặt đất, quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt trúng vào miệng anh ta cả.
Có một người đi qua thấy thế, đem lòng thương hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng anh ta. Anh chàng lười vừa nhai vừa lụng bụng:
- Rõ cái đồ lười.
Bài 26. ƯU TIÊN TÌM KIẾM CHÚA
Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6,33)
Trong dòng chảy cuộc sống ngược xuôi, nhiều khi lắm gian nan vất vả, con người cảm thấy chênh vênh, yếu đuối, muốn tìm một chỗ vững chắc để tựa nương. Cuộc kiếm tìm đó có khi không hề dễ dàng vì có những lúc con người cảm thấy cần đến Chúa nhất thì Ngài lại có vẻ như im lặng. Các bài đọc lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta liên lỉ khám phá sự hiện diện và quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trong cuộc đời con người.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Khi dân Chúa bị đem đi lưu đày tại Babylon, họ tưởng như mọi sự đã chấm hết. Họ khó có thể hiểu được tại sao họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn và ưu ái, nhưng lại phải chịu cảnh làm nô lệ nơi đất khách quê người. Theo họ, nguyên nhân của tất cả những điều này là vì Thiên Chúa đã bỏ rơi họ, đã quên giao ước đã ký kết với họ (Is 49,14). Chỉ khi Thiên Chúa bỏ rơi họ, không còn coi họ là dân của Ngài, họ mới rơi vào hoàn cảnh bi đát như vậy.
Trong bối cảnh đó, ngôn sứ Isaia mang lại luồng gió hy vọng cho dân đang bị lưu đày. Bằng cách dùng hình ảnh tình cảm sâu nặng và mối tương quan khắng khít giữa mẹ và con, ngôn sứ tự hỏi liệu có người mẹ nào nỡ từ bỏ con của mình, đứa con mà bà đã phải mang nặng đẻ đau. Thiên Chúa gắn bó với dân bằng một mối dây tình thương bền chặt, thậm chí còn bền vững hơn cả tình mẫu tử. Giả như trên đời này có người mẹ nào quên con mình thật, thì Thiên Chúa là Đấng không bao giờ quên dân của Ngài (Is 49,15). Vấn đề đối với dân là làm sao khám phá ra sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa ngay trong hoàn cảnh bi đát khó khăn của họ.
2. Bài đọc 2
Theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta đều là những người quản lý của Thiên Chúa, mà phẩm chất quan trọng của người quản lý là sự trung thành (1 Cr 4,1-2). Hơn nữa, sự trung thành của người quản lý không phải do người khác đánh giá hay do chính mình tự nghĩ ra mà do chính Thiên Chúa, Đấng thấu suốt cả “những gì ẩn khuất trong bóng tối” và “những ý định trong thâm tâm con người” (1 Cr 4,5).
Để có thể sống trung thành với chủ, người quản lý hẳn phải biết ý của chủ mình, biết chủ mình muốn gì và trung thành thực hiện ý muốn của chủ. Thách đố đối với người quản lý là làm sao biết chính xác đâu là điều chủ mình muốn và làm sao để thực hiện ý muốn của chủ cách tốt nhất. Muốn vậy, người quản lý phải tinh tế quan sát để dò ý chủ, tìm kiếm để biết rõ ý chủ và bày tỏ sự trung thành qua việc thực hiện ý muốn của chủ. Chính Thiên Chúa là Chủ sẽ “xét xử” và “khen thưởng đích đáng” cho những quản lý trung thành.
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta tìm kiếm và trung thành thực thi thánh ý của Thiên Chúa, chứ không phải tìm kiếm lầm lỗi, sai trái của người khác để xoi mói, để xét đoán. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt những gì sâu kín nhất trong lòng mỗi người chúng ta, sẽ đánh giá chúng ta dưới ánh sáng chân lý của Ngài. Những ai lo tìm kiếm và trung thành thực thi ý Chúa thì sẽ chẳng bao giờ sợ bị xét xử.
3. Bài Phúc Âm
Bài Phúc Âm trước hết mời gọi chúng ta xác định ai là chủ của cuộc đời mình. Một tôi tớ thực sự trung thành không bao giờ cùng một lúc có hai chủ. Chúa Giêsu khẳng định: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24). Chúa mời gọi chúng ta chọn lựa một cách dứt khoát, không nước đôi, không thỏa hiệp. Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trung thành và Ngài cũng muốn chúng ta đặt trọn niềm tin và sự trung thành vào Ngài chứ không phải bất cứ thứ gì khác. Bất cứ một sự thỏa hiệp nào với bất cứ loại “chủ” nào đó không phải là Thiên Chúa đều dẫn con người xa Chúa là nguồn bình an và ơn cứu độ đích thật.
Một khi đã xác định được Thiên Chúa là chủ thật sự của cuộc đời mình, con người được mời gọi tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Dù con người được mời gọi để tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa, làm cho thế giới này ngày một tốt đẹp hơn, nhưng đồng thời Thiên Chúa muốn con người đặt tất cả mọi sự trong bàn tay quan phòng của Ngài. Con người dễ bị cám dỗ cuốn theo biết bao lo lắng, toan tính, tham lam, tranh giành mà quên mất điều quan trọng thiết yếu nhất chính là sự sống đã được Thiên Chúa trao ban. Chỉ Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng trên sự sống của con người. Nếu con người không thể quyết định sự thành bại của mọi việc mình làm, nhất là của sự sống mình thì con người được nhắc nhở hãy biết phó thác mọi sự vào Đấng quan phòng là chủ của đời mình.
Dù Thiên Chúa luôn chúc phúc cho những gì tốt đẹp mà con người cố gắng tạo ra trên trái đất này vì Thiên Chúa biết đó là những điều cần thiết cho cuộc sống con người, tuy nhiên điều mà Thiên Chúa muốn con người chúng ta kiếm tìm trên hết không phải là những gì tạm bợ, chóng tàn, mau qua ở đời này mà là “Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài” (Mt 6,33). Tất cả rồi sẽ qua đi, kể cả những gì được xem là bền vững nhất ở đời này. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng trường cửu và những ai trung thành tìm kiếm Ngài cũng được Ngài ban cho sự sống và sự tốt lành vĩnh cửu trong Nước của Ngài.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Cuộc sống hàng ngày với biết bao lo toan làm cho con người nhiều khi không còn thời gian cho Chúa, không còn một khoảng trống trong tâm hồn để Chúa ngự vào. Những khi gặp khó khăn, thất vọng, chán nản, con người lại càng dễ cảm thấy mình bơ vơ giữa bao sóng gió của cuộc đời. Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay nhắc chúng ta rằng: ngay cả trong những hoàn cảnh tưởng như bi đát nhất, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi những ai cậy trông vào Ngài. Phải chăng tôi thiếu lòng tin tưởng và trông cậy vào Chúa, nhất là những khi chán nản thất vọng?
2. Thiên Chúa chính là người Chủ đích thật và đáng tin cậy cho mỗi người. Phải chăng có nhiều khi tôi đã gạt Chúa ra khỏi cuộc sống của tôi, ra khỏi gia đình tôi, ra khỏi những buồn vui của cuộc đời tôi, để lao vào tìm kiếm những “chủ” khác? Phải chăng tôi đã để cho cuộc sống tôi bị nô lệ bởi những ông “chủ” tạm bợ, nhất thời, chóng qua? Tôi đã từng thỏa hiệp với những ông “chủ” xấu nhằm kiếm một chút lợi lộc cho mình?
3. Cuộc sống đời người rồi cũng sẽ đến hồi kết thúc, dù con người có muốn hay không. Tất cả những gì tôi có hiện nay sẽ đi về đâu? Cuộc đời tôi sẽ đi về đâu? Chẳng lẽ tôi sẽ ra đi với hai bàn tay trắng? Đâu là ưu tiên chọn lựa của tôi trong cuộc sống này? Thiên Chúa đang mời gọi tôi tìm kiếm Nước vĩnh cửu của Ngài, tôi có muốn đáp lại lời mời gọi của Ngài?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc từng người chúng ta mà không hề quên sót một ai. Với tâm tình tri ân cùng niềm tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa, chúng ta cùng tha thiết dâng lời cầu nguyện:
1. Thiên Chúa sẽ đưa ra ánh sáng những điều giấu kín trong bóng tối. Chúng ta hiệp ý cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn trung thành với sứ mạng hướng dẫn con người ngày hôm nay sống và làm chứng cho sự thật bằng lối sống chân thành yêu thương.
2. Thiên Chúa chính là người Chủ đích thật và đáng tin cậy của mọi người. Chúng ta hiệp ý cầu xin cho những ai đang khao khát tìm kiếm chân lý biết khám phá sự hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa trong cuộc đời, để tin nhận và vui sống trong sự quan phòng của Người.
3. Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi những ai cậy trông vào Ngài. Chúng ta hiệp ý cầu xin cho những người đang mang nặng u sầu và lo lắng, xin Chúa làm cho họ được tràn đầy niềm vui và hy vọng để luôn trung thành sống theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
4. Hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Chúng ta hiệp ý cầu xin cho mọi người và các gia đình trong cộng đoàn chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa Kitô qua cầu nguyện, và quan tâm tìm kiếm nước trời bằng việc dấn thân phục vụ Tin Mừng của Chúa.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu! Xin thương chúc lành cho những ước nguyện chân thành của chúng con, và gia tăng niềm tin giúp chúng con luôn sống tín thác vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Bài 27. Tiền bạc: Ông chủ hay đầy tớ?
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 6,24-34
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tiếp tục Bài Giảng Trên Núi. Đức Giê-su dạy các tín hữu về thái độ phải có đối với tiền bạc vật chất: Họ không được coi đồng tiền là ông chủ mà phải bắt nó phục vụ mình như đầy tớ. Không nên quá lo tìm kiếm cái ăn cái mặc vì tin vào tình thương của Chúa quan phòng. Điều phải quan tâm trước hết là “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài sẽ ban cho”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 24-25: + Không ai có thể làm tôi hai chủ: Đức Giê-su đưa ra một nguyên tắc chung về cuộic sống đức tin là không ai có thể phụng sự hai ông chủ một trật. Cần phải dứt khóat chọn một trong hai là phụng sự Thiên Chúa hay tiền bạc. + làm tôi: mang ý nghĩa như một nô lệ bị mất quyền tự chủ và phải hòan tòan lệ thuộc vào ông chủ của mình. + Tiền Của: Được viết Hoa để nhấn mạnh là Thần Tài. Tiền được nâng lên địa vị là một vị thần có sức mạnh vạn năng như người ta thường nói: Có tiền mua tiên cũng được”. Đức Giê-su khuyên các tín hữu cần có thai độ dứt khóat chọn một trong hai làm chủ cuộc đời của mình. + Đừng lo cho mạng sống: Đừng lo âu thái quá tìm kiếm cái ăn cái mặc vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (x Mt 6,32) Tuy vậy, Đức Giê-su không cổ võ thái độ thụ động và ỷ nại để hưởng nhàn, vì “Nhàn cư vi bất thiện!” nghĩa là sự lười biếng ở không là nguồn phát sinh mọi tội lỗi. Các tín hữu chỉ cần bình tâm làm việc để kiếm cơm áo hôm nay và phó thác tương lai cho Chúa quan phòng như lời cầu trong Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” (Mt 6,11). + Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? : Đừng lo lắng làm chi vì Thiên Chúa sẽ luôn bảo đảm cho ta có đủ cơm ăn áo mặc cho cuộc sống thể xác.
- C 26-29: + Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho: Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc đến các tạo vật như lòai chim nhỏ bé mà Ngài đã dựng nên, để cho chúng có thể tồn tại. + Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?: Chim trời không có giá trị bao nhiêu mà còn được Cha trên trời quan tâm như vậy, phương chi chúng ta là con cái của Ngài. + Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? : Hơn nữa, dù ta có lo lắng bao nhiêu đi nữa cũng vô ích, vì mọi sự đều do ơn Chúa ban như lời thánh Phao-lô: “Tôi trồng, A-pô-lô tưới, còn Thiên Chúa cho mọc lên”. + Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: Về áo mặc, Đức Giê-su lấy ví dụ về vẻ đẹp của một bông hoa huệ ngòai đồng nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn ban cho mặc đẹp hơn vinh quang của vua Sa-lô-mông, phương chi con người là con cái Thiên Chúa lại không được Ngài ban cho áo mặc hay sao?
- C 31-34: + Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? : Những điều cần cho thân xác như của ăn áo mặc không đáng gì trước tình thương quan phòng của Thiên Chúa. + Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm: Dân ngọai đi tìm của cải vật chất vì họ không tin có đời sau, nên chỉ lo tìm kiếm hạnh phúc vật chất cho đời tạm này. + Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó: Thiên Chúa là Cha yêu thương nên biết rõ chúng ta cần và luôn quan tâm thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. + Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho: Thái độ khôn ngoan là phải ưu tiên làm sáng danh Thiên Chúa, làm cho Nước Cha mau trị đến như Đức Giê-su đã dạy cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha. Một người hy sinh lo việc cho Chúa thì chắc chắn Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi để quan phòng cho họ có đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. + Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy: Cuộc sống ở trần gian còn nhiều gian nan thử thách. Nhưng các tín hữu đừng khờ dại khi chỉ lo tích trữ của cải vật chất nay còn mai mất. Hãy cứ lo sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại, bằng cách chu tòan các việc bổn phận với lòng mến Chúa yêu người, và tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI: 1) Một người chọn làm tôi Tiền Của với người thứ hai chọn làm tôi Thiên Chúa khác nhau thế nào về cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử với tha nhân trong cuộc sống? 2) Khi dạy “Đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây?” Phải chăng Đức Giê-su cổ võ thái độ lười biếng của người tín hữu chỉ biết khoanh tay cầu nguyện và ỷ nại vào Thiên Chúa sẽ quan phòng mọi sự thay cho mình? 3) Câu “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” có ý nghĩa thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) KHI TIỀN VÀO NHÀ THÌ CHÚA ĐI RA:
Có một đôi vợ chồng tá điền kia làm công cho một ông lãnh chúa giàu có. Hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất có lòng đạo đức: Ngày nào cũng vậy, cả hai đều thức giấc khi gà vừa gáy sáng và dâng giây phút đầu ngày tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa. Trong ngày dù phải chịu vất vả làm việc nắng nôi, họ cũng không quên hát những bài thánh ca quen thuộc. Trước và sau bữa ăn đạm bạc, cả hai đều có những lời cầu nguyện sốt sắng. Ngày nào họ cũng đọc kinh tối: ăn năn sám hối tội lỗi và đọc 50 kinh Mân côi dâng kính Đức Mẹ rồi phó thác hồn xác cho Chúa trước khi nghỉ đêm. Tiếng lành về lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền đã đến tai ông lãnh chúa. Ông ta quyết định thử để biết nếu đôi vợ chồng này giàu lên thì họ có còn giữ được lòng đạo đức như hiện tại hay không ?
Một hôm chờ lúc đêm khuya ông lãnh chúa sai đầy tớ bí mật mang một hòm tiền đựng 100 đồng vàng đến để trước cửa nhà của đôi vợ chồng tá điền rồi quan sát động tĩnh. Hôm ấy khi nghe tiếng gà gáy sáng, theo lệ thường hai vợ chồng bác nông dân liền thức dậy đọc kinh râm ran rồi ăn sáng qua loa trước khi ra đồng làm việc. Chợt anh chồng phát hiện ra một chiếc hòm rất đẹp nằm ngay trước cửa nhà. Anh liền gọi vợ ra khiêng vào nhà. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi mở hòm ra đếm được tới 100 đồng tiền vàng, một tài sản lớn lao mà không bao giờ hai người dám mơ ước. Thế là họ không đi làm như mọi khi mà ở nhà bàn nhau cách cất giấu hòm tiền vàng. Họ hết đào góc nhà lên chôn hòm tiền vàng xuống, rồi lại moi lên mang cất giấu chỗ khác trong nhà vì không yên tâm. Buổi trưa hôm ấy họ không cảm thấy đói và bỏ ăn luôn cả bữa chiều. Đến tối họ cũng không còn đọc kinh râm ran như mọi khi và lúc nào cũng thắc mắc hòm tiền kia của ai và lý do tại sao xuất hiện trước cửa nhà mình. Ba ngày sau, do ăn uống thất thường và tâm trạng quá lo lắng, nên sức khỏe suy kiệt và cả hai vợ chồng đều nằm liệt giường với chiếc hòm tiền được cất giấu ngay dưới gầm giường.
Tất cả thái độ và cách ứng xử của đôi vợ chồng đều được gia nhân báo cáo cho ông lãnh chúa nên ba ngày sau, ông liền đến nhà đôi vợ chồng tá điền thăm hỏi và báo tin nhà ông bị trộm mất một hòm tiền vàng. Lúc đầu cả hai vợ chồng đều chối, nhưng một phần vì sợ bị đi tù và phần khác biết không thể tiếp tục dấu được mãi, nên hai vợ chồng đành phải thành thật khai báo đã cất giữ hòm tiền vàng ra sao và xin được hoàn lại chủ cũ để tránh sự tù tội. Từ ngày đó, do không còn lo lắng về tiền của bất minh nên hai vợ chồng bác nông dân đã dần dần bình tâm trở lại và tiếp tục thói quen cầu nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như trước. Từ nay họ bằng lòng với hòan cảnh hiện tại và đã rút ra bài học này: “Khi tiền vào nhà thì Chúa đi ra!”.
2) THAM THÌ THÂM:
Một buổi sáng kia khi mặt trời vừa ló dạng, ông lãnh chúa đã gặp người đầy tớ và nói với anh như sau: “Ta thấy anh đã giúp việc cho ta rất đắc lực trong nhiều năm qua. Hôm nay ta sẽ thưởng công cho anh bằng việc ký văn tự cho anh một phần đất của ta như sau: Từ bây giờ anh sẽ đi đánh dấu với cục phấn mang theo rồi trở lại đây vào đúng 6 giờ chiều. Tất cả nhà cửa ruộng vườn ao hồ anh đã đánh dấu phấn trắng đều thuộc về anh. Nhưng ta nhắc lại một điều rất quan trọng là anh phải trở lại đây trước 6 giờ chiều để tránh bị trắng tay nếu về trễ dù chỉ một phút”. Nghe ông lãnh chúa nói như vậy, anh đầy tớ rất phấn khởi và lập tức lên đường với hy vọng đánh dấu được nhiều nhà cửa đất đai bao nhiêu có thể. Anh cố đi thật nhanh và không quên vạch phấn lên cây cối nhà cửa và các cột mốc bên đường để làm dấu quyền sở hữu của anh. Đến trưa anh cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy đã đánh dấu được nhiều nhà cửa đất đai đồng lúa. Anh chỉ lo chạy mà quên việc phải dừng lại để nghỉ ngơi ăn uông. Đến khi cần vòng lại cho kịp thời gian thì lại thấy trước mặt một cái hồ nước trong xanh có nhiều cây cối chung quanh bờ hồ khiến anh nổi máu tham cố chạy vòng qua hồ mất thêm cả tiếng đồng hồ để lấy thêm hồ nước cho mình. Khi thời gian không còn bao nhiêu anh mới nghĩ đến việc chạy vòng về cho kịp giờ hẹn. Không may cho anh, khi về cách nhà khoảng vài chục mét thì đã nghe tiếng đồng hồ quả lắc điểm 6 giờ chiều. Anh đầy tớ liền té ngã ra bất tỉnh vì bị đuối sức do đã nhịn ăn nhịn uông nhiều giờ, phần nữa do đã trễ giờ hẹn bị mất tất cả đất đai nhà cửa đã đánh dấu và cuối cùng anh đã bị đột quỵ chết thảm. Cảm thương cho người đầy tớ trung thành nhưng bất hạnh do lòng tham quá đáng, ông lãnh chúa đã tổ chức lễ an táng cho anh thật long trọng và chôn cất anh trong một ngôi mộ đẹp ngay tại thửa vườn nơi anh đã từng sinh sông nhiều năm, nhưng mộ anh chỉ chiếm diện tích không đầy ba thước vuông!
3. SUY NIỆM:
1) KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ:
- Ngày nay nhiều người rất coi trọng đồng tiền và thường đề cao sức mạnh vạn năng của nó như sau: “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”; Hoặc “Có tiền mua tiên cũng được!”; “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”; “Có thực mới vực được đạo”…
- Đức Giê-su không coi thường tiền bạc: vì chính Người hiểu rõ giá trị của đồng tiền cần cho các sinh hoạt đời thường. Chẳng hạn: Người hỏi Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6,5). Có lần Người đã bảo Si-mon: “Anh hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, anh hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần anh” (Mt 17,26); Người đòi đầy tớ phải làm lợi ra gấp đôi số nén vàng bạc được chủ trao phó trước khi đi xa để xứng đáng được ban thưởng khi ông trở về. Còn đầy tớ nào lười biếng đem chôn giấu nén vàng được giao thì sẽ bị chủ trách mắng là lười biếng với lý do như sau: “Sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời” (Lc 19,23). Đức Giê-su dạy môn đệ phải biết cách sử dụng tiền bạc như sau: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9); Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su cũng cần tiền cho các sinh hoạt ăn ở của thầy trò, nên Người đã trao nhiệm vụ quản lý số tiền người ta giúp đỡ cho Giu-đa. Tin Mừng Gio-an cũng cho biết về tính tham tiền của ông này khi thuật lại lời ông ta trách cô Ma-ri-a ở Bê-ta-ni-a đã lấy chai dầu thơm quý giá đắt tiền xức chân Đức Giê-su. Tin mừng Gio-an còn chú thích thêm: “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Ngoài ra cùng đi với Đức Giê-su trên bước đường truyền giao, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh… “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (Lc 8,3).
2) NHỮNG NGUY HIỂM KHI ĐỒNG TIỀN TRỞ THÀNH ÔNG CHỦ:
Đồng tiền sẽ là một người đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu: Đức Giê-su đòi các môn đệ không được làm tôi hai chủ như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”. Vậy khi đồng tiền trở thành ông chủ sẽ gây ra hậu quả nào ?
- Đồng tiền khi trở thành ông chủ sẽ làm lu mờ lương tâm bất chấp tội phúc miễn sao có nhiều tiền như Giu-đa đã phản nộp Thầy với giá ba mươi quan tiền! (x. Mt 27,3).
- Đồng tiền khi làm chủ sẽ khiến tâm hồn người ta trở nên vô cảm. Trong câu chuyện La-da-rô nghèo khó, ông phú hộ đã tỏ thái độ vô cảm khi nhắm mắt để không thấy không giúp đỡ La-da-rô nghèo khó đang nằm ngay trước cửa nhà ông (x. Lc 16,19-21).
- Đồng tiền khi làm chủ sẽ khiến người ta trở nên tán tận lương tâm, không còn coi trọng tình nghĩa vợ chồng, cha con, thầy trò… Những người chồng tham lam đồng tiền bất chính, khi cần có thể bán cả nhà cửa vợ con để chơi trò đỏ đen may rủi! Hoặc có thể phạm phải những tội ác như cướp của giết người, buôn bán sì-ke ma túy… miễn sao kiếm được thật nhiều tiền.
3) PHẢI TRÁNH LÒNG THAM LAM TIỀN BẠC BẤT CHÍNH:
- Khi lòng tham nắm quyền thống trị người nào, thì người ấy sẽ bị mất quyền làm chủ bản thân và phải tuân theo sự sai khiến của lòng tham không đáy. Một số bác sĩ thừa biết “lương y như từ mẫu”, nhưng do lòng tham đã làm chủ tâm trí nên sai khiến họ phải làm những điều gian dối để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân đang bị nguy kịch không tiền viện phí, khiến cho nhiều bệnh nhân nghèo đã bị chết oan.
- Không ít thầy cô giáo thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng khi bị lòng tham thống trị, họ sẽ bắt học sinh phải học thêm ngoài giờ để thêm thu nhập, khiến các phụ huynh vừa tốn thêm tiền, mà con em còn bị học quá tải có hại cho sức khỏe sau này.
- Không ít cảnh sát giao thông tuy biết rõ tham nhũng là một quốc nạn, là một tội ác làm giảm uy tín của chế độ trước nhân dân. Nhưng do tâm trí đã bị lòng tham thống trị, nên họ sẵn sàng bỏ ngoài tai các lời phê phán chỉ trích của dư luận báo chí để tiếp tục “làm luật”, xử phạt các lỗi vi phạm giao thông cách bất công hầu kiếm thêm những đồng tiền bất chính.
4) TÍN THÁC VÀO SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA:
- Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ phải tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Tín thác không đồng nghĩa với sự phó mặc cho Chúa định liệu mọi sự của mình, nhưng là bình tâm làm việc để kiếm tiền nuôi thân với niềm tin Chúa sẽ ban đủ lương thực hằng ngày. Vì như chim trời chẳng đáng giá là bao và không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng; hoặc bông huệ ngòai đồng sớm nở tối tàn mà vẫn được Cha trên trời cho mặc áo đẹp hơn áo của vua Sa-lô-mông. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa là luôn bình tĩnh trước mọi tình huống để không quá lo lắng, vì tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Tín thác vào Chúa quan phòng cũng đồng nghĩa với việc sẵn sàng nhìn nhận khuyết điểm của mình để tu sửa, khoan dung trước những thiếu sót giới hạn của người dưới và coi các sự thất bại như cơ hội giúp mình thêm kinh nghiệm để làm tốt hơn trong tương lai.
- Dân ngọai vì không nhận biết Thiên Chúa và không tin có đời sau, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc đời này. Đức Giê-su dạy các tín hữu phải ưu tiên làm việc cho Nước Chúa mau trị đến, ý Chúa sớm nên hiện thực dưới đất cũng như trên trời. Do đó, chúng ta cần chu tòan các việc bổn phận với lòng tin cậy phó thác vào Chúa quan phòng. Hãy luôn ưu tiên chọn phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân vô vị lợi hơn là làm điều gian dối để có được nhiều tiền. Nếu chúng ta quảng đại dâng hiến tương lai đời mình cho Chúa thì Người cũng sẽ quảng đại ban phát muôn ơn lành cho ta như lời Đức Giê-su: “Anh em đong bằng cái đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng chính cái đấu ấy” (Mt 7,2). Do đó, các tín hữu chúng ta cần thực hành lời Chúa hôm nay: “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
4. THẢO LUẬN: 1) Câu chuyện “Tiền vào nhà Chúa đi ra” nói trên dạy chúng ta bài học gì về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc? 2) Qua câu: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn?; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc?”, phải chăng Chúa dạy chúng ta chỉ cần đọc kinh dự lễ và làm các việc bác ái truyền giáo, rồi hòan tòan phó mặc công việc làm ăn nuôi sống gia đình cho người thân lo liệu? 3) Tuần này mỗi người chúng ta nên làm gì để sống lời Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”?
5.CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa muốn chúng con sống từng phút giây hiện tại cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha. Chúa muốn chúng con làm theo lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống theo châm ngôn “làm mọi sự vì vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin giúp chúng con biết quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, “Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc…”, hầu đến ngày tận thế chúng con sẽ được Chúa xếp vào hàng chiên ngoan và sẽ được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời muôn đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.