Thứ ba, 26/11/2024

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay – năm A

Cập nhật lúc 06:02 14/03/2014

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật II Mùa Chay – năm A
Lời Chúa: St 12,1-4a; Tv 32; 2 Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9.
***************

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
2. Chú giải của Noel Quession: Đây là Con Yêu Dấu Ta
3. Chú giải của Fiches Dominicales: Người Con Yêu Dấu
4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Biến hình
5. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu biến đổi hình dạng
6. Biến đổi theo thánh ý (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
7. Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Vinh quang của Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
9. Nghe Lời Người (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Biểu lộ chân dung (JM. Lam Thy ĐVD.)
11. Cho đến khi Người từ cõi chết sống lại (P. Trần Đình Phan Tiến)
12. Rực rỡ Ánh Sáng công chính (AM Trần Bình An)
13. Mắt đức tin, mắt của trái tim (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
14. Hành trình theo Chúa (Lm. Carolo Hồ Bạc Xái)
15. Ơn gọi biến hình đổi dạng (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
16. Chúa hiển dung (R. Veriatas)
17. Dõi bước theo Chúa (R. Veritas)
18. “Bản tính khó dời” (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
19. Chúa Giêsu hiển dung (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
20. Vinh quang (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
21. Đức Giêsu mạc khải vinh quang Phục sinh (Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP Sài gòn)
22. Mùa Chay đổi mới tâm hồn (Lm. Đan Vinh)

CNChay2

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (St 12,1-4a)

1 Đức Chúa phán với ông Áp-ram : “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. 3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi ; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”4a Ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông.

Bài đọc II (2 Tm 1,8b-10)

8b Anh yêu quý, dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. 9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, 10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.

Tin Mừng (Mt 17,1-9)

1 Hôm ấy, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. 4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng : “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo : “Trỗi dậy đi, đừng sợ !” 8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.

9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng : “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.”

[Mục Lục]

khoangcah
B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố nầy nhắc nhở cho người Kitô hữu thời gian Mùa Chay không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm đau khổ và sự chết, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang.

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố nầy nhắc nhở cho người Kitô hữu thời gian Mùa Chay không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm đau khổ và sự chết, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang. Đó cũng là bài học mà Bài Đọc I và Bài Đọc II nhắc nhở cho chúng ta.

St 12: 1-4

Bài đọc I, trích từ sách Sáng Thế là chuyện kể về ơn gọi của ông Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài. “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).

2Tm 1: 8b-10

Viết cho Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhở tính hiệu quả tâm linh của sự đau khổ: vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho việc loan báo Tin Mừng sinh hoa kết trái thiêng liêng và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.

Mt 17: 1-9

Tin Mừng hôm nay là bài tường thuật về cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt trong văn mạch với việc Đức Giê-su lần đầu tiên tiên báo cuộc thương khó của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã gây nên cơn choáng váng đối với các môn đệ của Ngài. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao và ở đó Ngài thay đổi hình dạng trước mắt các ông để nói với các ông: Đau khổ và tử nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà là sự khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh hiển. Vì thế, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước Phục Sinh vinh quang.

BÀI ĐỌC I (St 12 : 1-4)

Phần thứ nhất của sách Sáng Thế (ch. 1-11) gợi lên nguồn gốc thế giới và nhân loại. Phần thứ hai (ch. 12-50) tường thuật nguồn gốc dân Do thái và lịch sử các Tổ Phụ của họ. Bài đọc I, trích từ đoạn đầu phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.

1. Ơn gọi (St 12: 1):

Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.”

Lời dẫn nhập nầy quy chiếu đến những sự kiện trước đó của chương 11. Ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, sống ở Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Lúc đó, miền nầy chưa được gọi Can-đê (danh xưng nầy chỉ xuất hiện trong các bản văn vào thế kỷ XI BC), nhưng là Su-me trong đó thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ nầy. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua, quê hương của mình, cùng với bộ tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng Ông Te-ra cùng bộ tộc của mình dừng lại ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và định cư lập nghiệp ở đó. Nhưng ông Áp-ra-ham tiếp tục cuộc hành trình của mình về một vùng đất xa lạ. Phải chăng ông muốn thực hiện ước nguyện của cha ông khi rời bỏ thành Ua: “đi tới đất Ca-na-an”? Thật ra, ông Áp-ra-ham chỉ quyết định rời bỏ Kha-ran sau khi cha ông qua đời (x. Cv 7: 4)

Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Hay phải chăng nhà biên soạn Kinh Thánh phát hiện, không phải vô căn cớ, ở nơi cuộc hành trình nầy một biến cố quan phòng? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về lộ trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.

Vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất, loại bỏ các vị thần khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en.

Khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi nơi ông một hành vi đức tin: cắt đứt mọi ràng buộc của quê hương và họ hàng để ra đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người.” Hơn nữa, vào lúc đó, Ngài chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Chúa đã truyền cho ông” .

Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà A-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong sự tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.

Đây là khuôn mẫu của các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước: Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … ; Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân.

Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ dứt khoát từ bỏ như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, cũng như những ai mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý: « Hãy đi và đừng phạm tội nữa », hay « Hãy đi, đức tin của con đã cứu con », hoặc « hãy chỗi dậy và đi ! ».

2. Lời Hứa (St 12: 2-4):

“Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn…Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…”

Đây là lời hứa đầu tiên và sẽ còn tiếp tục nhắc đi nhắc lại trong suốt truyện dài nhiều tập của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng những gì hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực tế trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không cân xứng với những gì mà ông có trong hiện tại: một kẻ lang bạt lên đường đến một miền đất xa lạ.

Ông Áp-ra-ham là vị tổ phụ mà truyền thống Ít-ra-en đã luôn luôn xem ông là cha của Lời Hứa, lời hứa nầy đã làm cho ông trở thành một dân riêng, một dân mà Thiên Chúa ưu ái. Chính Lời Hứa nầy mà ông sống.

Biểu thức đầu tiên này của Lời Hứa đã được biên soạn dưới triều đại vua Sa-lô-mon. Đó là thời kỳ hoàng kim; thể chế vương quyền Ít-ra-en thụ hưởng một uy thế lẫy lừng khắp thiên hạ. Làm thế nào hiện tại huy hoàng này đã không gợi nhớ về một quá khứ xa xưa, bởi vì hiện tại làm chứng cho việc Thiên Chúa thực hiện những lời hứa của Ngài nhỉ? “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng…”

3. Chúc phúc

Lời chúc phúc là dấu chỉ hữu hình của tấm lòng nhân hậu Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hiệu quả và nhắc nhớ ý muốn cứu độ hoàn vũ của Thiên Chúa. Những lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham. Chính ông cũng sẽ là một dấu chỉ, nhưng lại là một dấu chỉ mâu thuẫn: “Ta sẽ chức lành cho những ai chúc lành cho người; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.” Tuy nhiên Thiên Chúa khẳng định rằng nhờ ông mà muôn dân tộc sẽ được chúc phúc.

Lời chúc phúc nầy mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo phân loại của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của Kham và Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một con người, một dân tộc, trong khuôn mẫu lịch sử để truyền đạt Giao Ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân muôn nước trên mặt đất, ngay từ khởi thủy của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, trong lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích hoàn vũ của Kitô giáo rồi.

3. Viễn cảnh thần học:

Tác giả Gia-vít là người đã suy niệm về sự cao cả nguyên thủy của con người và sự thất bại mà tội lỗi đã gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính ông đã nhắc nhớ tội huynh đệ tương tàn của Ca-in, lụt Đại Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong sự ác, và là đối tượng của những trừng phạt và chúc dữ của Thiên Chúa.

Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng phục Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ A-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ : «Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành» .

Tổ phụ A-bra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi cầu nguyện : Xi-khem, Bê-then…

Từ cuộc sống du mục nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh : “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng…Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.” (Dt 11: 8-12).

BÀI ĐỌC II (2 Tm 1 : 8-10)

Thư thứ hai gởi cho Ti-mô- thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma ; và cảnh giam cầm rất nghiêm nhặt, thánh nhân « phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi» (2Tm 2 : 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài : « Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. » (2Tm 4 : 6-8).

1. Ti-mô-thê :

Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã lưu ý đến ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16 : 1-3).

Ông Ti-mô-thê, cha là người Hy lạp, còn mẹ là người Do thái đã theo Kitô giáo, đã được mẹ ông : bà Êu-ni-kê, và bà ngoại của ông : bà cụ Lô-ít, dạy dỗ, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn liếng kiến thức sâu xa về Kinh Thánh.

Hai người đã cộng tác với nhau vô cùng thân thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có Ti-mô-thê là người đồng gởi, có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-sô để đảm bảo công việc tông đồ được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi « Các Thư Mục Vụ », vì trong những thư này, vị Tông Đồ cho các vị kế nghiệp ngài những huấn thị của ngài.

2. Lý do của bức thư:

Vào lúc đó, Giáo Đoàn Ê-phê-sô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Đối diện với những trào lưu tư tưởng, một thái độ duy nhất, rất vững chắc : “loan báo Tin Mừng”. Thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc nhở cho ông Ti-mô-thê rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo đi được.

3. Tính hiệu quả của sự đau khổ :

Để lời khích lệ mình có kết quả, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình : « Hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng». Sự đau khổ nầy sẽ làm cho lời công bố của anh sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi cho Giáo Đoàn Cô-lô-sê : «Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. » (Cl 1 : 24).

4. Ơn gọi tông đồ :

Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy Thiên Ân, không có liên hệ gì với « công kia việc nọ ta làm ». Những lời nầy âm vang bài đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý đi đôi với đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống : chính ngài, xưa kia là một Biệt phái, thành tâm thiện chí với những việc lành phúc đức của mình, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài một cách nhưng không.

5. Sự chiến thắng của Đức Kitô Phục Sinh :

Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao gồm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Kitô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được hiển thị qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.

Trong những bức thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự ; chắc chắn trong đoạn thư nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết trong lòng Giáo Đoàn Ê-phê-sô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Vị sứ đồ ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.

Bức thư này không được gởi cho một cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Kitô hữu. Mỗi người Kitô hữu là chứng nhân cho Đức Kitô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy. Như Karl Gatzweiler nhận định:“Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Kitô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Kitô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (trích từ “Parole sur le chemin”, tr. 52).

TIN MỪNG (Mt 17 : 1-9)

Bài tường thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài tường thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng một trong những bài tường thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Đức Giê-su đã hỏi các tông đồ của Ngài : « Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? » Thánh Phê-rô đáp : « Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống». Nghĩ rằng giây phút đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã phật ý. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.

Ở đây chúng ta sẽ khảo sát câu chuyện dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su, và đối với các nhân chứng.

1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su :

Biến cố Biến Hình là một nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Đức Giê-su trong thân phận con người trên con đường tiến về cuộc Tử Nạn của Ngài, Chúa Cha mang đến cho Ngài một sự an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua.

- Thời điểm:

« Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao. »

Bài tường thuật bắt đầu với “Sáu ngày sau.” Diễn ngữ thời gian nầy, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài tường thuật tiếp theo sau nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài tường thuật đi trước. “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, là Con Thiên Chúa (Mt 16: 16). Bài tường thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.” (Mt 16: 28). Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy trong câu nói bí nhiệm nầy lời loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt: “trong số người có mặt ở đây” có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Thêm nữa, “Sáu ngày sau” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người sau nầy cũng sẽ tham dự vào lời cầu nguyện của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).

Vì thế, “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang bằng thập giá” (Guillemette, L’Evangile de Matthew, 195).

Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca hé cho chúng ta thấy câu trả lời : « Ngài lên núi để cầu nguyện. » (Lc 9 : 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, việc núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì, « trên ngọn núi cao » : chi tiết không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc thần hiện.

- Vinh quang của Đức Giê-su :

« Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. »

Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su như con người rạng ngời của Ngài, trong khi thánh Lu-ca đặt sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Ngài thân thưa với Cha của Ngài. Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có toàn quyền trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước vinh quang Phục Sinh của Ngài.

- Ông Mô-sê và ông Ê-li-a :

« Và bỗng ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người».

Chính cũng trên một ngọn núi này (Xi-nai, Khô-rếp) mà ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp Thiên Chúa. Trong biến cố Biến Hình nầy, sự hiện diện của hai ông là một bảo lãnh tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai nhân vật nầy được xem như tiền hô của Đấng Mê-si-a : ông Mô-sê đã loan báo rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18 : 18) ; còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến.

Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện bước khởi đầu và điểm chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu và Tân Ước.

Bài tường thuật của Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về « cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem » (Lc 9 : 31). Từ ngữ « xuất hành » nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian nan nhất của dân Ít-ra-en : ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa họ đến Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian nan nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang.

2. Biến cố Biến Hình đối với các nhân chứng :

Cuộc Biến Hình chỉ có ba nhân chứng : Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Trước đây, cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5 : 37). Cũng chính ba môn đệ nầy mà sau này Đức Giê-su dẫn theo với Ngài trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ là những nhân chứng cơn hấp hối của Ngài (Mt 26 : 37). Trước đây trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên cả sự chết (Mc 5 : 37) và nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ còn nghe Chúa Cha minh chứng về Đức Giê-su (Mt 17 : 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.

Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê : « Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống » (Mt 16 : 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Vị lãnh tụ của các Tông Đồ sau nầy sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, lúc nầy chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển, ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.

Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình : « Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài…Ngài là ánh sáng, ánh sáng thật…đầy tràn ân sủng và sự thật… » Ẩn hiện sau Tựa Ngôn nầy là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.

- Phản ứng của Phê-rô:

Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình ông Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ mình ông bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Tử Nạn. Trong câu chuyện nầy, ông cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, năng nổ, nghĩ sao thì nói vậy, ông Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều : một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu ý kiến như vậy, ông không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể ông nghĩ đến ý nghĩa của ngày lễ Lều, ngày lễ tưởng niệm các chi tộc Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa : biểu tượng cho niềm mong đợi thời Mê-si-a. Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37 :27 ; Hs 12 : 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Mê-si-a của họ (Ga 1 : 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, ông Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Mê-si-a. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất ngỏ hầu cuộc thần hiện trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.

- Cuộc Thần Hiện :

« Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông ».

Biết bao lần trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa trước mắt của phàm nhân, vì thế, đám mây sáng ngời là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 40 : 34-35 ; 1V 8 : 10-12 ; Ed 10 : 3-4 ; Tv 18 : 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả. Tuy nhiên, ở đây không còn là « các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người », nhưng « dung mạo Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng », nghĩa là, ở nơi Đức Giê-su Thực Tại Thiên Quốc, hay chính Thiên Chúa đích thân hiện diện. Lời công bố tước vị « Con Thiên Chúa » của Đức Giê-su không chỉ nhấn mạnh sự tuyển chọn đặc sủng, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ». Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trong miệng của Đấng ấy, vì thế « Các ngươi hãy nghe vị ấy » (Đnl 18 : 15). Vì thế, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ nên một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại, như Đức Giê-su truyền lệnh cho họ. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.

- « Chỗi dậy đi » :

Các tông đồ đã thấy cử chỉ nầy rồi và đã nghe những lời nầy rồi, đó là vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia. Đức Giê-su dùng cũng một động từ : « Chỗi dậy » để chỉ biến cố Phục Sinh sau nầy của Ngài : « Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết ».

Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia, tiếp đó, cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng : « Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy » (1Ga 3 : 2). Thánh Phao-lô cũng viết : « Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người » (Pl 3 : 21).

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải của Noel Quession: ĐÂY LÀ CON YÊU DẤU TA

Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.

Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.

Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.

Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người…” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.

Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.

Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?

Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?

Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.

Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,… đã lấy hình dạng con người đầy tớ… (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.

Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.

Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.

Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.

Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).

Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều…”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!

Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.

Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.

Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.

Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra… đây là một đám mây… đây là một tiếng nói…”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.

Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người… bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.

Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.

Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.

Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.

Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất… mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm…

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Fiches Dominicales: NGƯỜI CON YÊU DẤU

ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH TRÊN NÚI MẠC KHẢI VỀ MẦU NHIỆM “NGƯỜI CON YÊU DẤU” VÀ BÁO TRƯỚC VINH QUANG PHỤC SINH

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

l. Mối liên lạc chặt chẽ với lời báo trước khổ nạn:

Bị đám đông lòng dạ thất thường ở Galilê trở mặt và thường xuyên bị những kẻ thù kiếm chuyện gây rối, Đức Giêsu phải liên tục di chuyển. Người lên tận miền Césarée Philipphe, nơi đầu nguồn sông Giođan, và ở lại đó tập trung vào việc huấn luyện các môn đệ của mình.

“Người ta nói Con Người là ai?” Đức Giêsu thăm dò trước. Sau đó Người mới hỏi ngay họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai. Phêrô lên tiếng thay cho nhóm anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp lại bằng một lời chúc phúc: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc. và đồng thời một uỷ thác sứ mạng: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Rồi “từ lúc đó”, thánh sử Matthêu ghi rõ, Đức Giêsu bất đầu báo cho các ông biết trước điều khiến Phêrô phải lấy làm xúc phạm, và phải lãnh nguyên lời quở trách của Chúa: “Satan, lui lại đằng sau Thầy. Đó là con đường đau khổ mà Con Người sẽ phải đi: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (16,21). Và Chúa tiếp tục cho biết con đường của các môn đệ cũng không thể là gì khác: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (16,24).

Đúng vào thời điểm quan trọng này, thánh Matthêu cho biết rõ: “sáu ngày sau” – chúng ta liên tưởng đến chuyện ông Môsê dẫn theo ba người bạn lên núi Sinai (Xh 24,9), để nhận lãnh mạc khải của Thiên Chúa “sáu ngày sau” đó (Xh 24,16), và cuối cùng diện mạo ông biến đổi khác thường (Xh 34,29) – Theo các tác giả Tin Mừng đó là lúc xảy ra biến cố biến hình trên núi. Jean Potin viết: đây là một câu chuyện “chắc chắn dựa vào sự kiện xác thực”, và được ba thánh sử nhất lãm ghi chép lại “bằng một thứ ngôn ngữ biểu tượng, vay mượn một số những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (Thiên Chúa tỏ bày thần tính) trên núi Sinai” (“Giêsu, lịch sự thật”, Centurion, trang 330).

2. Cuộc biến hình trên núi cao:

a. Ba nhân chứng được tách riêng trên núi:

“Chỉ có ‘các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê’ được Đức Giêsu gọi riêng đi theo Người. Là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay, rồi đây, cũng chính họ sẽ được chứng kiến cảnh khuôn mặt Chúa bị “biến dạng” tàn tạ trong vườn Cây Dầu (26,37). Chi tiết “ngọn núi cao”, nơi sẽ xảy ra cuộc biến hình, mang ý nghĩa thần học hơn là tính chất địa lý. Trong Kinh Thánh, núi thường là cho cho những cuộc mạc khải của Thiên Chúa. Ở đây nó khiến nhớ lại núi Sinai, ngọn núi lẫy lừng nhất trên trái đất, vì là nơi xưa kia Thiên Chúa đã hiện ra và phán truyền cho con người. J.Potin nhắc nhớ lại: “Chính trên ngọn núi này Môsê đã được đám mây bao phủ, khiến dung mạo ông ngời sáng. Đây cũng là núi mà vị ngôn sứ vĩ đại Êlia đã đặt chân tới để dưỡng sức, lấy lại can đảm trong cuộc chiến đấu chống lại tội thờ ngẫu tượng của dân chúng. Đến lượt chính Đức Giêsu cũng lên núi này” (Sđd trang 330).

2. Đức Giêsu biến hình, đứng giữa Môsê và Êlia:

“Như ông Môsê khi xuống núi Sinai, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao ước, “dung mạo Đức Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Người trắng tinh thư ánh sáng”. Trong trường hợp của Môsê, thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Đức Giêsu, thì lại là sự lan toả của chính hữu thể của Người, là sự chiếu giãi của “vinh quang” Người (xem Lc 9,32). Cả 3 Phúc âm nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Đây là hai con người đầy uy lực là hiện thân cho cả Cựu ước Môsê là biểu tượng của Lề Luật; Êlia đại diện cho hàng ngũ các ngôn sứ. Người ta tin rằng ông này sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất, muốn chỉ rằng giáo ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Vào khoảnh khắc tái diễn lại cảnh thần hiện Xuất Hành, J.Potill giải thích, có sự tham dự của hai nhân vật lớn của lịch sử Israel, cả hai đều đã từng đặt chân trên ngọn Sinai. Họ chính là hiện thân cho Lề Luật và các ngôn sứ, và từ bao thế kỷ, đã loan báo và chuẩn bị cho Con Người đến. Hai vị đã trò chuyện với Đức Giêsu và qua đó nhìn nhận Người là Đấng phải đến (Sđd trang 330-331).

Cũng với ý chống lại cuộc khổ nạn của Đấng rnà ông xưng là “Messia”, Phêrô chỉ muốn giây phút này trở thành vĩnh cửu: “Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.

3. Từ đám mây có tiếng phán:

Người môn đệ còn đang nói thì bản thân ông và hài môn đệ kia bị bao phủ trong một “đám mây sáng ngời”. Trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua sa mạc (Xh 13,21). Từ nay, Đức Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Từ đám mây, vang lên một “tiếng phán”. Ở dây chúng ta thấy lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Đức Giêsu khi người chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, nhưng thêm: “Hãy vâng nghe lời Người. Điều này gợi nhớ lại lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với dân chúng khi loan báo vị Môsê mới sẽ ngự đến (Đnl 18,15). J.Potin giải thích: “Đức Giêsu không chỉ là vị ban lề luật không chỉ là ngôn sứ, Người chính là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, là Con Người đứng ở bên ngai Thiên Chúa. Từ nay, phải vâng nghe lời Người. Điều Người nối làm ứng nghiện những gì, Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên báo xưa” (Sđd trang 331).

4. Xuống núi:

Biết mình đang chứng kiến một cuộc hiển linh của Thiên Chúa, các môn đệ “sấp mặt xuống đất”. Đức Giêsu “lại gần”, “chạm vào các ông”, và trong một cử chỉ như để cứu chữa, Người thúc giục các ông hãy “chỗi dậy” (động từ mà những thế hệ Kitô hữu đầu tiên dùng dể chỉ sự phục sinh): sức mạnh phục sinh của Chúa đã khởi đầu trong cuộc sống và đức tin của các môn đệ.

Bây giờ chỉ còn lại “một mình Đức Giêsu”. Khi xuống núi, Chúa truyền cho các ông phải giữ kín những điều vừa xảy ra, “cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Cuộc tiếp xúc của các ông với Thiên Chúa chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, J.Potin kết luận liền sau đó, họ thấy Đức Giêsu đã trở lại với trạng thái bình thường của phận làm người phải chết. Tuy nhiên, cốt lõi của sứ điệp đã được công bố, phải vâng nghe lời của Người Con Yêu Dấu, cho dù đôi khi lời ấy xem ra rất nghịch thường. Bóng đen u ám của cuộc khổ nạn đã đè nặng ngay trên ánh quang của cuộc Biến hình. Thánh sử Luca đã cho: thấy rõ điều đó khi thêm chi tiết là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31), nghĩa là về cái chết của Người. Máccô (và Matthêu) cũng hướng sự chú ý của các nhân chứng tới cuộc hy sinh sắp tới của Đức Giêsu khi đề cập đến lệnh Người truyền cho các ông ‘đừng nói cho ai hay những gì mình thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Mặc dù cuộc biến hình dường như loại trừ khả năng phải chết của Đức Giêsu, bởi nó mặc khải Người là Con Người đến từ trời, nhưng các môn đệ chỉ nắm bắt được ý nghĩa của nó sau khi Chúa đã sống lại (Sđd trang 331).

BÀI ĐỌC THÊM

“Trên đường đời ta đi, Thiên Chúa vẫn ở bên”

“Cuộc biến hình của Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học: Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa. Người dành cho ai Người muốn: ở đây Đức Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ, và dặn họ không được tiết lộ cho ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông này vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường! Thứ đến, đó là con đường bình thường người môn đệ của Chúa phải đi, luôn ngang qua bóng tối Đức Tin của đời thường. Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi. Ông đề nghị dựng ngay ba lều và định cư ở đây chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mọi sự xảy ra cỏ vẻ như ý, nơi đâu đức tin và đời sống đạo của mình xem ra an toàn, vô sự, và chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa rất gần. Chúng ta nghĩ rằng chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thực ra Thiên Chúa không kém gần gũi với chúng ta trong giờ phút khó khăn của sa mạc hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo! Hơn nữa, sự ham muốn tìm kiếm một sự hiện diện khả giác của Thiên Chúa thực ra rất hàm hồ và chính Đức Giêsu cũng chẳng muốn ba môn đệ mình kể lể về thị kiến họ được hưởng. Nhưng lần hiện ra của Chúa sau khi Người phục sinh, cũng giống như cuộc biến hình này, đều chỉ là chút ánh sáng vụt tắt. Chúng ta cần phải bước đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi qua để đạt tới hoàn toàn và vĩnh viễn sự mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy đối diện với cuộc sống và cái chết của mình. Môsê và Êlia là những kẻ đi tìm Thiên Chúa và đã từng được thấy hôm nay họ là nhân chứng của Đức Giêsu biến hình, chính họ đã chẳng từng phải vất vả lê bước trong sa mạc? Sứ điệp của Biến hình chính là trên đường đời ta đi Thiên Chúa vẫn ở bên.

[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: BIẾN HÌNH

CÂU HỎI GỢI Ý

1) Đâu là mối liên lạc giữa cuộc Biến hình và những điều xảy ra trước?

2) Hãy tìm các chủ đề Kinh thánh Cựu ước tiềm ẩn trong đoạn văn này.

3) Vị trí của Chúa Giêsu thế nào so với Môisen, Êlia và Gio-an Tẩy giả? So sánh với cảnh Phép rửa (3, 13-17) để tìm ra những gì giống nhau cũng như những điểm mới trong đoạn văn này.

4) Đâu là ý nghĩa của cảnh này? Nó có ý nghĩa Kitô học không?

5) Đoạn văn lưu tâm đến ai, đến Chúa Giêsu hay Thiên Chúa?

6) Hãy ghi nhận việc hiện tại hóa cảnh này nhằm chủ đích hộ giáo trong 2Pr 1, 16-17

***

1) Chết và sống lại, nhục nhã và quang vinh, hai diện ấy của mầu nhiệm cứu rỗi, Chúa Giêsu chẳng hề tách biệt; các lời tiên báo của Người không phân rời hai biến cố sẽ xảy ra. Tuy nhiên, bao lâu chưa có Phục sinh và Hiện xuống, nghĩa là bao lâu Chúa Giêsu chưa sống cảnh ô nhục này và Thánh Thần chưa được trao ban, thì giáo huấn đó vẫn vô hiệu, và Chúa Giêsu lại không thể dẹp bỏ sự ô nhục được.

Nhưng Chúa Cha có thể hé mở câu trả lời và, trước khi biến cố Vượt qua xảy đến, Ngài đã cho ba môn đồ ưu ái được chiêm ngưỡng, trong một khoảnh khắc thoáng qua, chính vinh quang của Con Ngài. Kinh nghiệm đó đã không được loan báo cách bí nhiệm trong câu chuyển mạch giữa giáo huấn về việc phải đồng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu và giai thoại Biến hình đó sao? “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Con Người đến trong nước của Người. Và sáu ngày sau…” (Mt 16, 28-17, 1a). Đó là lời Chúa Giêsu hứa cho nếm trước phần thưởng được dành vào ngày sau hết, tiền nếm bằng việc chiêm bái trước vinh quang của Con Người. Và các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều thấy trong câu nói bí nhiệm ấy lời tiên báo trực tiếp về cuộc Biến hình; đa số các giáo phụ cũng nghĩ như vậy. Cho dù xét về nguồn góc, câu văn có thể nhắm đến cuộc Quang lâm nó cũng liên hệ với giai thoại này bằng một vài điểm móc nối có tính cách văn chương. Đặc biệt, chữ “một số người” có thể ám chỉ ba môn đồ được biệt đãi; việc Quang lâm của Con Người mà thiên hạ sẽ thấy đến trong Vương quốc, cũng đã được thực hiện cách tượng trưng trong “thị kiến” (17,9) trên núi; câu chuyển mạch thời gian “sáu ngày sau”, rất hiếm trong trình thuật về cuộc đời công khai, xem ra được chủ ý thêm vào để làm nổi bật mối liên hệ giữa lời loan báo và việc thực hiện.

Xét theo mạch văn, thì cuộc Biến hình có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

2) Các chủ đề Kinh thánh xuất hiện trong đoạn văn này có một ý nghĩa rộng lớn đến nỗi phải gắn liền chúng với cao điểm của trình thuật, nghĩa là, theo ý kiến chung của các nhà chú giải, với lời phán từ trời. Lời thần tính này, từ trời phán ra, nhắc lại lời Chúa Cha phán lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,17). Nhưng tiếng nói từ trời còn thêm vào lời công bố tử hệ thần linh của Chúa Giêsu một mệnh lệnh cho các môn đồ: “Hãy nghe Người”. Lời đó mặc khải ba khía cạnh của Chúa Giêsu: Con Thiên Chúa, Tôi tớ được Thiên Chúa sủng ái, Ngôn sứ tuyệt hảo.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thành ngữ “Con yêu dấu” có nghĩa là “Con duy nhất”. Đối với các nhà biên soạn Tin Mừng, thành ngữ đó không những chỉ Đấng Messia, Đấng được tuyển chọn, mà còn chỉ Chúa Con tiền hữu; dầu không có nội dung chính xác theo như định nghĩa của các công đồng, tước hiệu Con Thiên Chúa, phát xuất từ Tv 2,7, vẫn có một ý nghĩa mới như việc cộng đoàn sứ đồ giải thích lại Tv này. Dù các môn đồ, trong cuộc Biến hình, hiểu lời đó thế nào chăng nữa, thì đối với các tác giả Tin Mừng, hình như chắc chắn Lời này công bố sự tiền hữu của Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa đáp lại lời Chúa Giêsu vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình. Trong phép rửa, khi Chúa Giêsu đến với Gioan Tẩy giả dưới dáng vẻ một tội nhân như một người Israel đương thời, thì Thiên Chúa đã công bố rằng Người đích thực là Con yêu dấu. Trong cuộc Biến hình, Thiên Chúa đã xác quyết với các môn đồ vừa nghe Chúa Giêsu tự gán cho mình số phận người Tôi tớ đau khổ, rằng Người quả thực là con riêng của Ngài.

Chúa Giêsu là Tôi tớ Thiên Chúa; Thiên Chúa hài lòng về người Con yêu dấu đó. Qua tiểu chú thứ hai này, Mt gợi lại cuộc thần hiển xảy ra lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, và cho thấy Thiên Chúa muốn giới thiệu Chúa Giêsu như là người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo: “Này đây Tôi tđ của Ta mà Ta nâng đỡ; Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ” (Is 42,1). Khi gọi Chúa Giêsu như là “người được tuyển chọn”, người được sủng ái tiếng nói từ trời đã áp triện thần linh trên thái độ của Đấng Messia “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” này (11, 29), là Đấng không nỡ bẻ cây sậy bị dập” (Is 42,2 – được Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu trong 12, 18-21), là Đấng người ta có thể đến học đòi bắt chước mà chẳng chút sợ hãi lo âu.

Chúa Giêsu là Ngôn sứ: Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” đã làm nổi bật giai thoại so với trình thuật Phép rửa. Nó áp dụng vào Chúa Giêsu lời loan báo có tính cách sấm ngôn của Đệ Nhị Luật được trích dẫn trong Cv 3, 22: “Từ giữa các anh em ngươi Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một ngôn sứ như ta; các ngươi sẽ nghe Người trong tất cả mọi điều Người phán” (Đnl 18,15). Trong diễn từ cho dân chúng tại Giêrusalem, Phêrô cho thấy khi phục sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã bày tỏ Chúa Giêsu như một Môisen mới, như Vị Ngôn sứ thiên hạ đợi trông trong thời cánh chung (x.Cv 7,37; Ga 6,14; 7,40). Sự đảm bảo thần linh này, Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu lúc Người biến hình để tỏ cho các môn đồ thấy rằng hôm nay quả thực Người là Vị ngôn sứ tuyệt hảo và phải nghe Người, “nếu không sẽ bị loại ra khỏi lòng dân tộc? (x.Cv 3,23; Lv 23,29), rằng ơn cứu độ cũng như sự sống vĩnh cửu đều tùy thuộc về Người, sự sống vĩnh cửu mà Người vừa hứa ban cho ai vác thập giá đi theo.

3) Mỗi một dấu hiệu biểu trưng trong cuộc thần hiển – núi, vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, lều trại, đám mây – đều được sáng tỏ dưới ánh sáng văn mạch và lời nói từ trời. Mệnh lệnh phán từ trời đã chỉ Chúa Giêsu như là vị Môisen mới. Thế mà trong Cựu ước, ngọn núi Thiên Chúa thường dùng để mặc khải, ngọn núi mà Môisen đến nhận lãnh các bảng Lề luật (Xh 31, 18) và Êlia có lần trèo lên (1V 19,8), là núi Sinai. Do đó ngọn núi nơi Thiên Chúa đến nói chuyện với Con của Ngài đang biến hình, là núi Sinai mới. Các yếu tố khác trong trình thuật thần hiển đều qui chiếu về lối giải thích đó đặc biệt là ánh vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, đám mây sáng rực; và cũng có lẽ cả chi tiết “sáu ngày” trước khi xảy ra cuộc Biến hình của Chúa Giêsu và lời công bố của tiếng nói từ trời? Môisen đã chẳng phải chờ đợi, trong 6 ngày, lời của Giavê đó sao (Xh 24, 15-16)?

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Chúa Giêsu đem theo mình Phêrô, Giacôbê và Gioan”: Khi lên núi Sinai, Môisen cũng đi với nhiều bạn hữu trong số đó có ba người được ghi đích danh ở một trong các bài trình thuật (Xh 24,9). Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ ở với Chúa Giêsu trong vườn Ghetsêmani (26.37); họ cũng sẽ bỡ ngỡ vì biến cố như ở đây. Đoạn cuối trình thuật (17,9) và 2Pr 1,16 giải thích cho biết sự hiện diện của các sứ đồ đó là cần vì sau Phục sinh, cần phải rao giảng, làm chướng cho Vinh quang của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng. Thế mà “có miệng hai hay ba nhân chứng thì việc mới vững” (Đnl 19,15).

“Trên một núi cao”: Thành ngữ này không gặp ở chỗ nào khác trong Matthêu ngoài trình thuật Cám dỗ (4,8.). Nó nói lên tương quan giữa cuộc Biến hình và Cám dỗ. Quả thực, Chúa Giêsu vừa mới đẩy lui cuộc cám dỗ quỷ quái của Phêrô (16, 23). Để đáp lại lòng tùng phục của Người, Chúa Cha đã biến đổi Người cách vinh quang và như vậy tiên hứa cho Người quyền năng trên toàn thế giới (“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”: 28, 18), quyền năng này Người đã từ chối nhận lãnh cách quá sớm từ tay Satan (4.8) và chỉ sẽ nhận lãnh sau ngày Phục sinh.

“Và Người đã biến hình trước mặt họ”: Biến hình (Hy ngữ: metamorphôthê: nghĩa tự nguyên: “thay đổi” hình dạng, vẻ mặt), có nghĩa là có một dung mạo khác với dung mạo thường ngày; cũng thế, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đồ Emmau dưới một hình dạng khác, hình dạng người lữ hành (Mc 16,12). Việc Chúa Giêsu biến hình đã đáp ứng niềm hy vọng thấy trong văn chương Khải huyền Do thái. Vào thời sau hết, khuôn mặt của các người công chính sẽ biến đổi và trở nên sáng láng, rạng rỡ kiều diễm như mặt các thiên sứ, tràn ngập vinh quang (Khải huyền của Baruch 51, 3-10). Dựa trên một sự kiện của quá khứ – da mặt Môisen chiếu rọi vinh quang vì đã được trò chuyện với Giavê (Xh 24,39), niềm trông đợi cánh chung đó diễn tả sự vinh hiển tương lai của những kẻ được chọn như sau: các hiền nhân sẽ sáng chói như ánh quang vòm trời, và những kẻ đã giảng dạy sự công chính cho nhiều ngươi sẽ rạng rỡ như tinh sao muôn đời muôn kiếp” (Đn 12,3). Hôm nay, trên núi này, qua con người Chúa Giêsu, dưới mắt các môn đồ được biệt đãi, niềm hy vọng đã trở thành thực tại. Nếu lời thiên quốc giới thiệt Con Thiên Chúa tiền hữu, thì sự kiện biến hình mặc khải con người Chúa Giêsu trong ánh vinh quang sau cùng và dứt khoát của Người.

“Mặt Người sáng láng như mặt trời, áo Người trắng phau như ánh sáng”: ánh sáng rực rỡ này biểu trong các thực tại thiên quốc (Đn 7,9; Mt 28,3; Cv 9,3) và cánh chung (Kh 1, 13- 14; 4, 4; 14,4; 19, 11, 20, 11). Vinh quang mà Chúa Giêsu loan báo cho thời sau hết, khi Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người với các thiên sứ” (16,27), vinh quang mà Giacôbê và Gioan mơ ước (20, 20-23), giờ đây xuất hiện trước mắt ba nhân chứng. Nó không phải là một phản ảnh đơn thuần của vinh quang Giavê (Môisen), nhưng là một ánh sáng chói lọi mặc khải hữu thể sâu xa của Chúa Giêsu: Người là chính Thiên Chúa. Sau này các sứ đồ sẽ minh xác điều đó: “Chúa Giêsu là sự tỏa chiếu vinh quang Thiên Chúa, là ấn tượng của bản tính Ngài” (Dt 1, 3); trên mặt Người là vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 4, 6); Người là Chúa vinh quang” (1 Cr 2, 8). Anh vinh quang thiên quốc này đã sáng rực lên trong đêm Sinh nhật, bao trùm các mục đồng (Lc 2, 9-10), hôm nay vinh quang đó phủ lấy con người này, và mặc khải trước thời gian trạng thái tương lai người đó sẽ đạt đến, khi được đưa vào vinh quang” (1Tm 3, 16), khi được Thiên Chúa phục sinh và ban cho vinh quang (1Pr 1, 21), khi Thiên Chúa tôn vinh Tôi tớ của Ngài (Cv 3, 13). Têphanô sẽ thấy Người trong vinh quang của Người như thế (Cv 7, 55) và Saolê, trên đường đi Đamas, sẽ bị đui mù vì ánh sáng của Người (Cv 9,3). Vinh quang này của Chúa Kitô sau cùng sẽ bừng sáng trên chính tín hữu (2Cr 3, 18). Và trong khi chờ đợi ngày được tôn vinh, người Kitô hữu, vốn đang sống trong đêm tối mà không thuộc về đêm tối (1Tx 5,5-6), đã thấy trong cuộc Biến hình một nguồn sáng rực rỡ.

“Và này có Môisen và Êlia hiện ra cho họ”: Không có giả thuyết nào về ý nghĩa hai nhân vật thiên quốc này làm ta xác tín thỏa mãn. Người ta thường xem Môisen như là biểu tượng của Lề luật, cùng Êlia như là người đại diện các ngôn sứ; nhưng thông phán từ trời (Hãy nghe Người) cho thấy tiền ảnh của Vị Ngôn sứ tương lai là Môisen chứ không phải Êlia: Vả lại dưới mắt Israel, Môisen chẳng những là nhà lập luật, mà còn là vị ngôn sứ nữa (Hs 12, 14) là là vị ngôn sứ mà sau này trong Israel sẽ chẳng có vị nào tương đương” (Đnl 34,10). Thỉnh thoảng người ta cũng xem Môisen và Êlia như là tiền ảnh của hai nhân chứng sách Khải huyền giối thiệu mà không nêu danh: Êlia là kẻ có quyền đóng cửa trời và Môisen là người có quyền gõ vào mặt đất (Kh 11, 3.6); một vài bản văn của các giáo sĩ Do thái: còn xem Êlia như là hình ảnh của Đấng Messia đau khổ: trong cuộc chuyện trò ngay sau giai thoại biến hình, Êlia được xem là hình ảnh của Gioan mà người ta đã ngược đãi (Mt 17, 12-13). Quả vậy, xét theo truyền thống (Mt 3, 23-24) mà Chúa Giêsu ám chỉ cho các môn đồ trong một 17, 10-11, có thể Êlia là tiền hô của Đấng Messia, và điều này đã được thực hiện trong con người Gio-an Tẩy giả. Vậy sở dĩ Êlia có mặt trên núi, đó là với tư cách tiền hô của Đấng Messia; có lẽ vì thế mà Mc đã ghi tên ông trước Môisen, dù sau đó ông ta ghi lại theo thứ tự ưu tiên của truyền thống (Mc 9,5). Có một bản văn của các giáo sĩ Do thái ghi chép thế này: “Johannan ben Zacchai đã nói. Thiên Chúa phán cùng Môisen: khi Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia, cả hai ông phải cùng nhau đến “ (Dt rabba 3). Có lẽ toàn thể biểu tượng cựu truyền về hai nhân vật này đã liêm nhiễm quan niệm về Đấng Messia của các tác giả Tin Mừng: ngôn sứ Môisen đến chào Vị ngôn sứ đích thực; cùng đi với ông, còn có Êlia, vị tiền hô của Messia. Dù sao, hai nhân vật này của Cựu ước, ngày xưa đã từng trèo lên núi Sinai, tiên báo qua việc họ lên núi Sinai mới này rằng: với Chúa Giêsu, thời gian đã hoàn tất.

“Tôi sẽ dựng ba lều”: Đối với truyền thống Do thái, nơi ở thiên quốc được biểu trưng bằng các nhà tạm đời đời” (Lc 16,9). Quả vậy, người ta biết rằng trong thời sau hết, Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37, 27; Hs 12, 10) trong lều của Vinh quang Ngài, rằng dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Messia của họ (Ít nhất theo Hênoc 71,16; Ga 1,14: Người đã dựng lều Người giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”) và các dấu lạ của thời Xuất hành sẽ tái diễn. Phêrô tưởng thời sau hết đã tới và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất, để cuộc hiện ra trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi. Khi đề nghị làm ba lều, ông muốn khai mào sự “nghỉ ngơi” cánh chung vậy.

“Thì này một đám mây sáng ngời rợp bóng trên họ”: Đó là câu Thiên Chúa trả lời đề nghị của Phêrô. Lều có vai trò che chở, còn mây thì đến phủ bóng: lều được bàn tay loài người dệt nên, còn mây thì do trời; lều tìm ta trong bóng tối, còn mây lại chiếu sáng rạng ngời. Điểm tương phản mà văn mạch trực tiếp gợi lên ấy, đã được xác định và xác quyết qua hình ảnh đám mây của Kinh Thánh.

Trong truyền thống Thánh Kinh, mây dấu chỉ thần hiện đi theo các cuộc xuất hiện khác nhau của người thiên giới. Ở đây không phải là đám mây chỉ theo một nhân vật như Con Người của thời cánh chung (Đn 7, 13; Mt 24.30), song là đánh mây rợp bóng và bảo vệ đám mây một cách nào đó dựng lều cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa đã lấy mây để làm lều trại cho mình (Tv 18, 12). Tuy nhiên hình như biến cố này thực hiện một sấm ngôn trong truyền thống Do thái, liên hệ đến thời sau hết: Và bấy giờ Chúa sẽ tỏ bày các điều ấy ra, và vinh quang Chúa cũng như đám mây sẽ xuất hiện, như đã hiển hiện dưới thời Môisen và khi Salomon cầu xin cho đền thờ được huy hoàng tác thánh” (2Mcb 2,8). Cũng như ngày xưa Lều Hội họp (Trướng Tao phùng) đã được đám mây bao phủ và nhà tạm được tràn ngập vinh quang Giavê (Xh 40,34-35), như đền thờ của Salomon được Đám mây và Vinh quang bao phủ (1V 8,10-12), thì trong thời cánh chung cũng như vậy: Vinh quang dã rời bỏ Đền thờ (Ed 10, 3-4) sẽ trở lại cùng với Đám mây. Trên núi Biến hình, được chiếu sáng bới vinh quang đang tỏ hiện nơi dung mạo Chúa Giêsu và nơi y phục Người, Mây đã ngự xuống làm dấu chỉ có Thiên Chúa hiện diện. Mây rợp bóng bao trùm các nhân vật cũng tương tự quyền năng của Đấng Tối cao đã “phủ bóng” trên trinh nữ Maria trong ngày Truyền tin (Lc 1,35): động từ episkiazô chỉ xuất hiện ở Tân ước trong hai trường hợp này để nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.

Ý nghĩa biểu trưng của Mây còn có thể được xác định thêm. Nó không chỉ phủ bóng trên ba nhân vật, mà còn trên ba môn đồ nữa; chỉ Luca ghi nhận điểm ấy, nhưng văn mạch cũng nói lên điều đó trong Matthêu và Macco. Tiểu tiết này thật quan trọng: nó cho thấy rằng các môn đồ không chỉ làm khán giả, song còn nhập cuộc vào một biến cố dĩ nhiên là vượt tầm sức họ, nhưng cũng liên quan đến họ. Lời ngôn sứ vừa nhắc trên đây cho thấy Vinh quang và Mây xuất hiện trong hoàn cảnh nào: nơi cất dấu các đồ phụng tự “sẽ không được ai biết đến cho tới khi nào Thiên Chúa thâu họp dân lại và dủ lòng thương đoái” (2Mcb 2, 7). Nếu nhớ lại văn mạch tổng quát của giai thoại biến hình chúng ta đang nghiên cứu, tức là việc thành lập cộng đoàn môn đồ để tiên báo và thể hiện Giáo Hội, ta sẽ dễ dàng chấp nhận rằng Thiên Chúa đã bắt đầu thâu họp dân Ngài. Khi nối kết hai nhóm – trời và đất – cho đến lúc đó hãy còn tách biệt, đám mây đã công nhận việc thâu họp các môn đồ quanh lời Chúa Giêsu, việc thâu họp mà Người đã bắt đầu thực hiện. Không phải Chúa Giêsu biến hình cho riêng Người, nhưng còn cho các môn đồ: họ sẽ nhờ đó khám phá ra nguồn gốc thần linh của lời giáo huấn mà họ phải vâng nghe; một khi đã được vào trong đám mây thiên quốc, họ sẽ biết rằng từ đây họ đang lập thành một cộng đoàn với Chúa Giêsu và cả với thiên quốc, bao lâu họ còn lắng nghe lời Người.

“Các môn đồ ngã sấp mặt xuống đất… Chúa Giêsu đụng đến họ”. Đối diện với Thiên Chúa đến viếng thăm, con người cảm thấy xâm nhập bởi một nỗi sợ hãi linh thánh. Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết (Xh 19, 21; 33, 20; Lc 16, 2; Ds 4, 20). Trong thị kiến đầu tiên, Isaia cảm thấy như muốn chết (Is 6, 5) vì đã tiếp xúc với Thiên Chúa. Ở đây, các môn đồ cũng cảm nghiệm cùng một nỗi sợ hãi như chết đó khi đứng trước vinh quang Chúa Giêsu. Vì thế Chúa Giê-su đã thực hiện một cuộc phục sinh tượng trưng. Người đụng đến họ, và cử chỉ chữa bệnh đã từng phục sinh con gái ông Giairô (9, 25) giờ đây cũng “phục sinh” các môn đồ.

“Các con không được nói cho ai hay thị kiến ấy cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết”: Chắc hẳn Chúa Giêsu ban mệnh lệnh này để tránh mọi xáo động có tính cách chính trị thiên sai trong dân chúng; sau Phục sinh, mối quản ngại này không còn nữa, vì giữa cuộc Biến hình và Phục sinh, thập giá đã dẹp bỏ một lần thay cho tất cả các ước mơ về quyền lực thiên sai rồi.

KẾT LUẬN

Tất cả các yếu tố của đoạn miêu tả này đều cho thấy ràng niềm trông đợi của Israel đã được thực hiện, một cách bất ngờ nhưng chắc chắn. Môisen và Êlia đến chuẩn bị dân chúng và biến họ thành một cộng đoàn thánh thiện. Nhờ đám mây, cụộc tập họp vĩ đại được thực hiện (2 Mcb 2, 7); khuôn mặt sáng láng của Con Người mà Đaniel tiên báo (Đn 7 và 10) giờ đây đang đứng trước mặt các môn đồ; còn họ thì tượng trưng cho cộng đoàn cánh chung. Tất cả những gì Israel hy vọng nay đang thành thực tại. Điểm mới mẻ, chính là nhân vật biến hình. Người không đến từ trời, nhưng trời xuống trên trái đất. Người không nói, nhưng là tiếng nói từ trời vang lên. Sau cùng và đặc biệt, Đấng mà giờ đây ta phải vâng nghe, không còn chỉ là Giavê (“Hãy nghe hỡi Israel”: Đnl 6,4 – khởi đầu của kinh nguyện được gọi là Shema), nhưng là Chúa Giêsu đang đứng đó. Người là Đấng mặc khải, là chính Chúa của dân.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chúa Nhật I Mùa Chay đã dẫn chúng ta lên núi cám dỗ, là nơi mà Chúa Giêsu đã từ chối không chịu quỳ lạy dưới chân tên Cám dỗ để được nó ban cho một quyền lực mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban (Mt 4, 8-10). Để đáp lại lòng trung thành sơ khởi này đối với Thiên Chúa, hôm nay có tiếng nói từ trời được phán ra trên núi Biến hình, trong Chúa nhật II Mùa Chay này. Khi công bố Chúa Giêsu là Con Tiền hữu, tiếng nói từ trời làm cho ta tin vào giáo huấn mới về số phận mà Thiên Chúa đã đặt định cho Tôi tớ Ngài: không phải là đường uy quyền trần thế, mà là đường vinh quang thiên quốc đi qua nhục nhã khiêm hạ. Rồi quyền tối thượng trên trời duỗi đất mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, Người đã ủy thác lại cho các môn đồ quậy tụ trên núi Thăng thiên (28, 18-20). Cũng vậy, Giáo Hội sẽ có thể thực thi quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hứa ở cùng Giáo Hội cho đến khi Người trở lại vinh quang, nếu Giáo Hội, theo gương Thầy chí thánh, không nghe lời Satan, mà bỏ con đường đưa đến vinh quang ngang qua thấp giá.

2) Việc biến hình của chúng ta hệ tại ở việc chúng ta trở nên giống Chúa Kitô bằng sự tiến bộ không những trong đường thiêng liêng (2 Cr 3, 18) và, sau cuộc vượt qua cái chết với Chúa Giêsu (Pl 3,10-11) bàng việc tôn vinh toàn hữu thể chúng ta, kể cả thân xác (Pl 3, 21). Việc Phục sinh của Chúa Kitô kéo theo việc phục sinh và biến hình toàn diện chúng ta như vậy đó.

3) Cũng như các sứ đồ trong cuộc sống âm thầm thường nhật, chúng ta phải biết gặp “một mình Chúa Giêsu” (c.8), Chúa Giêsu của mọi ngày, Chúa Giêsu nền tảng của cuộc sống nội tâm và tông đồ của chúng ta (Pl 1, 21), nhất là khi chúng ta mất hết mọi tình bằng hữu hoặc mọi nương tựa nơi người đời.

4) Đừng sợ hãi khi phải cùng với người và trong đám mây (c.5). Vì đây là một “đám mây sáng ngời” sẽ rợp bóng trên chúng ta. Đây là một sự hiện diện kín đáo trong đời sống cầu nguyện hay trong dời sống đức tin tinh ròng.

5) Chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong vinh quang của Người trên trời, sẽ thấy Người trong vẻ đẹp kiều diễm sáng láng (Kh 1,13- 18), và sẽ được ở cùng với Người muôn đời (1Tx 4, 17). Trong khi chờ đợi ngày khải hoàn vinh phúc đó, ta hãy sống trong đức tin là tuân phục: ta hãy vâng nghe Người.

6) Việc Chúa biến hình trong phép Thánh Thể không nhằm tỏ hiển vinh quang người ra bên ngoài, nhưng nhằm che dấu vinh quang đó dưới các hình sắc bí tích. Tuy nhiên, nếu trung thành lắng nghe tiếng của Con yêu dấu, Đấng đã giáo huấn chúng ta về mầu nhiệm đó chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Người tiềm ẩn trong hình bánh hình rượu, và chúng ta sẽ kêu lên: Lạy Chúa, được ở đây thì tốt lắm”. Và rồi chúng ta sẽ có can đảm phục vụ người trong cuộc sống bình thường mọi ngày đời ta.

[Mục Lục]

Bài 5. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG

Để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.

1- Ngữ cảnh

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).

Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:

- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.

- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.

Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.

- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.

Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn cảnh gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành phần:

1) Mở (17,1);

2) Thị kiến (17,2-8):

a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,

b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,

c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;

3) Kết (17,9).

3- Vài điểm chú giải

- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.

- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).

- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).

- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.

- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.

- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).

- đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (Yhwh) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).

- tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ….

- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.

- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).

- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:

Mt 17,6-7 Mt 28,16-20
6 Khi các môn đệ nghe vậyhọ ngã sấp mặt xuống đấtvà hết sức kinh hoàng7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gầnchạm vào các ông và bảo:“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
16 Mười một môn đệ…17 Khi thấy Người,các ông bái lạy Người ,nhưng có mấy ông hoài nghi. 18 Đức Giêsu đến gầnnói với các ông:19 “…toàn quyền…”

 

20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”

- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.

4- Ý nghĩa của bản văn

Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.

* Mở (1)

Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?

Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?

Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.

* Thị kiến (2-8)

Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.

Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).

Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).

Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).

Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).

* Kết (9)

Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.

+ Kết luận

Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.

5- Gợi ý suy niệm

1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.

2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.

3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (Yhwh) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.

4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.

5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 6. BIẾN ĐỔI THEO THÁNH Ý CHÚA
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm việc lành; bố thí; hy sinh hãm mình và ăn chay để đền tội… Tuy nhiên, điều đó cần, nhưng không đủ, nên Mùa Chay vẫn cứ đến rồi lại đi mà ít làm cho người tín hữu suy tư và quyết định biến đổi con người cũ là con người ích kỷ, kiêu ngạo, tội lỗi, để mặc lấy con người mới, con người giống hình ảnh của Đức Giêsu.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này mời gọi mỗi chúng ta một phần biết sống những đòi hỏi của Tin Mừng. Mặt khác cũng cần phải biến đổi để trở nên con người mới thực sự theo ánh sáng của Tin Mừng, tức là theo thánh ý Thiên Chúa.

1. Ý nghĩa Lời Chúa

Khởi đi từ bài đọc I: trình thuật việc Đức Chúa kêu gọi ông Abram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1). Ông Abram đã sẵn sàng vâng nghe tiếng Chúa truyền, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống yên ổn tại quê nhà, để lên đường đến nơi Chúa sẽ chỉ cho trong tương lai. Sự ra đi của Abram là một cuộc từ bỏ tiên quyết. Vì thế, Chúa đã hứa ban cho ông và dòng dõi ông hưng thịnh đến độ: trở nên một dân lớn. Ông được chúc phúc, được vinh quang và trở thành trung gian để chúc phúc cho người khác cũng như mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ông mà được chúc phúc (x. St 12, 2-3).

Sang bài đọc II: thánh Phaolô mời gọi người môn đệ dấu yêu của mình là Timôthêô hãy bắt chước ngài như chính ngài đã bắt chước Đức Kitô; đồng thời cũng mời gọi ông cộng tác trên hành trình loan báo Tin Mừng mà thánh nhân đang loan báo. Lộ trình và kế hoạch đó là của Thiên Chúa đã được tiền định từ lâu. Khi được chọn và gọi để tham gia vào sứ mạng đến với muôn dân như thế, người môn đệ phải hiểu, sống và hăng say loan báo về Đấng “ …đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).

Cuối cùng là bài Tin Mừng: thánh Mátthêu trình thuật biến cố Đức Giêsu hiển dung như một sự kiện toàn cho tất cả những gì đã tiên trưng trong Cựu Ước mà sách Luật và lời các tiên tri đã loan báo.

Hình ảnh của Đức Giêsu sáng chói được hiện lên trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Ngài hiển dung giữa hai vị đặc biệt có liên hệ đến mình là Môsê và Êlia. Tại sao lại có sự xuất hiện hy hữu và đặc biệt này? Thưa! Điều đó dễ hiểu vì:

Môsê là nhà lập luật cho Đạo Dothái. Sự hiện diện của ngài muốn nói lên rằng: nhiều lần, Đạo luật Môsê báo trước về Đấng Cứu Độ, và hôm nay Đấng Cứu Độ ấy chính là Đức Giêsu đang xuất hiện. Tiếp theo, ngụ ý rằng, Đức Giêsu đến thế gian không phải để hủy bỏ Luật cũ, và lập lên một thứ đạo hoàn toàn mới. Nhưng Ngài đến để bổ xung, hầu cho nó được kiện toàn.

Còn Êlia chính là vị ngôn sứ quan trọng trong thời Cựu Ước. Sự hiện diện của ông có thể được hiểu là đại diện cho các ngôn sứ. Bởi vì ngài là người đã gìn giữ và canh tân Luật Môsê. Điều đặc biệt hơn cả nơi tiên tri Êlia chính là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế (x. Ml 3, 23-24).

Sự hiện diện của hai nhân vật điển hình cho thời Cựu Ước có mặt trong cuộc biến hình của Đức Giêsu muốn nói lên sự gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước. Đồng thời qua biến cố này, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ về bản tính của mình trong vinh quang, để các ông đi vào Mầu Nhiệm Ánh Sáng của ơn cứu độ. Vì thế, thật hạnh phúc cho các ông khi được nếm trải trước giây phút huy hoàng của Nước Trời.

Đây là một trong hàng trăm ngàn phần thưởng mà Đức Giêsu hứa ban cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Vì thế, Phêrô đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái” (Mt 17, 4). Khi các ông còn đang ngây ngất như thế, thì Chúa Cha xuất hiện như một lời chứng về Người Con yêu quý của mình; đồng thời cũng mặc khải cho các ông hiểu rằng: muốn được vào vinh quang thì phải vâng nghe lời Đức Giêsu.

2. Hãy vâng nghe Lời Người

Nếu trước đó, Đức Giêsu đã mời gọi những môn đệ từ bỏ mọi sự để đi theo mình, đồng thời Ngài cũng đưa ra khuôn mẫu của người môn đệ cần có là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Lúc khác, Ngài nhấn mạnh hơn khi nói: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37). Rồi ngài cũng tiên báo cho các ông biết rằng: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10, 22).

Những điều kiện mà Đức Giêsu vạch ra và đòi hỏi các môn đệ đi theo như thế, không phải là một con đường xa lạ đối với Ngài, bởi chính Ngài đã vâng lời Thiên Chúa để đi trên con đường đau khổ đó hầu cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đã nhiều lần Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của mình để các ông hiểu rõ sứ vụ của thầy và chính các ông sẽ tiếp bước (x. Mt 16, 24). Lời mời gọi này được Đức Giêsu đưa ra đúng vào thời điểm mà các môn đệ đang tranh nhau chỗ nhất, nhì trong vương quốc của Ngài; lại có những môn đệ đang so đo tính toán thiệt hơn, thì có thể sẽ làm cho các ông chùn bước vì phải bước đi theo Thầy trên hành trình đầy gian nan khốn khổ và chết chóc.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không để các môn đệ của mình thất vọng, nên ngay sau khi tiên báo về cuộc thương khó lần thứ nhất, người đã đưa các ông lên trên núi để biến hình trước mặt các ông, hầu như một động lực nâng đỡ và khuyến khích họ tiến bước trên con đường khổ giá. Việc Đức Giêsu biến hình là một lời mời gọi cho các môn đệ: nếu muốn được vào vinh quang thì phải trải qua thập giá. Muốn tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu thì cũng phải biến đổi hình dạng, tức thay đổi con người cũ trở thành con người mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.

Qua biến cố này, Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy. Đây chính là phần thưởng mãn nguyện, tuyệt vời nhất mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thân tín của mình.

Nhưng để được như vậy, người môn đệ phải trải qua con đường tập giá, phải biến đổi.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi chúng ta đón nhận cùng một sứ điệp như đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.

3. Một cuộc biến đổi của chúng ta

Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối [...] và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4,22.24). Thật vậy, chúng ta theo Chúa, là chúng ta phải chấp nhận con đường phưu lưu, đầy gian khổ và đôi khi cả cái chết nữa. Chấp nhận biến đổi. Như vậy, người đi theo Chúa và sống những điều Chúa đòi hỏi phải là những người liều. Liều vì Chúa. Liều vì sứ mạng. Liều vì Giáo Hội. Chứ không phải liều cách mù quáng. Liều vì bị ép phải liều.

Biến đổi! Lời mời gọi mang tính quyết định. Nếu chúng ta không biến đổi con người cũ là con người tội lỗi như: tham, sân, si, của bản năng con người, thì chúng ta chẳng khác gì dòng sông không chảy, một cái ao tù được tạo thành ngay trong tâm hồn những ai cố chấp không chịu biến đổi.

Tuy nhiên, nói biến đổi thì dễ lắm, nhưng khi thực sự quan tâm mới thấy là khó.

Trong đời sống thực tế, chúng ta vẫn thấy đây đó có nhiều người hô hào canh tân, đổi mới, cách mạng, nhưng là thứ biến đổi mù quáng, nhằm tôn thờ khoái lạc, coi trọng tiền bạc, thượng tôn quyền thế, và đề cao những thứ hạnh phúc nhất thời, tạm bợ. Họ sẵn sàng bỏ qua hay coi thường sự hy sinh, nhẫn nại, khiêm nhường… Canh tân như vậy thì không những không đem lại cho con người hạnh phúc, mà lại mở đường đưa con người vào chốn diệt vong. Canh tân như thế chính là canh tân, hy sinh theo kiểu Biệt Phái, chứ không theo cung cách và đòi hỏi của Tin Mừng.

Trong đời sống đạo hiện nay nơi chúng ta, hẳn mỗi người không lạ gì khi vẫn thấy đây đó những người luôn tự hào, can đảm cũng như sẵn sàng vác thánh giá cho cả làng, nhưng thánh giá của chính mình thì đè đầu ấn cổ và bắt người khác vác thay. Hy sinh như thế là hy sinh người khác chứ không phải hy sinh chính mình. Lại có những người hy sinh giả tạo mà Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói đến trong sách Đường Hy Vọng: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (ĐHV số 171).

Biến đổi giả tạo hay ngụy trang như vậy thì chẳng khác gì “đánh bùn sang ao”. Thậm chí còn tệ hơn trước. Họ hô hào cách mạng người khác, chứ bản thân thì không hề thay đổi. Những người như thế được ví như: “Thay quần, thay áo, thay hơi, thay dáng, thay dấp, mà người chẳng thay” (Ca dao). Những chuyện “đao to búa lớn” được cất lên hiệu triệu để làm cho con người, cuộc sống, xã hội được tốt hơn, nhưng trên thực tế không biết bao lần nhân loại đã phải đau đớn mà nhận định rằng: “thay đổi kiểu đó thì chẳng khác gì ‘treo đầu dê, bán thịt chó’”, hay “cái đầu thì không thay đổi mà chỉ ngồi bẻ mấy đốt ngón tay”.

Biến đổi và canh tân mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thi hành chính là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đòi hỏi này phải chăng rất khó! Tuy nhiên, con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc, bình an và hoan lạc. Nhưng tiếc thay, con đường này rất ít người đi.

Thật vậy, con người ngày hôm nay rất sợ hy sinh, và người ta tìm mọi cách để làm sao cho mình thoát ra khỏi những sự bất trắc của cuộc sống. Nhưng nên nhớ rằng: chúng ta là người kitô hữu, nên nếu tránh gian khổ, chúng ta đừng mong làm thánh. Hay thánh mà không qua đau khổ chính là thánh giả, thánh lâm thời. Khi những đau khổ, gian nan thử thách ập đến, nước sơn giả tạo bên ngoài phai nhạt đi thì lúc đó tượng thánh sẽ lộ hiện lên nguyên hình Quỷ.

Cuộc đời của chúng ta đi theo Chúa không chỉ có chuyện hoa thơm, trái ngọt; chỉ có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống; nhưng vẫn luôn còn đó những thất bại, mật đắng, dấm chua… Nhưng điều quan trọng là ta “thay thái độ để đổi cuộc đời” và phải hiểu rằng: thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (ĐHV 714). Sống được như thế, thì trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố chúng ta đều: “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại”.

Như vậy, Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy hướng về Đức Giêsu để làm một cuộc cách mạng biến đổi cái cũ là tội lỗi, ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo… để trở thành một con người mới với nhiều hoa thơm nhân đức như: hy sinh, từ bỏ, khiêm nhường, dấn thân, liên đới và bao dung…

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn biến đổi và canh tân. Xin tăng thêm niềm tin cho chúng con để chúng con can đảm bước theo Chúa cho trọn cuộc đời, hầu qua đau khổ, chúng con được tiến vào vinh quang Nước Trời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 7. Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật II Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại, đó là biến cố biến hình của Chúa Giêsu.

Hôm nay, thánh sử Matthêu nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông. Và đây Môisen cùng với Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Những câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu biến hình? Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Ngài đưa lên núi? Tại sao Môise và Êli lại có mặt lúc Chúa Giêsu biến hình?

Tại sao Chúa Giêsu biến hình?

Chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no lần thứ nhất (x.Mt 14, 13-21) và chừng bốn ngàn người lần thứ hai không kể đàn bà con trẻ (x.Mt 15, 32-39). Các Tông đồ chưng hửng về tương lai tươi sáng, dân chúng thì mãn nguyện về Đấng Thiên Sai. Khi thăm dò ý kiến chung (x.Mt 16, 13-20), Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất (x.Mt 16, 21-23): “Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Vì thế, để củng cố niềm tin các Tông đồ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã biến hình sáu ngày sau đó (x. Mt 17, 1-9). Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi cao (x.Mt 17, 4). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.

Tại sao Chúa Giêsu lại gọi Phêrô, Giacôbê và em ông là Gioan? Phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Về vấn đề này, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống» (Mt 16,16) và được Ngài trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17)

Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 20). Còn Giacôbê, ông đã cùng với em mình khi Chúa Giêsu hỏi: «Các ngươi có thể uống chén Ta sắp uống không?” Họ nói với Ngài: «Thưa được» và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mt 16,14). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu là người vi phạm Luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang Thiên Chúa, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa chứ không thuộc về Chúa Giêsu. Họ nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33). Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Ngài hai tội danh ấy. Nên khi biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Ngài muốn khẳng định rằng, Ngài còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban Lề Luật cho dân chúng, nên người Do Thái không thể nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm Lề Luật. Còn Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết, Chúa Giêsu muốn cho các Tông đồ thấy vinh quang của thập giá, củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môisen, Êlia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: “đàm đạo với Người…” (Mt 17 9, 3), về khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Chúa Giêsu cũng muốn các Tông đồ mình noi theo Môisen và Êlia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Rút ra bài học

Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn trong Mùa Chay này biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa trao mới được theo Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta cũng biết biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá Chúa và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. VINH QUANG CỦA CHÚA GIÊSU
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cuộc biến hình trên núi Taborê là hình ảnh sống động, ấn tượng đã để lại trong lòng mọi Kitô hữu những suy nghĩ, những cảm nghiệm sâu xa về sự vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phải trải qua những cực hình thể xác, những đau khổ tinh thần bởi vì hầu như mọi người đã bỏ rơi Ngài. Vinh quang trên núi Tabôrê hôm nay xua tan mây mù đen tối về cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà Ngài đã loan báo cho các tông đồ ở Cêsarê-Philipphê. Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy vinh quang của Ngài, và đặc biệt được nghe lời Thiên Chúa Cha từ trời giới thiệu Người Con Chí Ái, đồng thời với sự minh chứng của các nhân vật Cựu Ước như Ông Môsê và Ông Êlia để các môn đệ an tâm dấn bước theo Chúa, nghe lời Chúa dạy và sẵn sàng gánh vác công việc của Chúa sau này…

Trình thuật của thánh Matthêu trong trích đoạn 17, 1-9 là một áng văn hay và là một cuộc miêu tả hết sức đẹp về sự biến hình của Chúa trên núi Tabôrê. Ba nhân vật Phêrô, Giacôbê và Gioan là ba tông đồ đã được Chúa Giêsu đem theo riêng bên mình, chứng kiến một số sự kiện, biến cố quan trọng trong cuộc đời theo Chúa, chẳng hạn biến cố con ông Giairô, hiện diện trong vườn Giêt-si-ma-ni. Thánh Phêrô sau này làm đầu Giáo Hội. Phêrô là Đá, Chúa xây Giáo Hội trên nền Đá là Phêrô và các tông đồ. Thánh Giacôbê là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem và cũng là vị tông đồ được phúc tử đạo đầu tiên.Thánh Gioan là người viết Phúc Âm thứ tư, là tông đồ về trời sau cùng và là người truyền đạt mạc khải công khai của Chúa.Tiếng Chúa Cha phán đã là bảo chứng quan trọng cho mọi người, mọi thế hệ biết được Ba ngôi Thiên Chúa, làm ta nhớ lại trên dòng sông Giorđăn, Chúa Cha xác nhận: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, ai tin Thiên Chúa phải nghe lời Chúa Giêsu. Các nhân vật Cựu Ước như Môsê và Êlia giúp các tông đồ hiểu Chúa Giêsu vừa là Vị giảng huấn, vừa là Tiên tri và thực hiện lời các tiên tri.Thánh Phêrô xin dựng lều để muốn mừng lễ Lều Trại vì bây giờ đang trong thời kỳ mừng lễ Lều. Đám mây bao phủ làm ta nhớ tới thời Cựu Ước về sự hiện diện của Thiên Chúa. Núi và đám mây bao phủ gợi lại hình ảnh Môsê trên núi Sinai xưa. Chủ đích Tin Mừng hôm nay cho ta hay rằng Thiên Chúa từ trời như đang nhắn gửi nhân loại và đặc biệt Dân Do Thái lắng nghe lời của Môsê, và căn dặn phải nghe lời Đấng được sai đến hướng dẫn dân, Đấng ấy thi hành ý Thiên Chúa Cha, là Con và là tôi tớ, những lời của Đấng ấy dù có khác lạ với lối suy nghĩ của nhân loại, của người đời, như thể lời loan báo về cuộc khổ nạn, về cái chết và phục sinh.Các môn đệ ngã sấp mặt xuống đất gợi lại sự hiện diện của Thiên Chúa thời Cựu Ước, hình ảnh Thiên Chúa trong bụi gai, Môsê phải cúi mặt không được nhìn vì nhìn sẽ chết v.v… Giữ kín những điều đó để khỏi bị người ta hiểu lầm, tranh giành nhau về chính trị, về quyền hành v.v… Khi Chúa chết sống lại, sự hiểu lầm ấy sẽ hết đi…

Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nhận ra Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi đã đến, Ngài đã đến với chúng ta cùng với Giáo lý, Giáo huấn của Ngài. Ngài muốn chúng ta sống như Ngài, lắng nghe lời Ngài và thực thi lời Ngài. Vinh quang của Chúa cũng là vinh quang của chúng ta bởi vì Chúa đã luôn làm hài lòng Thiên Chúa Cha khi thực hiện thánh ý của Chúa Cha: chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh để cứu rỗi mọi người, cứu rỗi trần gian. Chúng ta thực thi ý Chúa là hoàn tất sứ mạng trần thế trong cuộc hành trình đức tin lâu dài. Lắng nghe lời Chúa và thực hiện lời Chúa trong đời sống của mình là đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình và đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta trong bất kỳ trạng huống thuận hay nghịch của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã chìm sâu trong ánh sáng vinh của của Chúa. Việc biến hình của Chúa đã làm cho các tông đồ quên đi những tang thương, thử thách của cuộc đời để các ngài ý thức về sứ mạng cứu thế của Chúa. Hôm nay trên núi cao, các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang chói ngời của Chúa… Trong vườn Cây Dầu, các môn đệ sẽ chứng kiến những giây phút đau buồn, thảm thương của Thầy trước khi bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên Thập giá. Xin cho chúng con luôn tin vào lời Chúa, lắng nghe Chúa nói và thực thi những điều Chúa dạy bảo hầu chúng con làm hài lòng Thiên Chúa, làm vui lòng anh chị em và làm đẹp lòng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con và sứ mạng cứu thế chúng con đang thực hiện giữa mọi người. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Chúa Giêsu biến hình ở đâu?
2. Những tông đồ nào đã được chứng kiến biến cố biến hình?
3. Những nhân vật Cựu Ước nào hiện ra?
4. Tại sao Chúa cấm các môn đệ phải giữ bí mật?

[Mục Lục]

Bài 9. Nghe Lời Người
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1. Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3. Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

[Mục Lục]

Bài 10. BIỂU LỘ CHÂN DUNG
JM. Lam Thy ĐVD.

Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giê-su hiển dung” (Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” (Mc 9, 2-8). Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?

Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giê-su biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret.

Khi ba môn đệ theo Đức Giê-su lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “… Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.

Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giê-su muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giê-su chiu phép rửa trên sông Gio-đan (“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giê-su Ki-tô.

Nói Chúa Hiển Dung là nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy là vì trước đó không lâu, Đức Giê-su đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất cho các môn đệ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”; khiến Đức Giê-su phải nặng lời quở mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 21-23).

Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!” (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế đó!

Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!

Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giê-su luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện (“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).

Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.

Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì “tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).

Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giê-su, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giê-su Ki-tô, qua Lời phán dạy: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được như vậy. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. CHO ĐẾN KHI NGƯỜI TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI
P. Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, câu Lời Chúa trên đã làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu khó hiểu. Tại sao vậy, thưa quý vị? Vâng đây là vế thứ hai của (câu 9b), nguyên câu là: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy…”.

Vâng, hôm nay là Chúa Nhật II Mùa Chay là lễ Chúa Giêsu Biến Hình trên núi Tabor. Ngày nay, Núi Thánh Tabor không quá xa lạ với những du khách, nhất là những du khách là Linh mục, tu sĩ. Ai có dịp sang Đất Thánh, hẳn nhiên không thể không tò mò muốn viếng thăm Núi Tabor. Một linh địa mà Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật.

Vâng, trước khi Chúa Giêsu chịu Tử Nạn thì Mầu Nhiệm Tabor không được tiết lộ. Nhưng hôm nay, chúng ta được phép chia sẻ mầu nhiệm Núi Tabor. Vậy mầu nhiệm và ý nghĩa Núi Tabor nói lên điều gì? Vâng, trước hết về mầu nhiệm thì không ai có thể hiểu được, nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Về ý nghĩa thì, sau khi được mặc khải con người có thể hiểu được mầu nhiệm mà đôi khi các thiên thần cũng không thể hiểu được.

Hôm nay, chúng ta được phép cùng Chúa Giêsu và các môn đệ lên Núi Thánh Tabor để chiêm ngưỡng, để hiểu ra mầu nhiệm cao siêu nầy.

Trước hết, chúng ta thấy Tin Mừng Chúa Nhật II MC (Mt 17, 1-9) hôm nay, nội dung và tình tiết hoàn toàn khác với Tin Mừng Chúa Nhật I MC tuần trước.

Cho thấy:

- Chúa Giêsu Hoàn toàn biểu lộ Thiên Tính

- Thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa

- Chính Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho loài người

- Hiệp thông giữa Cựu Ứớc và Tân Ứơc

- Chuẩn bị cho cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu

- Loan báo nhiệm cục mới

- Bất cứ ai tin vào Chúa Giêsu cũng sẽ được biến đổi (củng cố niềm tin vàoChúa Giêsu)

Vâng, Lễ Chúa Giêsu Biến Hình, theo bậc lễ, không phải là lễ trọng. Nhưng theo đặc tính thì vô cùng quan trọng bởi các ý nghĩa nêu trên. Vì tuần trước, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu quỷ cám dỗ là nói lên thân phận con người của chúng ta, mầu nhiệm Chúa Giêsu làm Người là nói lên đặc tính yếu đuối, kiếp người nếu không có Thiên Chúa thì con người phải chịu sự nô lệ của satan, tội lỗi là kiếp nô lệ cho satan. Vậy, muốn thoát khỏi thế lực tội lỗi, con người cần ăn chay, cầu nguyện và làm việc lành phước đức.

Nên chi, lễ Chúa Giêsu biến hình hôm nay, trước hết là biểu lộ vinh quang, để củng cố niềm tin, nhưng những sự kiện ấy chỉ tỏ ra cho một số môn đệ yêu dấu, chưa mặc khải công khai.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (St 12, 1-4a), Thiên Chúa đã kêu gọi tổ phụ Apraham, chọn ông để trở thành tổ phụ của một dân thánh, dân của một niềm tin. Thiên Chúa đã chọn một con người cụ thể, bằng xương bằng thịt, để biểu lộ tình thương. Từ đó, sẽ có một dân thánh, gọi là dân riêng của Thiên Chúa, và Apraham được gọi là tổ phụ của lòng tin.

Dù là tổ phụ của lòng tin và được Thiên Chúa ưu tuyển như vậy, nhưng tổ phụ Ápraham cũng vẫn phải trông đợi Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa làm Người đến để giải thoát, để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chúng ta thấy, hình bóng Moise và Elia trong Cựu Ứơc chính là hình bóng Đấng Cứu Thế Giêsu-Kitô sẽ đến trong trân thế. Nhưng tất cả những nhân vật ấy dù có tiếng tăm đến đâu cũng chỉ là nhân loại, là phàm nhân. Nhưng khi Đấng Cứu Thế đến, mới thật sự là Con Thiên Chúa.

Tiếp nối bởi bài đọc II hôm nay (2Tm 1, 8b-10), thánh Phaolo cho chúng ta biết: “…Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng để làm cho sáng tỏ phúc trường sinh bất tử (c 10).Và như vậy, những ai đã từng bước tới cái chết, kể cả thánh tổ phụ Ápraham cũng chưa có người nào từ cõi chết sống lại.

Nên chi, hôm nay khi những người được Đức Kitô kêu gọi và đi theo Người, cụ thể là các môn đệ được Chúa Giêsu đem theo đưa lên Núi Thánh để được diện kiến Mầu nhiệm Biến Hình của Thầy mình, cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu không chết, có nghĩa là Người đến thế gian để biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa theo nghĩa đen. Vì vậy các ông rất bỡ ngỡ về thị kiến biến hình của Chúa Giêsu và về sự cấm đoán của Người: không được tiết lộ cho ai biết về thị kiến ấy.

Sự kiện Biến Hình hôm nay, Ba Tin Mừng Nhất lãm đều có tường thuật lại, nhưng riêng Tin Mừng (Mc 9 ,10) thì ghi rõ sự thắc mắc của các môn đệ về câu nói : “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì? Vâng, xin mượn ý tưởng nầy của thánh Mác-cô để dẫn chứng đoạn Tin Mừng hôm nay với chủ đề trên: “…cho đến khi Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17, 9).

Trong khi Chúa Giêsu chuẩn bị cuộc hành trình lên Giêrusalem để chịu tử nạn, thì trước lúc đó Người đưa ba môn đệ lên núi để được chiêm ngưỡng vinh quang của Người hầu củng cố lòng tin cho các ông, thì các ông hoàn toàn ngây thơ chưa hiểu gì. Tóm lại, Đức Kitô phải bước qua Thập giá rồi mới vào vinh quang phục sinh. Nhưng Thập giá là của nhân loại, của chính mỗi người chúng ta, không phải là của chính Chúa Giêsu – Kitô. Thập gía mà Chúa vác là của chính chúng ta, cái chết mà Người chịu là của chính chúng ta. Vì vậy, Người chết cho chúng ta và chết vì chúng ta để trả lại cho chúng ta sự sống muôn đời. Đó là ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Giêsu biến hình hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ Thiên Tính của Người, bởi mầu nhiệm Biến Hình trên núi Tabor, hầu củng cố niềm tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết tín thác vào Chúa và vâng nghe Lời Chúa như Lời Chúa Cha giới thiệu, hầu mang lại ơn cứu độ cho chúng con. Chúng con tuyên xưng Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 12. Rực rỡ Ánh Sáng công chính
AM Trần Bình An

Đức Chúa phán với ông Môsê: “Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ítraen.” Ông ở đó với Đức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Mười Điều Răn.

Ông Môsê từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái Ít-ra-en thấy ông Môsê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông.

Ông Môsê gọi họ. Ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Đức Chúa đã phán với ông trên núi Sinai.

Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. Khi vào trước nhan Đức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Môsê thấy da mặt ông sáng chói; ông Môsê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa. (Xh 34, 27 -34)

Ông Môsê sau khi gặp Thiên Chúa, đã biến hình đổi dạng, qua khuân mặt chói sáng. Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mathêu trình bày Đức Giêsu biến hình sáng láng huy hoàng trên núi cao, trước mặt ba vị tông đồ thân cận, ông Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Đức Giê su đã mặc khải cho ba môn đệ biết Thiên tính của Người qua sự kiện biến hình trên núi. Người muốn trao ban ánh sáng sự sống cho các tông đồ, môn đệ, con chiên và cho mọi người trần.

Ánh sáng sự sống

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1. 9)

Đức Giêsu xuống trần đem ánh sáng sự sống đến cứu loài người thoát khỏi tăm tối sự chết. Trong suốt cuộc rao giảng ba năm, Người không ngừng công khai khẳng định quyết liệt điều đó, khiến cho các thế lực sự dữ không ngừng chống báng, toan dập tắt đi ánh sáng cứu rỗi, ánh sáng sự sống cao quý siêu việt đó.

“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)

Ánh sáng sự sống, ánh sáng công chính siêu phàm của Đức Giêsu xua đuổi tà thần, tội lỗi, gian manh, dối trá, thói chuộng hình thức, tệ nạn háo danh, háo của, bóc lột,

Với ánh sáng sự sống, Đức Giêsu kịch liệt lên án thói giả hình, qua lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc 7, 6)

Với ánh sáng sự thật, Đức Giêsu không ngại nêu đích danh, chỉ tận mặt những bộ mặt đạo mạo lệch lạc, háo danh, tham lam, bất công, bất chính: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”(Mc 12, 38-40)

Ánh sáng chứng nhân

Sau khi đàm đạo với Thiên Chúa, da mặt ông Môsê trở nên sáng chói, khiến dân chúng kinh hãi. Thiên Chúa đã cảm biến, thánh hóa ông Môsê trở nên phát ngôn viên chánh thức, rao truyền Lề Luật. Sau này, những môn đệ, tông đồ của Đức Giêsu, và tất cả Kitô hữu cũng đều được vinh hạnh nhận nhiệm vụ ngôn sứ, một khi đã thấm nhuần Tin Mừng:

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5, 14)

Từ chốn lao tù, thánh Phaolô đã giải thích minh bạch về bóng tối thế gian và ánh sáng vĩnh cửu: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5, 8-9)

Với ánh sáng chứng nhân, Đức Giêsu muốn người Kitô hữu phản ảnh, chiếu giãi ánh sáng công chính, hầu mọi người được ơn cứu rỗi. Ánh sáng trung thực, rực rỡ, không thể mờ ảo, hay nhiễm sắc xanh đỏ tím vàng, xu thời, mỵ dân.

“Anh em đừng mang một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính? Làm sao ánh sáng lại dung hòa với bóng tối?” (2Cr 6, 14)

“Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. (Đường Hy Vọng, số 622)

Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người canh tân, cải hóa, đổi mới, biến hình tâm hồn, tư tưởng, tình cảm chúng con trở nên trong sáng, tẩy xóa đi những lỗi lầm đen đúa, lem nhem, tì ố, những thiếu sót bổn phận, trách nhiệm, để có thể thành ánh sáng chứng nhân cho Người.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp đỡ, cầu bầu chúng con biến cải, sám hối, ăn năn, hãm mình chay tịnh, chuyên tâm cầu nguyện, thực hành Lời Chúa, hầu chúng con có thể sẵn sàng đón nhận ánh sáng cứu độ, cùng phản chiếu lại tha nhân. Amen.

[Mục Lục]

Bài 13. MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. HÀNH TRÌNH THEO CHÚA
Lm. Carolo Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

Sau khi đã chọn Chúa (tuần I Mùa Chay), con người bắt đầu hành trình đi theo Ngài :

- Bài đọc Cựu Ước : Hành trình của Abraham.

- Bài Tin Mừng : Hành trình theo Đức Giêsu là đi trên con đường thập giá, nhưng sau đó sẽ tới vinh quang.

- Bài đọc Tân Ước : Hành trình của người tông đồ mang Tin Mừng đến cho mọi người.

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Lời Chúa hôm Chúa nhựt tuần trước kêu gọi chúng ta chọn lựa : đừng chọn ý riêng nhưng hãy chọn ý Chúa. Lời Chúa hôm nay mời chúng ta hành trình đi theo Chúa : như tổ phụ Abraham, như các tông đồ. Riêng bài Tin Mừng cho thấy nếu ta dám hành trình theo Chúa trên con đường thập giá thì sẽ được cùng Ngài đến vinh quang.

Chúng ta hãy cất bước theo Người.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Chúa vẫn luôn kêu gọi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng vì quá bận rộn với những việc trần tục, chúng ta ít khi lắng nghe tiếng Chúa.

- Đi theo Chúa thì phải từ bỏ. Nhưng chúng ta ít quảng đại không dám từ bỏ như lời Tin Mừng mời gọi.

- Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhưng do tội lỗi nên chúng ta đã làm cho hình ảnh tốt đẹp ban đầu của chúng ta bị biến đổi ngày càng xấu xa.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc Cựu Ước (St 12,1-4a)

Văn mạch xa : 11 chương đầu sách Sáng thế cho biết Thiên Chúa đã tạo dựng loài người, ban cho loài người một cuộc sống hạnh phúc (hình ảnh vườn Eden), nhưng loài người đã chọn lựa sai và phạm tội nên bị đuổi ra khỏi nơi hạnh phúc đó, và tội tiếp tục lan tràn, hậu quả của tội tiếp tục bành trướng, hầu như vô phương cứu chữa. Nhưng từ chương 12, một tia sáng hy vọng loé lên : Thiên Chúa nhớ đến loài người, Ngài chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình đưa loài người trở về hạnh phúc ban đầu.

- Tổ phụ Abraham đang sống ở Ur, một cuộc sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản.

- Thiên Chúa hiện ra với ông và bảo ông bỏ hầu hết những thứ đó để ra đi.

- Cuộc hành trình này rất phiêu lưu vì Chúa chưa cho biết ông sẽ đi tới đâu. Ông chỉ cần phó thác đi theo sự chỉ dẫn từ từ của Chúa : “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

- Tại sao Chúa bảo thế ? Vì con người vốn có khuynh hướng bám lấy sự an nhàn sẵn có (cụ thể là cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện tại – đời này). Thực ra cuộc sống đó không phải là tốt nhất, mà là cuộc sống khổ sở của thân phận bị đuổi khỏi vườn địa đàng. Do đó Thiên Chúa mới bảo Abraham ra đi. Nhìn bằng cặp mắt loài người, đó là một cuộc phiêu lưu bỏ mồi bắt bóng, nhưng thực ra đó là cuộc hành trình rời bỏ nơi khổ sở để trở lại vườn diệu quang.

2. Đáp ca : Tv 32

Đây là tâm tình hoàn toàn trông cậy phó thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Tâm tình này rất hợp cho những người đang dấn bước trong cuộc hành trình do Chúa dẫn dắt.

3. Bài Tin Mừng (Mt 17,1-19)

Văn mạch : Phía trước Bài Tin Mừng này (Mt 17,1-9) có câu nói của Đức Giêsu “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đây cũng là một cuộc hành trình của người làm môn đệ Chúa. Một cuộc hành trình cũng gian khổ và đầy tính phiêu lưu như Abraham xưa. Nhưng bài Tin Mừng Chúa Nhựt này cho ta thoáng thấy một chút về cái tương lai của cuộc hành trình ấy : Đức Giêsu biến hình ra vinh quang. Nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang. Và trong khi Ngài biến hình, có tiếng Chúa Cha từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người”. Ý Chúa Cha cho biết Ngài muốn các môn đệ Đức Giêsu cũng hãy dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài, và như thế Ngài rất hài lòng, Ngài cũng sẽ cho họ được biến hình ra vinh quang.

4. Bài thánh thư (2 Tm 1,8b-10)

Chẳng những mỗi người phải dám dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa, mà còn phải hành trình mang Tin Mừng đến cho người khác. Cuộc hành trình thứ hai này cũng gian khổ, nhưng cũng đáng thực hiện. Bởi thế Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu : “Anh em hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (câu 8b).

IV. GỢI Ý GIẢNG

1. Hành trình và phiêu lưu

Muốn đi theo tiếng Chúa gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân

Muốn đi theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ mình và vác thập giá hàng ngày”

Để đi loan báo Tin Mừng, các tông đồ phải chịu biết bao gian khổ.

Họ đã bỏ rất nhiều. Bù lại họ được gì ? Abraham nhận được lời Chúa hứa ban cho một dòng dõi đông đảo, các môn đệ được Đức Giêsu cho thoáng thấy vinh quang ở cuối cuộc hành trình, và người tông đồ được hứa “tên các con được ghi trong sổ trời”. Tin theo những lời hứa về một tương lai xa vời như thế đúng là phiêu lưu.

Thông thường, người khôn ngoan không nên phiêu lưu, thà giữ lấy cái hiện tại tuy bình thường nhưng chắc chắn, còn hơn bỏ nó để theo đuổi một tương lai chi mới có trong lời hứa. Nhưng đó là lối cư xử giữa loài người với nhau vì loài người thì rất khó tin. Nhưng đối với Thiên Chúa thì rất đáng phiêu lưu như vậy, vì đã có nhiều bằng chứng cho thấy lòng trung tín thực hiện lời hứa của Ngài. Hơn nữa, Ngài có kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu mà thôi. Thực ra phiêu lưu theo Chúa không phải là phiêu lưu, chỉ cần có đức tin vào lòng trung tín của Chúa là có bảo đảm.

Rất nhiều người đã dám phiêu lưu như vậy : Abraham (2 lần : bỏ quê hương, giết con một), Đức Maria (khi thưa vâng với Thiên thần), các môn đệ (lập tức bỏ thuyền, bỏ lưới và gia đình để theo Đức Giêsu)

Hình ảnh con rùa : nếu nó cứ rụt đầu rút chân vào vỏ thì xem ra an toàn đấy nhưng nó cứ mãi ở lì một chỗ, không bao giờ tiến đến đâu cả. Chỉ khi nào nó dám thò đầu thò chân ra để bước thì, tuy có thể gặp nguy hiểm đấy, có thể bị đau đấy, nhưng có thế nó mới tiến được.

2. Đức tin lên đường

Chuyện tổ phụ Abraham cho ta thấy được điều quan trọng này : đức tin là một cuộc lên đường.

- Tại sao ? Vì “đạo” là đường, con đường Thiên Chúa dẫn dắt để chúng ta từ tối tăm tới ánh sáng, từ cõi chết đến cõi sống. Trong Thánh Kinh, mỗi lần Chúa gọi ai thì Ngài đều bảo họ lên đường đi theo Ngài.

- Mà muốn lên đường thì phải từ bỏ, vì hành trang càng gọn nhẹ thì bước hành trình càng nhanh. Thiên Chúa đã bảo với Abraham : “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi”.

- Hành trình đức tin luôn bao hàm ý nghĩa phiêu lưu : Abraham hành trình lên đường nhưng không biết mình sẽ đi tới đâu, ông chỉ biết mình đang đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa : “đến đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”.

- Rất nhiều tín hữu chỉ lo gìn giữ những tín điều giáo lý và các lễ nghi. Đó chỉ là “giữ đạo” chứ không phải “sống đạo”.

3. Cuộc biến hình và cuộc hấp hối của Chúa

Linh mục Mark Link (trong quyển Sunday homilies, Year A) đã so sánh việc Đức Giêsu biến hình và việc Ngài hấp hối :

- Cả hai việc cùng diễn ra trên núi : biến hình trên núi Tabor, hấp hối trên núi Cây Dầu.

- Ở hai nơi, Đức Giêsu đều biến hình : trên núi Tabor Ngài biến từ hình dáng loài người thành hình dáng Thiên Chúa ; trên núi Cây Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa vinh quang thành hình dáng con người yếu đuối. – Hai việc biến hình đều xảy ra lúc Đức Giêsu đang cầu nguyện.

- Và cả hai biến cố này đều xảy ra trước mắt 3 nhân chứng Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Dáng vẻ yếu đuối của Đức Giêsu là hình ảnh của Ađam cũ, còn dáng vẻ uy nghi sáng láng là hình ảnh của Ađam mới. Thân phận của chúng ta cũng thế : Có những lúc chúng ta sốt sắng ngất ngây, như Đức Giêsu trên núi Tabor. Khi ấy chúng ta cảm thấy mến Chúa yêu người quá ; chúng ta muốn ở mãi trong tình trạng ngây ngất đó ; Nhưng rồi lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng, như đang ở núi Cây Dầu. Khi ấy, phần Ađam cũ trong ta nổi dậy mãnh liệt. Chúng ta cảm thấy chán nản, không ai thương mình và mình cũng không muốn thương ai. Hình như Thiên Chúa cũng xa lánh mình.

Nhưng có một chi tiết quan trọng là Đức Giêsu đã luôn cầu nguyện trong cả hai biến cố đó. Chính sự cầu nguyện đã liên kết thống nhất 2 phương diện ngược hẳn nhau trong cùng một con người của Ngài.

Mark Link đã kết thúc bài suy gẫm của mình bằng lời kinh sau đây (dịch thoáng) :

Lạy Thiên Chúa, xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Đức Giêsu trên núi Tabor. Trong những lúc đó xin cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện, và con sẽ được nghe lời Chúa nói “Con là con yêu dấu của Cha”.

Lạy Thiên Chúa, khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Đức Giêsu xưa : con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con. Amen”

4. Mảnh suy tư

a/ Biến hình

Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai : biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tuỳ vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy.

Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của lối thứ hai.

Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng cửa lòng ta ra…

b/ Hiếu động

Phêrô là một con người hiếu động, luôn cần làm một cái gì đó.

Trên núi biến hình, thay vì thinh lặng chiêm ngưỡng, ông lại muốn dựng 3 chiếc lều.

Không phải mọi thời trong cuộc sống đều phải dùng để làm một cái gì đó.

Có thời phải yên tĩnh

- để nghỉ ngơi

- để suy nghĩ

- để lắng nghe

- để kinh ngạc

- để chiêm ngưỡng

- để tôn thờ

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Hôm nay Đấng Cứu độ chúng ta tỏ vinh quang Người cho ba môn đệ được thấy. Chúng ta hãy tôn vinh Người và tin tưởng cầu xin.

1- Trước khi chịu khổ hình Thập giá / Đức Kitô đã tỏ vinh quang cho các môn đệ được thấy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / được nhìn thấy vinh quang trong Thánh giá / và tin thật Chúa đã chiến thắng khải hoàn.

2- Mỗi ngày qua màn ảnh truyền hình / qua báo chí / chúng ta chứng kiến biết bao đau khổ trong cuộc sống / đau khổ vì thiên tai / vì chiến tranh / vì sự độc ác của người khác / đau khổ do bệnh tật / do quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho những anh chị em đang gặp thử thách / một niềm tin yêu và hy vọng để vui sống.

3- Ước mơ tha thiết của con người ở mọi thời đại / là được sống hạnh phúc / mà thái độ của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người / đều tìm được hạnh phúc trong đời sống riêng tư của mình.

CT : Lạy Chúa, Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ khỏi hoang mang trước mầu nhiệm thập giá, nhưng luôn vững tin vào sự tất thắng của Người. Xin cũng ban cho chúng con một niềm tin sắt đá, để chúng con có thể đứng vững trước mọi giông tố phũ phàng của cuộc đời. Chúng con cầu xin…

[Mục Lục]

Bài 15. ƠN GỌI BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG
Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Thứ Tư Lễ tro đã khai mạc Mùa Chay thánh. Nói tới Mùa Chay, hầu như chúng ta có cái cảm giác là phải khép mình buớc vào con đường khắc khổ, hy sinh, từ bỏ, một mùa “khó nhá lắm”! Đúng vậy, chính Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ đang theo Ngài : “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Mt 16,14). Ngòai ra, Ngài còn tiết lộ cho các ông : Ngài sẽ lên Giêrusalem, phải bị bắt, bị đánh đòn, giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Đúng là một tin sét đánh. Các môn đệ cảm thấy bàng hòang lo sợ cho tương lai. Các ông phải buớc vào mùa Chay và mùa Thương khó.

Nhưng tám ngày sau khi tiết lộ tin sét đánh ấy, Đức Giêsu đã đem nhóm bộ ba là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và Ngài đã biến hình sáng láng trước mắt các ông. Cảnh tượng này làm các ông hết sức ngạc nhiên và hứng thú, đến nỗi ông Phêrô đề nghị với Chúa để dựng lều ở luôn trên núi không xuống nữa. Nhưng thực tế là người ta phải xuống núi để còn phải chu tòan bao nhiệm vụ gai góc và nguy hiểm nữa. Phải chăng Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút vinh quang để kích thích các ông đi vào con đường khổ giá mà Ngài sắp phải trải qua trong những ngày sắp tới ?

Mọi Kitô hữu chúng ta cũng phải đi theo con đường khổ giá của Chúa. Đi theo con đường khổ giá là phải từ bỏ mình và vác thập giá. Từ bỏ mình là phải thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ xấu xa tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn. Điều đó đòi hỏi một cuộc canh tân tòan diện. Cuộc canh tân này phải kéo dài và đòi hỏi chúng ta phải cố gắng liên miên, phải liều mình theo tiếng gọi của Chúa giống như tổ phụ Abraham xưa. Nhưng chắc chắn cuộc canh tân này sẽ dẫn ta đi tới đích mặc dầu phải trả một giá rất đắt vì “Per cruem ad lucem”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : St 12,1-4.

Theo sách Sáng thế, sau khi tổ tông lòai người sa ngã phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại, hạnh phúc tan biến mất. Nhưng theo dòng thời gian Thiên Chúa không quên lòai người đang phải sống lầm than dưới ách tội lỗi, Ngài đã chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình đưa lòai người trở về hạnh phúc ban đầu.

Thiên Chúa gọi tổ phụ Abraham rời bỏ Ur, một cuộc sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản đầy đủ. Thiên Chúa truyền cho ông hãy rời bỏ tất cả mà ra đi, phải làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu. Phiêu lưu vì Thiên Chúa không cho ông biết nơi sẽ đến, tương lai sẽ ra sao ! Ngài chỉ bảo :”Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Nhưng tổ phụ Abraham đã đặt hết tin tưởng vào Chúa, ông lên đường, phó thác hòan tòan vào Chúa, còn tương sẽ để Ngài lo.

+ Bài đọc 2 : 2Tm 1,8b-12.

Thánh Phaolô khuyên dụ Timôthêô hãy thực hành ơn gọi Kitô hữu của mình là dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa. Như thế chưa đủ, ngài còn khuyên phải đồng lao cộng khổ với nhau làm một cuộc hành trình thứ hai cũng đầy gian khổ là lên đường loan báo Tin mừng. Chính Chúa Kitô đã dùng Tin mừng tiêu diệât sự chết và chiếu soi sự sống.

+ Bài Tin mừng : Mt 17,1-19.

Trước đây Đức Giêsu đã nói với các môn đệ :”Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mt 16,24). Lời mời gọi này có thể làm cho các môn đệ chùn bước vì phải làm một cuộc hành trình đầy gian khổ và cũng có tính cách phiêu lưu như trường hợp của tổ phụ Abraham xưa. Nhưng hôm nay Đức Giêsu biến hình trước mặt ba Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan để khuyến khích các ông theo Ngài, nhất là trong cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài; đồng thời cũng hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy, nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang.

Nếu Đức Giêsu là Con Yêu dấu của Thiên Chúa Cha mà còn phải chấp nhận thập giá thì các môn đệ của Ngài cũng phải dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài để tiến tới vinh quang. Việc Đức Giêsu biến hình cũng nhắc nhở cho các môn đệ và chúng ta là muốn tiến tới vinh quang thì phải thay hình đổi dạng con người tội lỗi của chúng ta để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Chúng ta phải biến hình đổi dạng

I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH TRÊN NÚI

Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hình và sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16,21). Cái tin đột ngột ấy cũng như lời giảng dạy về luật phải từ bỏ mình vác thập giá, đã làm cho các ông bàng hòang lo sợ. Chúa nhận thấy cần phải nâng đỡ tinh thần của họ hay một phần trong nhóm của họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Vì thế, tám ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ lên núi và biến hình trước mặt các ông.

1. Nơi Đức Giêsu biến hình.

Thánh Matthêu dùng một chữ rất trống “trên núi cao”. Ngày nay hai quả núi đang tranh nhau cái vinh dự được Chúa chọn làm nơi biến hình.

* Có truyền thuyết cho rằng cuộc biến hình xẩy ra trên núi Taborê, nhưng không lấy gì làm đáng tin. Lý do : trên đỉnh núi Taborê cao 562 mét có một đồn lũy và một tòa lâu đài lớn, ta thấy cuộc biến hình khó có thể xẩy ra trên một hòn núi có đồn lũy, và theo như thánh Luca ghi lại thì chúng ta biết Đức Giêsu lên đó để cầu nguyện, Ngài cần phải có sự yên tĩnh.

* Có người cho rằng việc biến hình xẩy ra trên núi Hermon. Núi này cao gần 3000 mét, nằm cách Xêsarê Philip 23 cây số. Đó là hòn núi cao, cao đến nỗi người ta có thể nhìn thấy nó từ Biển chết, cách đó 160 cây số. Như thế, việc biến hình không thể xẩy ra trên tận đỉnh núi, vì núi quá cao, và lên núi phải mất một ngày, xuống một ngày, như thế thì quá mệt mỏi.

* Chúng ta không biết rõ Đức Giêsu đã biến hình ở núi nào. Theo cổ truyền thì núi Hermon không được nhắc tới mà chỉ nói tới núi Taborê. Hơn nữa, núi Taborê được hậu thuẫn ở cổ truyền cho đến thế kỷ IV. Ngày nay trên núi Taborê có nhà thờ lộng lẫy của các cha dòng Phanxicô dâng kính Chúa biến hình.

2. Những người chứng kiến

Đức Giêsu chọn nhóm bộ ba đi theo, đó là ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhóm này được Đức Giêsu lưu ý đặc biệt : các ông được chứng kiến những việc trọng đại của Chúa, các ông cũng được mục kích việc xẩy ra ở vườn Giệtsimani, lúc Đức Giêsu đang trong cơn hấp hối. Riêng ông Gioan còn đứng chứng kiến giờ Chúa hấp hối trên thập giá nữa.

3. Hai vị khách đặc biệt

Tại trên núi, có hai nhân vật xuất hiện gặp Đức Giêsu, đó là ông Maisen và Elia. Maisen là nhà lập luật Do thái dọn đường cho Chúa Cứùu Thế đến. Elia nhà tiên tri trứ danh, vị tiền hô thứ nhất cho Chúa đến. Các ông hầu chuyện với Đức Giêsu về cái chết của Ngài ở ngòai thành Giêrusalem.

Có thể nói, đó là hai nhân vật lớn nhất trong lịch sử Israel đến với Đức Giêsu, lúc Ngài sắp lên đường, bắt đầu cuộc hành trình mạo hiểm đến nơi chưa biết, để bảo Ngài cứ đi tới. Nhà lập pháp lớn nhất và nhà tiên tri lớn nhất công nhận Đức Giêsu là người họ hằng mơ ước, là người họ đã báo trước. Sựï xuất hiện của họ là hiệu lệnh cho Ngài buớc tới. Như vậy, những nhân vật lớn nhất nhân lọai làm chứng rằng Đức Giêsu đã đi đúng đường và khuyên Ngài cứ đi trong cuộc xuất hành mạo hiểm đến Giêrusalem và đồi Golgotha.

4. Mục đích việc biến hình

Chắc chắn tâm tư các môn đệ vẫn còn xót xa, hoang mang bởi lời quả quyết của Đức Giêsu khi Ngài tiết lộ cho các ông : Ngài phải tới Giêrusalem, để chịu nhục hình , bị đối xử như tên tội phạm, chịu đau đớn, bị đóng đinh vào thập giá và chết. Trước mắt họ, tương lai tòan là mầu đen nhục nhã. Nhưng tòan cảnh núi Biến hình là vinh quang. Mặt Đức Giêsu sáng rỡ ràng như mặt trời, áo Ngài rực rỡ chói lòa như ánh sáng…

Chắc chắn cảnh tượng đó đã làm cho các môn đệ phấn khởi, họ đã thấy vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hòan bên kia cảnh đau khổ, vương miện bên kia thập giá. Ngay lúc ấy, họ cũng chưa phải là đã hiểu trọn vẹn, nhưng chắc chắn họ đã lờ mờ ý thức được rằng thập giá là hòan tòan khổ nhục, nhưng nó đi liền với vinh quang là nét chính của cuộc xuất hành đến Giêrusalem và đến cái chết.

Đức Giáo hòang Lêô Cả, nhà thần học trứ danh ở thế kỷ thứ 5, đã nói :”Chúa Giêsu biến hình nhằm mục đích giữ trước cho tâm hồn các môn đệ khỏi cây Thánh giá làm chướng nghịch : Buổi sáng tưng bừng trên núi ấy, ba tông đồ có nhớ lại trong đêm ở vuờn Cây Dầu chăng, khi được mục kích một việc mầu nhiệm khác mà các ông cũng ngủ lăn lóc, không chú ý đến, tức là Chúa Giêsu hội diện trong u ám với Thiên Chúa hùng mạnh”(Daniel-Rops).

Qua cuộc biến hình nhiều người đã có cảm nghiệm như thánh Phêrô : ông muốn làm ba lều cho Đức Giêsu, cho Maisen và cho Elia. Ông muốn kéo dài giây phút huy hòang ấy. Ôâng không muốn trở về với công việc thường ngày, ông muốn ở lại mãi mãi với vinh quang rực rỡ. Ai đã từng trải qua những giây phút thân mật, trong sáng, bình an, gần gũi với Chúa cũng đều muốn kéo dài những giây phút ấy, như có người đã diễn tả :”Núi Biến hình bao giờ cũng thích thú hơn là công tác phục vụ hằng ngày hay con đường thập giá”(Mc Neil).

Nhưng núi Biến hình được ban cho ta chỉ để cho ta có sức mạnh làm công tác phục vụ hằng ngày và bước đi trên con đường thập giá. Đã có một lời cầu nguyện như sau :”Lạy Chúa, xin hãy giúp con nhớ rằng : đạo không bị giới hạn nơi nhà thờ hay nguyện đường, cũng không chỉ thực hành bằng cầu nguyện hay suy gẫm mà ở bất cứ nơi nào con được ở trong sự hiện diện của Chúa”(S. Wesley). Giờ phút vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nó xuất hiện là để khóac vẻ đẹp lóng lánh, rực rỡ cho những công việc bình thường mà trước kia chúng ta chẳng hề có.

II. CHÚNG TA PHẢI BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

Muốn theo ơn gọi làm Kitô hữu, chúng ta phải dấn thân làm một cuộc hành trình phiêu lưu gian khổ để theo Chúa Kitô. Dấn thân gợi lên ý tưởng phải liều. Liều đây không có nghĩa là nhắm mắt theo một cách mù quáng, bất chấp tương lai, bất chấp hậu quả tốt xấu, nhưng liều một cách sáng suốt nghĩa là đặït trọn niềm tin vào những lời hứa của Chúa, Đấng hằng trung tín không lừa dối ai, Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài, cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu.

Cuộc hành trình theo Chúa này đòi chúng ta phải “từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày”, nghĩa là phải lột bỏ con người xấu xa tội lỗi của mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Hay nói cách khác, chúng ta phải biến hình hằng ngày để có thể “nhật nhật tân, hựu nhật tân” theo khuôn mẫu của Chúa Kitô.

1. Biến hình đổi dạng là gì ?

Khi nói đến biến hình đổi dạng, ta liên tưởng ngay đến lời thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Eâphêsô :”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em”(Ep 4,22.24). Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai : biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tùy vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy. Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của lối thứ hai.

Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng lòng ta ra…

2. Nhu cầu biến hình đổi dạng

Mọi vật phải luôn luôn đổi mới không thể đứng ỳ một chỗ được. Dòng nước phải lưu thông, nếu không sẽ trở thành một ao nước tù. Sự biến hình đổi dạng cần thiết cho cả phương diện vật chất lẫn tinh thần.

a) Phương diện vật chất

Thân thể con người đổi mới mỗi ngày thì mới có thể tồn tại được. Ngày trước, người ta nói rằng cứ 7 năm, cơ thể con người ta được trùng tu lại một lần hòan tòan mới. Các nhà khoa học ngày nay không nói 7 năm, mà chỉ nói một năm thôi. Mỗi năm một lần, các bộ phận trong cơ thể con người được lần lượt tháo gỡ bỏ đi hết kỹ lưỡng hơn gấp mấy các bác ráp sửa xe và được thay thế bằng những bộ phận khác hòan tòan mới.

Rắn già rắn lột. Con người thì già trẻ gì cũng lột. Chỉ trong vòng 12 tháng là tôi lột bỏ hết con người cũ với xương thịt của nó và mặc lấy một con người mới với xương thịt mới hòan tòan. (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 373-374).

Các nhà khoa học còn cho biết, da của thân xác con người còn được thay đổi nhanh hơn nữa, tính ra da của cơ thể con người sẽ thay đổi hòan tòan mỗi 27 ngày (Báo Thời nay, số ra ngày 04.12.1977, tr 70).

b) Về phương diện tinh thần

Người ta thường nói đến đổi mới tư duy, phải đổi mới nếp nghĩ mới đưa đến tiến bộ trong hành động; những tư tưởng cũ kỹ lạc hậu phải được đẩy lùi để thay vào đó những tư tưởng tiến bộ mới mẻ hơn.

Không có thời nào người ta hay nhắc đến chữ “cách mạng” cho bằng thời nay. Người ta thích luôn đổi mới, chữ cách mạng hiện nay có nghĩa là thay đổi một thể chế, một chế độ cũ xấu xa để xây dựng một chế độ mới tốt hơn. Theo nguyên nghĩa của nó thì chữ cách mạng bao giờ cũng bao hàm một ý nghĩa tốt, thí dụ người ta đã làm một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào thế kỷ 17 để rồi biến thế kỷ 19 thành thế kỷ ánh sáng của khoa học.

c) Về phương diện tâm linh

Con người bị vật dục và những hòan cảnh chung quanh chi phối, làm cho nó đi xa nguồn gốc tốt lành của nó, cần phải làm cho nó trở về tình trạng tốt lành nguyên thủy của nó.

Ông Francis Bacon nói :”Thời thượng cổ trong lịch sử là thời thanh xuân của thế giới : chính chúng ta mới là cổ nhân”. Thời kỳ con người mới được dựng nên là thời kỳ thanh xuân vì con người lúc ấy giống như Đức Chúa Trời trong sự công bình và trong sạch. Mặc dầu thời kỳ hiện nay là thời kỳ nguyên tử vệ tinh, con người cũng không thể đem chính họ trở lại thời kỳ “thanh xuân” được. Ông G. Duhamel nói rằng :”Con người ta dù có là vĩ nhân đi chăng nữa cũng chỉ là con người”.

Cho nên, con người muốn trở nên con Trời, tức là trở lại thời thanh xuân, thì phải được tái sinh theo phương cách mà Chúa Giêsu đã tuyên bố với ông Nicôđêmô :”Quả thật, Ta nói cùng ông, nếu một người chẳng sinh lại thì không thể thấy được Nước Đức Chúa trời” (Ms Hùynh Tiên, Thánh kinh Nguyệt san, số 362, tr 14).

3. Phương cách biến hình đổi dạng

Cuộc sống tâm linh của con người thời nay sẽ xuống dốc vì họ không muốn đi theo con đường của Chúa, con đường thập giá mà đi theo một con đường dễ dãi. Mục sưOscar Cullman, một nhà thần học Tin lành được mời diễn thuyết cho một số nhà trí thức công giáo họp tại Strasbourg ở Pháp, về cuộc khủng hỏang sau công đồng Vatican II, ông nói:

“Cuộc khủng hỏang hiện nay không phải chỉ xẩy ra trong Giáo hội Công giáo, chính trong Giáo hội Tin lành của chúng tôi cũng không thóat khỏi. Một trong lý do là Kitô hữu không chấp nhận sự điên dại của thập giá Chúa, như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh hy sinh, tránh khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn tự do theo ý riêng họ. Họ muốn theo Chúa Giêsu lúc Người biến hình trên núi Taborê, nhưng dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không trèo lên núi Thập giá” (Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa A, tr 49).

Chương trình biến hình đổi dạng của chúng ta là làm một cuộc cách mạng bản thân trong hai chiều hướng tiêu cực và tích cực.

a) Phương diện tiêu cực

Mọi người đều có khuyến điểm, sai phạm, yếu đuối và sa ngã. Đặc biệt là khi qui chiếu với Tin mừng của Đức Giêsu. Có nhận ra sự mỏng dòn của thân phận con người thì mới cố gắng để biến đổi cuộc sống của mình. Đồng thời trong cuộc sống, nếu ai cũng có một lý tưởng để hướng tới, nếu ai cũng có một mục đích để dõi theo, hay luôn để ý tìm kiếm một sự hòan thiện, sự trọn hảo, thì chắc chắn thế giới này đã có nhiều biến chuyển rất khác so với thực tế xã hội hiện nay.

Theo thánh Phaolô, con người cũ là con người hành động theo xác thịt không theo luật của lương tri, họ sống buông thả cho mọi khuynh hướng sống. Không ai sống cho chính mình (Rm 14,7). Nhưng biết bao người chỉ sống cho mình họ, cho thỏa nguyện của họ :”Tất cả những người lấy cái bụng làm Chúa, những người đặt vinh quang của họ trong những việc chỉ làm cho họ xấu hổ vì chỉ thích những cái gì phàm tục”(Pl 3,19).

Suy nghĩ thực tế về con người mình, một nhà quân tử đã thốt lên :

“Tôi chưa có kinh nghiệm thế nào là lương tâm của một kẻ sát nhân, nhưng tôi đã biết thế nào là lương tâm của một người quân tử : thực là ghê tởm ! Người quân tử là người dám thành thật với mình, dám nhìn thẳng vào cõi lòng mình, không dối mình, dối người, cũng chẳng dối trời. Đúng vậy : “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.

Truyện : gột rửa óc tội phạm.

Tin từ Toronto (Canada) cho hay : công cuộc giải phẫu để rửa óc con người đã hòan thành và chứng minh được là ý nghĩ con người sẽ hòan tòan thay đổi bằng những tác dụng mạnh vào tinh thần của đương sự.

Các nhà bác học Hoa kỳ đã nghĩ đến cách xử dụng việc giải phẫu nói trên để gột rửa óc của những kẻ phạm trọng tội, biến những kẻ khát máu này thành những “con cừu non ngoan ngõan”.

Giáo sư James Mc Connel tại đại học đường Michigan đã tuyên bố với báo chí :”Hiến pháp Hoa kỳ cho phép con người được tự do hành động theo lý trí của họ, thì để cho công bằng, Hiến pháp cũng phải để cho người ta được phép tiêu diệt những khuynh hướng giết người trong đầu óc những kẻ sát nhân”.

b) Phương diện tích cực

Cách mạng không có nghĩa là chỉ phá đổ cái cũ đi là xong, nhưng còn phải xây dựng một cái gì tốt hơn. Bước đầu của cuộc cách mạng bản thân là hủy bỏ tất cả những tính hư tật xấu của con người và buớc thứ hai là phải xây dựng con người theo một khuôn mẫu nào đó.

Chúng ta phải “canh tân” con người mình. Canh tân là làm cho tình trạng xấu hóa thành tình trạng tốt. Canh tân con người nội tâm không phải chỉ thay đổi những cái phụ tùy bên ngòai, nhưng là thay đổi hẳn tình trạng, phải có một sự chuyển biến từ nội tâm, nếu không thì người ta sẽ chê trách :

Thay quần, thay áo, thay hơi,

Thay dáng thay dấp, mà người chẳng thay.

(Ca dao)

Chúng ta hãy chọn cho mình một “Thần tượng”. Con người được gán danh hiệu thần tượng là được tôn thờ, hoan nghênh như một vị thần. Thực ra thần tượng không những được người ta tôn thờ như vị thần, đặt hết lòng tin, niềm kiêu hãnh trong đó, nhưng hơn nữa còn ao ước, mong muốn mình được huyền đồng với thần tượng của mình. Do đó, người được tôn sùng là thần tượng là người đã được đồng hóa như vị thần và có thể bắt chước rập khuôn những điệu bộ, lối sống, cách phục sức… Ta nhận định : đi trong hành trình cuộc đời, con người khi đã cảm thấy mình đuối sức, tâm hành bất nhất, họ sẽ tìm bám víu lấy một thần tượng để trao phó cho thần tượng, gửi gắm cho thần tượng ước vọng tiến mãi của mình. Người ta nhận ra trong thần tượng những ưu điểm mà mình không có, và cố với lấy những ưu điểm này (Chiêu Anh, Nội san Đồng tiến, 1972, tr 39).

Chúng ta hãy chọn Đức Giêsu là thần tượng vì Ngài là “Đường. Là chân lý và sự sống”(Ga 14,6), Ngài có mọi đức tính của một con người hòan hảo nhất và Ngài dạy rõ ràng và công khai :”Các con chỉ có một người Huấn đạo là Đức Kitô”(Mt 23,10). Lời dạy của Ngài đã được ghi chép trong Tin mừng, hãy đọc và thực hành.

Truyện : Hòang tử lưng gù

Có một hòang tử vừa đẹp trai vừa văn võ song tòan. Nhất là có thái độ khiêm tốn hòa nhã với mọi người, nên rất được lòng vua cha và bá quan trong triều. Hòang tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái lưng bị gù từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật ấy mà chàng có mặc cảm tự ti không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng. Triều đình có cái lệ này là tạc tượng các nhân vật trong hòang tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bầy tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân đến chiêm ngưỡng.

Năm đó, hòang tử của chúng ta cũng tròn 20 tuổi. Dù không muốn người ta tạc tượng cho mình, nhưng chàng không dám trái lệnh vua cha. Có một điều là chàng xin vua cha hai điều và được chấp thuận : một là bức tượng của chàng phải được tạc ở thế đứng thẳng người chứ không bị gù lưng. Hai là bao lâu chàng còn sống thì không được trưng bầy bức tượng ấy, mà chỉ được đặt trong phòng riêng của chàng.

Từ khi có bức tượng, mỗi ngày hòang tử đều đến gần ngắm nhìn ảnh mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước thế đứng thẳng người của bức tượng. Và sau một thời gian, mọi người trong hòang cung đều vui mừng nhận thấy hòang tử không còn gù lưng nữa, trái lại, chàng luôn có dáng vẻ hiên ngang oai vệ xứng đáng như một hòang tử. Cũng từ đó, chàng đồng ý cho trưng bầy bức tượng của mình tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng.

[Mục Lục]

Bài 16. CHÚA HIỂN DUNG
R. Veriatas

Trong phụng vụ Chúa nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình. Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisê và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.

Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cũng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu vẫn hằng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân. Bằng những cách thế khác nhau, qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.

Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dân như sau:

“Anh không nghe thấy ư?
Bước chân Người thầm lặng
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.

[Mục Lục]

Bài 17. DÕI BƯỚC THEO CHÚA
R. Veritas

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

[Mục Lục]

Bài 18. “BẢN TÍNH KHÓ DỜI”
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại. Nhưng cả làng Vũ Ðại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giê-su. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giê-su. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 19. CHÚA GIÊSU HIỂN DUNG
Lm. Giuse Đinh Tất Quý

A- Anh chị em thân mến,

Chúng ta vừa nghe một bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chúa biến hình trên một ngọn núi cao. Đây là một câu chuyện rất đặc biệt cho nên đã được cả ba Phúc Âm nhất lãm: Matthêu, Máccô và Luca đã thuật lại. Nếu đọc lại và so sánh thì chúng ta sẽ thấy cả ba tường thuật lại câu chuyện này theo một bối cảnh chung xuất phát từ truyền thống có trước. Đại cương thì sự việc diễn tiến như sau:

- Phêrô tuyên xưng đức tin.

- Chúa loan báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người lần thứ nhất.

- Chúa đưa ra những điều kiện để được theo Chúa.

- Chúa biến hình.

- Chúa loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh lần của Người lần thứ hai.

- Chúa lên Giêrusalem để chịu tử nạn và sau đó Chúa Phục sinh.

Câu chuyện biến hình của Chuá xẩy ra vào giữa những biến cố rất quan trọng vào cuối cuộc đời của Chúa. Như vậy nó phải mang một ý nghĩa nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

B- Chúng ta tự hỏi: Chúa biến hình để làm gì?

Mục đích của việc Chúa Giêsu biến hình hay hiển dung trên núi trước mặt ba môn đệ không phải là để cho các ông dựng lều ở lại ngay trên đó. Nhưng là để giúp các môn đệ nhận ra thiên tính của một Con Người mà họ đang cùng đồng hành và nói chuyện với họ. Con Người đó không phải chỉ là người nhưng còn là Con Thiên Chúa. Lần thứ nhất Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài bên sông Giođan. Và đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài trên núi cao. Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ bởi vâng lời Thánh ý của Thiên Chúa Cha đến đổ máu chết trên thập giá. Núi Tabor nơi Chúa biến hình tỏ vinh quang của Ngài là dấu báo trước chuẩn bị cho cảnh hy sinh trên núi Canvê.

Sau khi chứng kiến Chúa biến hình thì các môn đệ đã có cơ hội biết rõ hơn Thầy của họ thực sự là ai, và họ được hưởng nếm trước cái vinh quang và hạnh phúc đang chờ đón họ bởi việc đi theo Ngài. Đây cũng là sự chuẩn bị tinh thần cho họ để khi Thầy của họ bị xỉ nhục bắt bớ thì họ không bị mất niềm tin mà thất vọng.

Thực ra, thoạt đầu khi bước theo Chúa Giêsu cả ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng như các môn đệ khác đã không biết cái giá họ phải trả khi theo Chúa như thế nào. Chính vì thế mà khi được chứng kiến dung nhan vinh quang của Chúa Giêsu trên núi, họ đã sung sướng ngất ngây và muốn ở lại luôn trên đó. Nhưng chương trình của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa không như thế. Ngài đã dẫn họ xuống núi trở lại và ngăn cấm không cho họ nói với ai về những gì họ đã thấy cho đến khi “Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Ngài đã trích dẫn lời chép về Ngài, “Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ” (Mt 16,21). Nhưng họ vẫn không hiểu và hỏi nhau, “Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?”

C- Qua việc tường thuật là biến cố Chúa biến hình hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta điều gì? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội muốn cho chúng ta hãy nghe Lời Đức Kitô

Trách nhiệm của Kitô hữu chúng ta là mở tai, mở lòng và mở trí để đón nhận những gì Chúa Giêsu giảng dạy và làm gương bằng cuộc sống của Ngài. Lắng nghe lời Ngài không có nghĩa là chỉ nghe những gì Ngài nói, nhưng còn phải chú ý đến những gì Ngài đã làm; đi theo con đường Ngài đã đi; bắt chước cách Ngài đã làm trong việc xử sự với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài không phải chỉ bằng việc ca hát tôn vinh, xin ơn và tạ ơn. Nhưng còn bằng việc dốc tâm dấn bước sống theo gương của Ngài. Chúng ta đi theo Ngài lên núi để cảm nghiệm niềm hạnh phúc vinh quang để rồi lại cùng Ngài xuống núi trở về với những phận vụ hằng ngày, đi vào vườn cây dầu để đổ mồ hôi máu, hành trình trên khắp nẻo đường để rao giảng Phúc Âm và làm việc thiện. Sau cùng tiến thẳng lên Giêrusalem, nhận lấy bản án, vác thập giá, và tiến lên đồi Canvê để chịu chết.

Con đường Đức Kitô đi đã thay đổi lịch sử nhân loại.

Con đường Đức Kitô đi đã mang lại ơn cứu rỗi cho loài người.

Con đường Đức Kitô đi đã làm thỏa lòng Thiên Chúa Cha.

Con đường Đức Kitô đi đã hấp dẫn nhiều tâm hồn.

Đó cũng là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo.

Việc nghe Chúa, đi theo Chúa dứt khoát phải làm cho chúng ta biến đổi. Biến đổi như thế nào thì thánh Phaolô đã gợi ý: “Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”.

Xin đơn cử một thí dụ để minh họa.

Một nhóm doanh nhân đi dự một buổi họp ở Chicago. Họ đã dặn vợ con ở nhà là sẽ trở về nhà để kịp bữa tối. Nhưng rồi cứ hết việc này lại giây sang việc kia khiến cho cuộc họp kéo dài hơn dự định. Sau khi kết thúc họ đã vội vàng chạy ra phi trường cho kịp chuyến bay. Khi họ hấp tấp chạy tới cổng phi trường thì không may một người trong họ đụng vào một chiếc bàn có để một rổ táo của một cô bé đang đứng bán. Tất cả đã không dừng lại, cứ cúi đầu chạy thẳng để kịp chuyến bay. Khi đến nơi họ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi một người trong nhóm đã ý thức được mình phải làm gì để cảm thông với cô bé bán táo kia. Anh đã giơ tay ra chào các bạn và quay trở lại. Anh thấy vui vì đã làm như thế. Anh nhận ra cô bé bán táo là một cô gái mù. Anh đã thu lượm các trái táo đổ lăn trên trên lối đi. Anh nhận ra có một số trái táo đã bị dập bể. Anh liền móc túi lấy bóp ra và nói với cô bé bán táo mù đó rằng, “Đây xin cô cầm lấy 10 dollars để đền bù cho thiệt hại chúng tôi đã gây ra. Tôi hy vọng cô không buồn.”

Khi người thanh niên vừa quay bước đi thì cô bé mù đó sửng sốt hỏi: “Thưa ông! Ông có phải là Chúa Giêsu không?”

Câu hỏi đó đã làm cho người doanh nhân suy nghĩ.

Bạn và tôi, chúng ta có phải là Giêsu không? Chúng ta có đi con đường Giêsu đã đi không? Chúng ta có hành xử như Giêsu đã hành xử không?

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa

trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa

trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

[Mục Lục]

Bài 20. Vinh quang
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc.” (St 12,2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Dothái thuộc dòng dõi của Tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 trước Công nguyên, dòng dõi con cháu của Tổ phụ Abraham đã rời nước Aicập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công nguyên, Vua David đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua David là vua Salômôn đã xây dựng Đền thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 trước Công nguyên, Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 trước Công nguyên, con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70, Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Dothái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, nước Dothái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Dothái (State of Israel). Và nhờ sự quả cảm dũng lực của thần dân Dothái từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2.000 năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Dothái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin Mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Tabo và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: “Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc.” (St 12,3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: “Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.” (Mt 17,2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các Tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môsê và tiên tri Êlia và ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: “Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.’” (Mt 17,5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản, dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi hội đường, nhưng đã rong ruổi khắp chốn quy tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dạy dỗ sự thật về Nước Trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hoá lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền Tin Mừng cứu độ: “Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa.” (2 Tm 1,8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đày và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin Mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin Mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: “Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng.” (2 Tm 1,10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

[Mục Lục]

Bài 21. ĐỨC GIÊSU MẠC KHẢI VINH QUANG PHỤC SINH
Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP Sài gòn

“Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông.
Dung nhan Người chói lọi như mặt trời
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2)

I. CÁC BÀI ĐỌC

Đức Giêsu tỏ lộ vinh quang của Người cho ba môn đệ trên một ngọn núi ở Galilê. Nhưng trước khi đạt tới vinh quang Phục Sinh, Đức Giêsu phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, trải qua những thử thách đau khổ trong cuộc thương khó. Các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình cũng được Đức Giêsu nhắc nhở rằng các ông chỉ được phép nói về biến cố này sau khi Người từ cõi chết sống lại. Họ chỉ hiểu được vinh quang của Đức Giêsu khi chứng kiến cuộc khổ hình và sự phục sinh của Người. Đức Giêsu chiến thắng sự chết và tội lỗi bằng chính hiến tế của mình trên thập giá. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ kế hoạch của Ngài và tình yêu hiến tế của Đức Giêsu mà chúng ta hưởng nhận ơn cứu độ.

1. Bài đọc I (St 12,1-4a)

Đoạn sách Sáng Thế hôm nay kể lại sự vâng phục của Abram trước tiếng gọi của Thiên Chúa: “Đức Chúa phán với Abram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Abram đã ra đi đến vùng đất mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông, mặc dù ông không biết nơi ông đến. Ông đáp lại lệnh truyền của Thiên Chúa một cách mau mắn, bởi ông đặt niềm tin vào Ngài cách tuyệt đối: “Abram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông”. Vào thời của Abram, việc rời bỏ gia đình, bộ tộc, quê hương là một điều sống còn và hệ trọng. Nhờ sự vâng phục của Abram, Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng của Ngài. Lời hứa ấy được thực hiện. Dân Do Thái thừa hưởng đất mà Thiên Chúa hứa ban và nhiều dân tộc trên trái đất được chúc phúc qua Abram. Chúng ta cũng là những con cháu của Abram và là những người thừa hưởng lời chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng trên hết, sự chúc lành ấy được thể hiện cách trọn vẹn và cụ thể qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Đấng mang ơn cứu độ và đem chúng ta tới “Nước Trời” là đất hằng sống nơi Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta thừa hưởng tất cả những ơn lộc này nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu trước thánh ý của Thiên Chúa Cha.

2. Bài đọc II (2Tm 1,8b-10)

Thánh Phaolô nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa là do ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của cho con người: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng do kế hoạch và ân sủng của Người”. Ân sủng này Thiên Chúa ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Người đã chấp nhận mang lấy thân phận con người, tự hiến trên thập giá để trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người: “Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết và dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử”. Đây là những lời xác tín của Phaolô muốn truyền đạt cho Timôthê, người đồ đệ của mình và cho cả chúng ta nữa, những người thuộc về Đức Kitô. Quả thật, Đức Giêsu Kitô là Đấng hiện thực lời hứa cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại.

3. Tin Mừng (Mt 17,1-9)

Ngay sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó cho các môn đệ (x. Mt 16,21), Đức Giêsu biểu lộ cách công khai về vinh quang Phục Sinh của Người cho Phêrô, Gioan và Giacôbê trên một ngọn núi cao ở Galilê. Trong cuộc biến hình này, Thiên Chúa Cha mặc khải căn tính đích thực của Đức Giêsu: “Có tiếng từ đám mây phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Hình ảnh của Môsê và Êlia xuất hiện bên cạnh và đàm đạo với Đức Giêsu mang nhiều ý nghĩa. Hôm nay Đức Giêsu tỏ lộ căn tính của mình cho các môn đệ như Môsê được Thiên Chúa mặc khải cho biết căn tính của Ngài trên núi Sinai và ngôn sứ Êlia cũng được Thiên Chúa tỏ lộ căn tính của mình trên núi Khôrếp qua một cơn gió thoảng nhẹ (x. 1 V 19,9-18). Hình ảnh Môsê và Êlia đứng bên cạnh Đức Giêsu muốn nói lên rằng Đức Giêsu là Đấng mà Lề Luật và các ngôn sứ nói đến. Người là Đấng hoàn tất lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, qua cuộc biến hình của Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn truyền đạt cho các môn đệ một sứ điệp quan trọng đó là “các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Tất cả những Lề Luật và lời các ngôn sứ giờ đây được hội tụ nơi Đức Giêsu. Vâng nghe lời Đức Giêsu là vâng nghe thánh ý Thiên Chúa. Hãy đem lời Đức Giêsu vào trong cuộc sống. Việc Đức Giêsu cho các môn đệ cảm nghiệm cuộc biến hình và vinh quang là để chuẩn bị cho các môn đệ về cuộc thương khó của Người tại Giêrusalem. Đức Giêsu phải trải qua đau khổ để bước vào vinh quang Phục Sinh. Chính vì thế, Người cấm các môn đệ nói về kinh nghiệm biến hình trước khi Người phục sinh.

II. GỢI Ý MỤC VỤ

1. “Đức Chúa phán với Abram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi … Abram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông”. Abram đặt lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa và ông cũng phải trải qua những thử thách để tinh luyện đức tin của mình, trước khi thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa. Đức tin của tôi như thế nào? Cuộc sống của tôi có diễn tả được sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa?

2. “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng do kế hoạch và ân sủng của Người”. Con người hưởng cứu độ nhờ ân huệ của Thiên Chúa ban cho, chứ không do công trạng của riêng mình. Tôi có cảm nghiệm được ơn sủng cao cả này trong đời sống thiêng liêng của mình? Tôi có khiêm nhường phó thác cuộc sống mình vào sự chở che của Thiên Chúa?

3. “Có tiếng từ đám mây phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Thiên Chúa mặc khải căn tính đích thực của Con Ngài cho các môn đệ và truyền lệnh cho họ vâng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Tôi có thực hiện lời truyền dạy của Thiên Chúa Cha? Tôi có vâng phục và thực hành những lời dạy của Đức Giêsu trong cuộc sống?

III. LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu Kitô đã bày tỏ vinh quang của Người nhằm giúp các môn đệ và tất cả chúng ta thêm vững lòng tin mà bước theo Người trên đường thương khó. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa và sốt sắng dâng lời cầu nguyện:

1. Chúa nói với Abram: “Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được chúc phúc.” Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn gắn bó mật thiết với Đức Kitô tử nạn và phục sinh, hầu trở nên dấu chỉ tình thương và phúc lành của Thiên Chúa cho thế giới.

2. Đức Kitô đã dùng Tin Mừng làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trên thế giới chưa tin nhận Chúa có điều kiện tiếp cận với Tin Mừng nước trời, tin nhận Đức Kitô là Đấng cứu thế, hầu được thừa hưởng sự sống đời đời.

3. Ông Phêrô thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu biết tích cực sống mùa Chay thánh qua việc tham dự những cử hành phụng vụ của Hội Thánh, và đón nhận nhiều hiệu quả từ những cử hành ấy.

4. Tiếng Chúa Cha phán từ trời: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết say mê học hỏi Thánh Kinh và nỗ lực thực thi lời Chúa, để xứng đáng là con yêu dấu của Cha trên trời.

Chủ tế: Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa mời gọi chúng con vâng nghe và bước theo Con yêu dấu của Chúa là Đức Giêsu Kitô để được hưởng sự sống đời đời. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và gia tăng niềm tin yêu hy vọng nơi mỗi người chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

[Mục Lục]

Bài 22. MÙA CHAY ĐỔI MỚI TÂM HỒN
Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 17,1-9.

2. Ý CHÍNH: MÙA CHAY BIẾN ĐỔI TÂM HỒN

Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su. Các ông là những người nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giê-su đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền thống xa xưa, thì đó là núi Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung Hải, nhưng do nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm tưởng là một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao 2.795m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giê-su thời Tân Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước Trời trong thời kỳ cánh chung hay tận thế (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên tính vinh quang của Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói lọi như mặt trời” là biểu hiện thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thuộc về thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

- C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Hai vị này đàm đạo với Đức Giê-su về cái chết của Người sắp được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Qua đó cho thấy toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. + Dựng ba cái lều: Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,14).

- C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a trong ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giê-su chính là vị Ngôn Sứ Mới sẽ xuất hiện thay thế Mô-sê vào thời cánh chung (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng khiếp sợ mà con người thường biểu hiện khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).

- C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giê-su đã ra lệnh các môn đệ giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt, thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giê-su là Thầy dạy Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. + “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai trò của Người mới được hiểu đúng theo thánh ý của Thiên Chúa.

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giê-su cho chứng kiến cảnh Người biến hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào? Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng được biến hình giống như Đức Giê-su ở đây? 4) Việc Đức Giê-su biến đồi dung nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện cho ai? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giê-su xoay quanh đề tài nào? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng trưng cho điều gì? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định gì về sứ mạng của Đức Giê-su? 8) Tại sao Đức Giê-su đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới chứng kiến?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) VỊ HOÀNG TỬ CHIẾN THẮNG ĐƯỢC DỊ TẬT GÙ LƯNG:

Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật bẩm sinh này mà chàng luôn mang mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước dân chúng. Triều đình có lệ này là tạc tượng các nhân vật thuộc hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng do không dám trái lệnh vua cha, nên chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không gù lưng. Hai là chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng khi chàng còn sống.

Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại càng ngày chàng càng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống y như bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi đã sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của chàng tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.

2) KHỎI BỆNH UNG TƯ NHỜ TIN CẬY VÀO THÁNH GIÁ CHÚA:

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Sa-lê-siên ở thành phố Cáp tại Ha-i-ti, muốn nhờ điêu khắc gia nổi tiếng là PÊ-RI-KHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị, trong lúc ông đã bị mắc bệnh ung thư sang thời kỳ cuối.

Các nữ tu đã cử một chị cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về yêu cầu này. Hôm đó viên bác sĩ của Pê-ri-khết cũng đang có mặt khám bệnh cho Pê-ri-khết. Ông nói với chị nữ tu:

- Lẽ ra chị đã phải đến đây từ lâu mới đúng. Còn bây giờ rất tiếc căn bệnh ung thư của ông Pê-ri-khêt đã trở nên quá nặng. Sau đó viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:

- Ông là tín hữu công giáo. Từ nay ông chỉ nên đặt trọn niềm tin vào Chúa để chữa bẹnh thôi. Còn những chuyện khác thì xin ông đừng quan tâm tới nữa.

Pê-ri-khêt đã nghe lời khuyên của viên bác sĩ điều trị cho mình nên từ ngày đó ông không còn thiết tha với việc cầm bút vẽ và điêu khắc để sáng tác bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác. Tuy nhiên ít ngày sau, chị nữ tu kia lại xuất hiện gặp nhà điêu khắc và tiếp tục năn nỉ:

- Này ông Gio-va-ni Pê-ri-khêt. Chị em nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp rất mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết rõ khả năng Chúa ban cho ông. Hôm nay trước khi trả lời dứt khoát cho nhà dòng, tôi đến đây xin hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi cuối cùng ông nói với chị nữ tu:

- Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng tôi thực hiện trước khi về với Chúa, và tôi xin các chị em nữ tu cầu cùng Chúa ban ơn giúp tôi hoàn thành công việc này.

Thế là sau đó nhà điêu khắc bắt tay làm việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong sớm được gặp Chúa. Đây quả thật là một công việc rất nặng nhọc đối với một bệnh nhân ung thu ở thời kỳ cuối như Pê-ri-khết. Nhưng chính ông lại cảm thấy có một điều gì rất lạ lùng đang diễn ra nơi mình: Mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông bị mất sức mệt mỏi, thì lại làm cho ông như được thêm sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày này qua ngày khác như không hề bị bệnh cho đến khi hoàn thành được tác phẩm tuyệt đẹp là cây thánh giá vô giá. Ông thấy mình cũng đã hồi phục sức khỏe trở lại. Chính Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh ung thư cho Pê-ri-khết, giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác nhờ lòng tin biểu lộ qua lòng cậy trông và yêu mến Chúa. Pê-ri-khêt tưởng rằng cây thánh giá ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng ông thực hiện để chuẩn bị chết lành, nhưng với niềm tin cậy phó thác cao độ, thể hiện qua sự không ngừng cầu nguyện kết hiệp với Chúa đang khi làm việc, Pêrikhêt đã được Chúa biến đổi và chữa lành bệnh ung thư thời kỳ thứ ba cách đặc biệt. Đây là hình ảnh ơn cứu độ mà Chúa Giê-su đã, đang và sẽ còn mang đến cho nhân loại chúng ta.

Ngày nay, cây thánh giá do Pê-ri-khết thực hiện vẫn đang được treo trong gian thánh nhà thờ tu viện Sa-lê-siên thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái: Mỗi ngày rất nhiều người khỏe mạnh hay đau yếu đã hiện diện tại đây để kính viếng và ai nấy ra về đều nhận được hồng ân biến đổi cả phần hồn lẫn phần xác.

3. SUY NIỆM:

1) Về hoàn cảnh cuộc biến hình của Đức Giê-su :

Cuộc biến hình đã xảy ra sau khi Đức Giê-su tiên báo về cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem để trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cuộc biến hình này như sau: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,22-23).

2) Về cuộc biến hình của Đức Giê-su:

- Cuộc biến hình của Đức Giê-su đã diễn ra trước mặt ba môn đệ thân tín là: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao khi Người đang cầu nguyện: Khuôn mặt của Người “chói lọi như mặt trời” giống như khuôn mặt sáng ngời của ông Mô-sê sau khi được gặp Đức Chúa (x. Xh 34,29-35). Y phục của Người “trắng tinh như ánh sáng” biểu hiện cho vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

- Có hai nhân vật Cựu Ước là ông Mô-sê đại diện Luật Pháp và ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ hiện ra đàm đạo với Người, cho thấy Tân Ước tiếp nối Cựu Ước và Đức Giê-su đến không phá hủy Lề Luật Mô-sê hay lời sấm của các ngôn sứ, nhưng để làm cho nên hoàn thiện. Điều đáng lưu ý là trong khung cảnh vinh quang ấy, Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và cùng nhau đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem. Qua đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa hai biến cố tử nạn và phục sinh mà biến hình chỉ là sự hé mở phần nào cho thấy vinh quang của Đức Giê-su sau khi sống lại, hầu giúp các môn đệ khỏi bị thất vọng khi chứng kiến cuộc tử nạn đau thương của Người trên thập tự.

- Ngoài ra còn có đám mây xuất hiện tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” (Mt 17,5). Qua đó Chúa Cha đã chính thức xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới thời kỳ Cánh Chung, đúng như Mô-sê xưa có lần đã báo trước cho con cái Ít-ra-en như sau: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15).

3) Về các điều kiện để được biến hình giống Đức Giê-su:

Mùa Chay là mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian thuận tiện để các tín hữu lên núi cao của lòng mình để đối diện với Thiên Chúa và cầu xin Ngài giúp biến đổi nên giống Đức Giê-su hầu chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh sắp đến. Muốn thay đổi con người mình, chúng ta cần bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Muốn bỏ mình đi thì việc trước hết là phải nhận biết mình có những điều tốt điều xấu, các thói hư quan trọng cần phải tu sửa, vì “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”.

- Lên núi là vào trong lòng mình để cầu nguyện: Trong mùa Chay, chúng ta cùng các môn đệ Đức Giê-su đi theo Người lên núi cao, nghĩa là siêng năng tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay. Trong bầu khí thinh lặng của lòng mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Cầu nguyện là điều kiện tiên quyết để được ơn biến đổi chói lọi như mặt trời như Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay (x. Mt 17,2) hoặc như ông Mô-sê được biến đổi diện mạo nên sáng ngời khi ông đang ở trên núi Xi-nai với Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35).

Thế giới hôm nay thiếu những con người cầu nguyện, và thừa những con người lăng xăng hiếu động… Có ba môn đệ cùng ở trên núi với Đức Giê-su, nhưng chỉ mình Người mới có sự thay hình đổi dạng nhờ sự cầu nguyện đàm đạo với Chúa Cha, đang khi ba ông kia lại mê ngủ. Về sau tại núi Cây Dầu, một lần nữa ba ông này lại mê ngủ đang lúc Thầy các ông canh thức cầu nguyện. Do đó, dù cùng lên núi với Thầy, nhưng các ông vẫn trơ trơ không thay đổi để nên tốt hơn. Trong cuộc sống hiện tại đầy vất vả cạm bẫy và thử thách, chính nhờ sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận Thần Khí soi dẫn, các tín hữu chúng ta mới không bị hoang mang sợ sệt, mê ngủ hoặc trốn trách nhiệm đối với công việc chung của Hội Thánh…

- Hãy vâng nghe lời Người! : Yếu tố thứ hai giúp các tín hữu được ơn biến đổi chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Đang lúc hiển dung, Ðức Giê-su đã được Chúa Cha giới thiệu: “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! “ (Mt 17,5). Ngày nay muốn được ơn biến đổi nên giống Đức Giê-su, chúng ta cần tin Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, chuyên cần lằng nghe Lời Người và xin Thánh Thần giúp chúng ta sống theo Lời Chúa dạy nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội.

Trong những ngày Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc sống đời thường, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày để được nghe lời Chúa phán dạy trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, và sau đó được hiệp thông với Chúa Giê-su Thánh Thể trong phần Phụng Vụ Thánh Thể khi rước lễ. Ngoài ra, chúng ta cũng phải chuyên cần tham dự tĩnh tâm Mùa Chay cả cộng đoàn hay riêng từng lứa tuổi, chăm chỉ tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng hay Chia sẻ Lời Chúa hằng tuần theo nhóm nhỏ của các hội đoàn tông đồ giáo dân…

- Đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa: Tuy nhiên để có thể chuyên cần dự lễ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng, sẵn sàng vâng nghe Lời Chúa Giê-su như lời Chúa Cha truyền dạy, mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của Thần Khí Thiên Chúa để năng cầu xin ơn Ngài trợ giúp khi đọc kinh dự lễ, biết mở lòng đón nhận các ơn Chúa và luôn theo Thần Khí hướng dẫn như Đức Giê-su xưa. Chính nhờ Thần Khí cua Chúa Phục Sinh được thổi trên các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh và nhất là Thần Khí của Chúa Phục Sinh đã biến thành gió bão đầy sức mạnh và ngọn lửa cháy sáng đức tin… mà chúng ta sẽ hy vọng được biến đổi nên một con người trưởng thành về nhân cách, nên người tín hữu đạo đức luôn có lối sống đẹp lòng Chúa Cha noi gương Đức Giê-su, năng thực tập sông giới răn yêu thương để nên môn đệ đích thực của Người (Ga 13.34-35), tích cực dấn thân đi loan báo Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Chúa Giê-su ngay trong môi trường sống và làm việc của mình x. Mt 28,19-20), luôn sống tình mến Chúa yêu người như kinh Thương Người có Mười Bốn Mối, trở nên khí cụ gieo rắc bình an hòa thuân trong gia đình cũng như khu xóm, giáo xứ và bất cứ nơi nào mình đang sông như Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô đã ký nhận.

4. THẢO LUẬN:

1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để trở nên tốt hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo hiện tại, để xứng đáng được Thiên Chúa xác nhận là “Con rất yêu dấu” như Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay? 2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giê-su ?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. xin biến đổi con, xin biến đổi cuộc đời con từng bước qua lời cầu nguyện:

Xin biến đổi cái nhìn của con mỗi lần con chiêm ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và nghe lời Chúa phán dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,29).

Xin biến đổi môi miệng con mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa vào lòng.

Xin biến đổi tai con mỗi lần con nghe Lời Chúa trong Sách Thánh tại nhà thờ hay tư gia.

Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời hơn mỗi lần con được gặp gỡ Chúa.

Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con với tha nhân chung quanh.

Lạy Chúa. Thế giới hôm nay không cần những tín hữu mang bộ mặt buồn chán thất vọng. Xin cho chúng con luôn biết nhẫn nại và can đảm đồng hành với Chúa và với các anh em trên những nẻo đường đức tin nhiều sỏi đá để cuối cùng mới đến được với Thiên Chúa là nguồn vui, niềm tin cậy và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 
Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log