Thứ bảy, 23/11/2024

Đồng hành Khôi Bình tháng 05-2015

Cập nhật lúc 22:05 04/05/2015


Lời ngỏ

Download file docx


Các bạn Khôi Bình thân mến,
Có lẽ, không một ai trên Đất Việt là người Công giáo mà lại không biết đến tháng Năm là tháng Hoa dâng kính Mẹ. Thật vậy, sinh hoạt tôn giáo tại các giáo xứ cứ mỗi dịp tháng Năm về, ấy là lúc muôn con tim dạo rực hướng về Mẹ Maria như một ngọn hải đăng để tỏ lòng tôn kính, mến yêu. Trong số vô vàn cách tỏ bày lòng tôn kính đối với Đức Mẹ nơi con dân Nước Việt, thì lòng đạo đức bình dân như: dâng hoa kính mẹ; tiến hoa, rước kiệu Mẹ; lần chuỗi Mân côi; rồi những bài thánh ca hết sức dễ thương được cất lên để tôn vinh Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc.
Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào tháng Hoa. Tháng Hoa đối với Giáo hội Công giáo mang một ý nghĩa đặc biệt vì được dành riêng để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Trong tháng Hoa này, một tháng trong năm được Giáo hội đặc biệt dành dâng kính Mẹ Maria, xin các bạn hợp lòng cùng toàn thể mọi thành phần Dân Chúa, cùng dâng Mẹ những bó hoa thiêng liêng của cuộc sống chúng ta đó là: Siêng năng lãnh nhận Bí tích Hoà giải và Thánh Thể, sửa đổi các thói hư tật xấu, siêng năng đọc kinh lần hạt Mân côi chung trong gia đình và riêng tư, quảng đại chia sẻ với người nghèo, bệnh tật, v.v… để tỏ lòng yêu mến Mẹ Maria một cách cụ thể.
Xin Mẹ giữ cho các bạn luôn có tấm lòng trinh trong để vâng phục và hết lòng yêu mến Thiên Chúa; đồng thời, để thấy công trình của Chúa thực hiện nơi các bạn.
Trung kiên với Khôi Bình,
Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn
LMĐHGĐKB. Hạ Hiệp
I. CHIA sẺ LỜI CHÚA: CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Cv 1,1-11;  Ep 4,1-13;  Mc 16,15-20
Cách đây 40 ngày chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh. Trong vòng 40 ngày Chúa còn tiếp tục huấn luyện các tông đồ, hiện ra với các ông lúc này lúc kia để củng cố đức tin của các ông. Biến cố mà Phụng vụ kính nhớ hôm nay là lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu. Cùng với biến cố lên trời này, Chúa chấm dứt thời gian hiện diện bằng thân xác trong trần gian này, và khai trương một sự hiện diện mới. Nhìn bên ngoài cuộc đời của Đức Giêsu cũng giống như cuộc đời của mọi người. Thánh Phaolô đã tóm tắt cuộc đời của Chúa trong một câu ngắn ngủi “sinh ra bởi người nữ, sinh dưới quyền lề luật” (Gl 4, 4). Trên bình diện thể xác Đức Giêsu cũng là con của một người phụ nữ như tất cả chúng ta. Người cũng có một thân xác, biết cảm xúc như chúng ta. Trên bình diện xã hội, Người đã sống phục tùng ông Giuse và bà Maria và các thứ lề luật Do thái bấy giờ. Nhưng cuộc đời của Đức Giêsu có cái gì khác xa với cuộc đời chúng ta? Đó là một cuộc đời yêu thương, một cuộc đời phục vụ: Người đã sống, không phải cho bản thân mình nhưng hoàn toàn cho người khác. Niềm vui của Người là thi ân giáng phúc cho người khác. Cuối cùng cái chết của Người trên thập giá cũng là một cử chỉ phục vụ, một cử chỉ hiến thân, như chính Người đã nói: “Không ai có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Đặc điểm độc đáo thứ hai trong cuộc đời của Đức Giêsu, là niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mà Người gọi là Cha. Trong suốt cuộc sống tại trần gian, Người ý thức rằng Người hiện diện đó là vì Chúa Cha đã sai đến. Người nói và hành động là do Cha đã sai khiến. Người quan niệm sự chết của Người là cuộc trở về nhà Cha. Những cuộc hiện ra của Người sau khi Người chết làm cho các tông đồ phải tin tưởng mạnh mẽ rằng những điều Người đã giảng dạy là đúng sự thật.
Khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu như thế từ khi sinh ra tại Bêlem cho tới khi lên trời vinh hiển, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu là người đầu tiên đã đi hết chặng đường “tiến hóa” mà một con người phải trải qua theo chương trình của Thiên Chúa.
Ngày nay, khoa học nói nhiều đến sự tiến hóa của sự sống. Khoa học đưa ra giả thuyết là con người từ khỉ mà ra. Xét về bình diện thể xác, thì giả thuyết ấy xem ra hợp lý. Nhưng con người đâu chỉ có thể xác mà thôi, mà còn có linh hồn nữa. Và nhất là trong cuộc tiến hóa ấy, khoa học chưa nói cho chúng ta là con người sẽ tiến tới đâu. Đức tin Kitô giáo nói với chúng ta là: Thể xác con người có thể bởi đất mà ra, nhưng ngoài thể xác ra, con người còn được mang hình ảnh của Thiên Chúa, nhờ đó mà con người có khả năng suy nghĩ và nhất là có khả năng yêu thương, phục vụ và hy sinh. Con người được Thiên Chúa đặt vào trần gian, để lớn lên dần dần trong đức tin, đức cậy, đức mến, cho đến khi có khả năng sống trực diện với Thiên Chúa trên trời.
Cuộc lên trời của Đức Giêsu mà chúng ta kính nhớ hôm nay mời gọi chúng ta ý thức tới cuộc tiến hóa mà mỗi người chúng ta cũng phải trải qua như Người. Cuộc sống hiện tại của chúng ta trên trần gian chỉ là một giai đoạn trong cuộc tiến hóa ấy. Cuộc sống hiện tại của chúng ta phải được thăng hoa, biến đổi, và trở nên sáng láng như cuộc sống của Thầy chí thánh Đức Giêsu. Trong cuộc tiến hoá này, chúng ta không phải là những vật di động; trái lại, chúng ta có thể góp phần tích cực vào cuộc biến đổi đó. Lẽ dĩ nhiên Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Đức Kitô Phục sinh, đóng vai trò chủ động trong cuộc tiến hóa này. Vì thế trước khi chia tay, Chúa Giêsu đã hứa ban cho các tông đồ sức mạnh quyết định ấy: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy…” (Cv 1, 8).  Chính nhờ quyền lực của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã hy sinh làm của lễ và rồi được phục sinh. Chính nhờ cũng một quyền lực ấy mà các tín hữu sẽ được biến đổi, và trở thành những con người mới. Và chúng ta cũng góp phần tích cực vào cuộc tiến hóa của chúng ta bằng cách noi gương Đức Kitô.
Trước hết, như Đức Kitô, chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Chúng ta không hiểu hết được các biến cố đang xảy ra trong thế giới: Tại sao lại có động đất tại Nepal làm hơn 6.200 người thiệt mạng vừa qua? Tại sao hôm nay có nhiều căn bệnh nan y đang tràn lan khắp thế giới? Chúng ta chỉ biết nhìn nhận sự hiểu biết ngắn ngủi của con người và tin tưởng vào Thiên Chúa, đầy khôn ngoan và đầy lòng thương xót. Biết đâu những người ra đi trước chúng ta đó lại có định mạng đời đời đẹp đẽ hơn của chúng ta hôm nay.
Sau nữa, như Đức Kitô, chúng ta cố gắng biến đổi cuộc đời chúng ta thành một hành vi phục vụ và yêu thương. Trong lời nói, trong việc làm, chúng ta cố gắng thể hiện điều răn duy nhất và quan trọng: "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Có thể nói tinh thần yêu thương, tinh thần phục vụ là tiêu chuẩn cho phép chúng ta biết được phần nào chúng ta đang đứng chỗ nào trên chặng đường tiến hóa. Ai còn ghen ghét anh em mình, người ấy chưa tiến hóa đủ. Ai biết yêu mến và phục vụ anh em mình, người ấy đã tiến tới gần quê trời, nơi Đức Kitô đang hiển trị và đang chờ đợi tất cả chúng ta.
Câu hỏi gợi ý

  1. Bạn hiểu:

1.    Bạn hiểu thế nào về lệnh truyền của Đức Giêsu ở câu 15 ?
2.    Bạn hiểu thế nào về việc Đức Giêsu được rước lên Trời và ngự bên hữu Chúa Cha?

  1. Bạn sống và chia sẻ:

1.    Qua lệnh truyền của Đức Giêsu cho các Tông đồ, bạn nhận ra những giáo huấn gì cho bạn?
2.    Qua câu 20, bạn có những kinh nghiệm và nhận thức thế nào về công việc tông đồ của bạn?
II. HỌC HỎI GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

BÀI 08: QUYỀN TƯ HỮU CỦA CON NGƯỜI

Đã nói đến lao động mà không nói đến quyền tư hữu hay tài sản của con người sẽ tựa như nói tới cây mà không nói tới quả, nói tới vất vả mà không nói tới phần thưởng, cũng chẳng khác nào hô hào dấn thân và cổ võ đấu tranh mà không biết để được gì. Chắc sẽ có người phản đối rằng chủ trương như thế là dẫn con người tới chỗ ích kỷ và hưởng thụ, vụ lợi và nặng vật chất. Thực ra, nếu hiểu đúng và thi hành đúng quyền tư hữu, chúng ta sẽ thấy mình thừa sức vượt qua sự đối lập của hai quan điểm ấy.

1.   Thế nào là tư hữu trong Kinh Thánh?

Giáo lý của Kinh Thánh, thời Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều không tỏ ra sợ hãi và nghi kỵ của cải và tư hữu. Không những vì đó là điều kiện cần thiết để nuôi sống bản thân và người khác, phát triển cá nhân và xã hội, bảo đảm sự độc lập cần thiết của mỗi người, thậm chí còn có thể giúp chúng ta thực hiện cả những dự tính đạo đức và thiêng liêng như giúp đỡ kẻ nghèo, hỗ trợ các công trình tôn giáo, góp phần tôn vinh Thiên Chúa. Cũng chính vì thế, bổn phận của người lãnh đạo là giúp tôn trọng và bảo vệ của cải và tư hữu của kẻ khác, không những bằng cách ban hành các luật pháp công bằng mà còn tìm cách tạo điều kiện cho các luật pháp ấy được thi hành cách nghiêm minh, kể cả bằng vũ lực. Tuy nhiên, người Do Thái thời Cựu Ước và người Kitô hữu thời Tân Ước đều không quên sự giới hạn của quyền tư hữu và của cải. Một đàng, người ta luôn ý thức của cải xét cho cùng là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không chỉ là kết quả lao động của riêng con người. Cũng chính vì thế, người ta không được sử dụng của cải tùy tiện, mà phải theo đúng ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn ấy là không ai độc quyền sử dụng của cải cho riêng mình và những người của mình, đồng thời của cải không chỉ để phục vụ các nhu cầu vật chất và trần thế, mà còn để chăm lo các nhu cầu tâm linh và mai sau nữa. Đàng khác, Kinh Thánh không quên giới thiệu nhiều giá trị khác – đôi khi còn cao quý hơn – bên cạnh của cải, như sức khỏe, danh dự, sự khôn ngoan, sự sống đời đời, sự cứu độ…

Chính vì nhìn ra nguồn gốc và mục đích cuối cùng của tư hữu, nên Kinh Thánh đã không ngần ngại chỉ ra một số cách thể hiện cả hai đặc tính của tư hữu: vừa của con người vừa của Thiên Chúa, vừa của mình vừa của người khác, vừa bảo đảm các nhu cầu vật chất và trần thế vừa giúp chăm lo các nhu cầu thiêng liêng và Nước Trời. Chẳng hạn như không được thu hoạch hoa màu quá kỹ lưỡng quên mất nhu cầu của những người đi mót, không được quên giấc ngủ êm ấm mà người khác cần có bằng cách giữ qua đêm những vật cầm cố thiết thân của họ như áo choàng dùng làm chăn đắp, không được hưởng dùng các hoa lợi của đất đai mà quên mất nhu cầu của các người phụng thờ Chúa thay mình trong đền thờ, không được khai thác quá đáng đất đai của mình mà quên nhu cầu nghỉ ngơi của chính đất đai và nhu cầu cấp thiết của những người nghèo mỗi bảy năm, không được hưởng dùng điều gì quá mức mà quên mất những người khác cũng rất muốn được hưởng dùng điều ấy như cứ 25 năm hay 50 năm một lần các sở hữu chủ nên nhường lại quyền sử dụng đất đai, nhà cửa, ruộng vườn cho người khác – nhất là những chủ cũ của chúng…

2.   Thế nào là tư hữu theo quan điểm của Giáo hội từ những thế kỷ đầu tới nay ?

Là nhũng môn đệ trực tiếp của các tông đồ, lại sống trong một thời đại còn nhiều bất công xã hội, các giáo phụ rất nhấn mạnh tới chiều kích xã hội của tư hữu. Thậm chí có giáo phụ đã mạnh dạn quả quyết: mọi của dư thừa là của người nghèo; con người không có quyền sử dụng các của ấy mà không xét tới ích lợi của người nghèo hay mỗi người phải trả lại phần dư thừa ấy của mình (thánh Basiliô, thánh Ambrosiô). Cá biệt, còn nhiều giáo phụ từ khước những của cúng vào nhà thờ của những người chưa chu toàn nghĩa vụ đối với người nghèo.

Giáo hội Công giáo chưa bao giờ quên nghĩa vụ công bằng và bác ái đối với những người kém may mắn trong của cải bằng cách tại Tòa Giám mục nào cũng có những dịch vụ và những nhân viên lo phục vụ bác ái xã hội. Thậm chí còn có cả những đoàn thể và những dòng tu ra đời hầu như chỉ để thi hành công việc này. Hoàng đế Julianô Bội Giáo có muốn tiêu diệt Kitô giáo đến đâu để lập một tôn giáo mới cũng phải công nhận đó là nét son của Kitô giáo mà ông ta sẽ cố gắng giữ lại trong đạo mới của mình.

Ngay cả trong những thời kỳ một số chức sắc trong Giáo hội rơi vào thói tham lam của cải và thích chơi với người giàu có, Giáo hội cũng không chủ trương dẹp bỏ quyền tư hữu. Khi chứng kiến sự cạnh tranh giữa chế độ tư bản và chế độ cộng sản, Giáo hội cũng không bênh bên này bỏ bên kia, mà đúng hơn Giáo hội đã nhân cơ hội ấy để nhắc lại quan điểm hết sức quân bình của mình về của cải: của cải cần thiết nhưng không phải cần thiết bằng mọi giá và trong mọi sự; tư hữu là một giá trị nhưng không phải là giá trị tuyệt đối… Giáo huấn xã hội Công Giáo gọi đây là định mệnh phổ quát của tài sản, tính xã hội của tài sản.

Theo tông thư “Caritas in veritate” (‘Bác ái trong sự thật’) của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, ban hành ngày 29/6/2009, một lần nữa Giáo hội nhắc lại nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế trên thế giới hiện nay là chính lòng tham của con người hay là sự thiếu vắng tinh thần khó nghèo – tinh thần vô vị lợi (hay vô cầu) – tinh thần liên đới nơi các cá nhân và xã hội. Muốn thu lãi vừa nhiều vừa nhanh, không muốn sống giản dị và tiết giảm, càng không tin vào  tinh thần vô vị lợi, không mạnh dạn thể hiện tình liên đới xã hội… đó là những nguyên nhân sâu xa dẫn tới khủng hoảng tài chính và kinh tế hiện nay.

Tình trạng này càng trở nên nghiêm trọng, khi xu thế kinh doanh hiện nay là gia tăng tài chính để có thể toàn cầu hóa các hoạt động sản xuất, thương mại và giao dịch. Quá tin vào tư bản (vốn), quá thiết tha tăng thêm tư bản (vốn), quá nóng vội xoay nhanh tư bản (vốn)… người ta đã chấp nhận những rủi ro cao – rủi ro trong đầu tư, rủi ro trong sản xuất, rủi ro trong giao dịch… và cuối cùng đã tạo ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ tới bản thân những nhà kinh doanh ấy mà nhiều hơn và nghiêm trọng hơn, với những người nghèo trong xã hội, với những quốc gia nghèo trên thế giới.

3.   Tư hữu đất đai

Đã đành không phải chỉ mới gần đây mà từ lâu lắm, người ta đã biết tự do hóa sản xuất và thương mại, tự do hóa cạnh tranh và sáng kiến đúng là một con dao hai lưỡi: có thể đưa tới sự phát triển và thịnh vượng nhanh chóng và rộng lớn, nhưng cũng có thể gây ra sự phân cách khổng lồ giữa người giàu và người nghèo – giữa nước giàu và nước nghèo – đôi khi tới mức bất công không thể chịu nổi. Nhưng nếu vì thế mà đòi quốc hữu hóa tất cả mọi sự hay truất hữu tất cả những tài nguyên nào quan trọng như điện khí, nhiên liệu, khoáng sản, đất đai, tiền bạc… thì cũng khó lòng tránh khỏi tình trạng trì trệ vì đã tước mất động cơ làm việc của con người, hoặc tình trạng “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa” khi thay vì tập trung của cải vào một số cá nhân người ta lại tập trung của cải vào đảng phái cầm quyền, rồi vào tay một phe thắng thế trong đảng hay vào tay một số người lãnh đạo trong đảng. Tình trạng này còn tệ hơn tình trạng trước, vì nó được biện minh một cách bên ngoài là không dành cho bất cứ cá nhân nào độc quyền trên của cải quốc gia, nhưng kỳ thực đằng sau chiêu bài ấy, người ta đang cá nhân hóa quyền tư hữu tới mức tuyệt đối, thậm chí tư nhân hóa mà không chịu sự chi phối bởi chuẩn mực nào hay lực lượng nào.

Ngược lại, nếu biết điều tiết việc tư nhân hóa các loại của cải vừa kể trong khuôn khổ công ích và luật pháp, có sự can thiệp đúng mức của Nhà Nước thì có thể tư nhân hóa đất đai và các bất động sản quan trọng khác sẽ mang lại ích lợi nhiều hơn. Đó là chưa kể đất đai hiện nay đã được kể là một trong những nguồn làm nên vốn của một sản phẩm hay mặt hàng hoặc dịch vụ. Tư nhân hóa các loại của cải quý giá ấy còn tránh được tình trạng độc tài và độc quyền của một số quốc gia trên các của cải ấy.

4.   Nền kinh tế lý tưởng theo Kitô giáo

Không phải là nền kinh tế không có cạnh tranh, không có đột phá, không làm ăn có lãi,  càng không phải là nền kinh tế không sử dụng nhiều tiền bạc, nhiều công nhân, nhiều thiết bị và công nghệ. Mà đó là nền kinh tế có tất cả những yếu tố vừa kể và những yếu tố quen thuộc trong kinh tế, nhưng dựa trên những nguyên tắc: không chỉ công bằng và liêm khiết mà còn bác ái và hy sinh, không chỉ độc lập mà còn liên đới, không chỉ mua bán độc quyền mà còn chia sẻ, không chỉ lợi nhuận mà còn vô cầu hay hướng tới những giá trị khác, thiêng liêng và rộng lớn hơn.

Một nền kinh tế như thế đòi phải giữ được sự quân bình như của kiềng ba chân giữa thị trường tự do, các đoàn thể trung gian và Nhà Nước. Nếu chỉ có thị trường tự do thì sẽ xảy ra tình trạng thao túng của cá nhân hay tập thể nào đó và vô chính phủ; nếu chỉ có các đoàn thể trung gian thì sẽ khó thu vào những lợi nhuận đáng kể; nếu chỉ có Nhà Nước thì sẽ có sự độc tài bao biện, không có sự cạnh tranh và phát triển lành mạnh. Cả ba cơ quan này sẽ không chỉ hoạt động theo nguyên tắc lợi nhuận và phát triển vật chất, càng không thể hoạt động một cách phi đạo đức (vì bất cứ sinh hoạt nào muốn là của con người đều phải phù hợp với đạo đức hay phục vụ phẩm giá và định mệnh cao cả của con người).

Nhưng cũng vì sự quân bình giữa ba mặt trận ấy quá lý tưởng nên chúng ta không đòi hỏi và kỳ vọng sẽ thấy ba khía cạnh ấy một sớm một chiều. Nó phải là kết quả của một nỗ lực lâu dài, đến từ nhiều phía, thậm chí với những sửa chữa và cải thiện không ngừng.

Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành

CÂU HỎI GIÚP HIỂU BÀI

1.    Thiên Chúa và sau đó, Giáo hội Kitô giáo ủng hộ hay chống đối việc làm kinh tế hay việc làm giàu (việc gia tăng của cải)? Tại sao?
2.    Nếu của cải có tính xã hội, tôi phải làm gì với việc sử dụng tài sản của mình?

Thông tin khác:




Thánh lễ Truyền Chức Giám Mục Đaminh Hoàng Minh Tiến tại nhà thờ Chính toà Sơn Lộc | 14.02.2022
Liên kết website
Tiêu điểm
Website www.giaophanhunghoa.org được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log