GIÁO ÁN
LỚN LÊN TRONG CHÚA THÁNH THẦN
GIÁO LÝ CẤP II
THÊM SỨC
Thứ tự các bài
Ký hiệu các sách Kinh Thánh
Cùng các Bạn Giáo lý viên
Bài mở đầu : Em lớn khôn
PHẦN I : TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
Bài 01 : Thiên Chúa sáng tạo và quan phòng
Bài 02 : Thiên Chúa tạo dựng con
Bài 03 : Sa ngã
Bài 04 : Con Thiên Chúa làm người
Bài 05 : Cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu
Bài 06 : Cuộc khổ nạn của Chúa
Bài 07 : Chúa Giêsu sống lại và lên trời
Bài 08 : Chúa Giêsu sẽ đến phán xét
Bài 09 : Chúa Thánh Thần
Bài 10 : Thiên Chúa Ba
Bài 11 : HT trong chương trình cứu độ của TC
Bài 12 : Đặc tính của Hội thánh
Bài 13 : Tổ chức Hội thánh
Bài 14 : Hiệp thông giữa các thánh
Bài 15 : Đức Maria : Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ HT
Bài 16 : Ơn phục sinh và đời sống vĩnh cửu
PHẦN II : SỐNG TRONG CHÚA KITÔ
Bài 17: Tự do của con người
Bài 18 : Nhân đức
Bài 19 : Tội lỗi
Bài 20 : Ơn Chúa
Bài 21 : ĐR 1 : Thờ phượng và kính mến TC
Bài 22 : ĐR 2 : Tôn kính Danh Thiên Chúa
Bài 23 : ĐR 3 : Thánh hoá ngày Chúa nhật
Bài 24 : ĐR 4 : Thảo kính cha mẹ
Bài 25 : ĐR 5 : Tôn trọng sự sống
Bài 26 : ĐR 6+9 : Sống trong sạch
Bài 27 : ĐR 7 : Giữ sự công bằng
Bài 28 : ĐR 8 : Tôn trọng sự thật
Bài 29 : ĐR 10 : Không tham lam của người
PHẦN III : CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO
Bài 30: Phụng vụ
Bài 31 : Bí tích
Bài 32 : Bí tích Xức dầu bệnh nhân
Bài 33 : Ơn kêu gọi
Bài 34 : Bí tích Truyền chức thánh
Bài 35 : Bí tích Hôn phối
Bài 36 : Bí tích Thêm sức
Bài 37 : Sống Bí tích Thêm sức
Bài 38 : Hoạt động tông đồ
Bài 39 : Các phụ tích
PHẦN IV : KINH NGUYỆN KITÔ GIÁO
Bài 40 : Việc cầu nguyện
Bài 41 : Đời sống cầu nguyện
PHỤ TRƯƠNG
Viết tắt Tên sách
Cl ........................................................................................................................ Cô-lô-xê
Cn ....................................................................................................................... Châm ngôn
1 Cr .................................................................................................................... 1 Cô-rin-tô
2 Cr .................................................................................................................... 2 Cô-rin-tô
Cv ....................................................................................................................... Công vụ TĐ
Ds ....................................................................................................................... Dân số
Dt ........................................................................................................................ Do thái
Đnl ...................................................................................................................... Đệ Nhị Luật
Ed ....................................................................................................................... Ê-dê-ki-en
Ep ....................................................................................................................... Ê-phê-xô
Et ........................................................................................................................ Ét-te
Ga ....................................................................................................................... Gio-an
1 Ga ................................................................................................................... 1 Gio-an
2 Ga ................................................................................................................... 2 Gio-an
3 Ga ................................................................................................................... 3 Gio-an
Gc ....................................................................................................................... Gia-cô-bê
Gl ........................................................................................................................ Ga-lát
Gr ........................................................................................................................ Giê-rê-mi-a
Gs ....................................................................................................................... Giô-suê
Gv ....................................................................................................................... Giảng viên
Hc ....................................................................................................................... Huấn ca
Hs ....................................................................................................................... Hô-sê
Is ......................................................................................................................... I-sai-a
Kh ....................................................................................................................... Khải huyền
Kn ....................................................................................................................... Khôn ngoan
Lc ........................................................................................................................ Lu-ca
Lv ........................................................................................................................ Lê-vi
Mc ....................................................................................................................... Mác-cô
1 Mcb ................................................................................................................. Ma-ca-bê quyển 1
2 Mcb ................................................................................................................. Ma-ca-bê quyển 2
Mt ........................................................................................................................ Mát-thêu
Pl ........................................................................................................................ Phi-líp-phê
Plm ..................................................................................................................... Phi-lê-môn
1 Pr ..................................................................................................................... 1 Phê-rô
2 Pr ..................................................................................................................... 2 Phê-rô
Rm ...................................................................................................................... Rô-ma
1 Sm ................................................................................................................... Sa-mu-en quyển 1
2 Sm ................................................................................................................... Sa-mu-en quyển 2
St......................................................................................................................... Sáng thế
Tl ......................................................................................................................... Thủ lãnh
1 Tm ................................................................................................................... 1 Ti-mô-thê
2 Tm ................................................................................................................... 2 Ti-mô-thê
Tt ......................................................................................................................... Ti-tô
Tv ........................................................................................................................ Thánh vịnh
1 Tx .................................................................................................................... 1 Thê-xa-lô-ni-ca
2 Tx .................................................................................................................... 2 Thê-xa-lô-ni-ca
1 V ...................................................................................................................... Các Vua quyển 1
2 V ...................................................................................................................... Các Vua quyển 2
Xh........................................................................................................................ Xuất hành
Chúng ta đã nhập cuộc Huấn giáo thiếu nhi cấp I (ĐBTT). Hy vọng các bạn đã quen dần và đang phát huy phương pháp Giáo lý Thánh Kinh sinh động đó.
Hôm nay, chúng ta bước vào Huấn giáo cấp II với cuốn Lớn Lên Trong Chúa Thánh Thần (LL.T.CTT).
Trước khi bước vào việc, chúng tôi mời các Bạn lưu ý đến những điểm sau :
I. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ CẤP II.
LL.T.CTT là tập Giáo lý thứ 2 trong 3 cấp căn bản của Giáo lý dành cho các em thiếu nhi (x. Tu chính GL. Hồng ân trong Giáo án GL. cấp I tr. 16-17). Chương trình Giáo lý cấp II trình bày toàn bộ mầu nhiệm Kitô giáo (x. T.h.KTĐT ; TH.DGL 21,30,37) qui chiếu cuốn GLHTCG do ĐTC Gioan-Phaolô ban hành ngày 11.10.1992, phần bài học trích nguyên văn cuốn Giáo lý Công giáo (GLCG) của HĐGM.VN (bản thử nghiệm) năm 1996 : Giáo lý cấp II triển khai phần lớn cùng những đề tài của Giáo lý cấp I, nhưng rộng hơn, sâu hơn và thích hợp với lứa tuổi 9-11 có kiến thức văn hóa lớp 4-5-6 (x. TH.DGL 49).
Chương trình Giáo lý cấp II vừa dẫn các em hiểu, sống Mầu Nhiệm Kitô giáo, vừa giúp các em từng bước chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thêm sức để trở nên chứng nhân trung thành của Chúa Kitô (x. TH.DGL 23, 37).
Chương trình này được trải dài thành 42 bài truyền giảng trong thời gian 3 năm liên tục, ít nhất mỗi tuần một tiết. Để mỗi tiết Giáo lý luôn có nội dung mới, nối tiếp và bổ túc nhau, phần Giáo án được triển khai theo từng ý chính của mỗi bài (x. TH.DGL 21,25).
GL. Hồng ân lần lượt giới thiệu các tập LL.T.CTT như sau :
- 1 tập dành cho các học viên (Thủ bản).
- 1 tập đầy đủ chi tiết, mang tính sư phạm dành cho GLV (Giáo án).
- 1 hoặc nhiều tập Sinh hoạt (Chuyện kể - Thơ - Hát - Vũ - Băng reo - Câu hò - Trò chơi v.v...).
- 1 tập tranh lớn (khi có điều kiện).
II. TIẾT GIÁO LÝ.
Theo Giáo Huấn của Tông huấn “Dạy Giáo lý” và phương pháp sư phạm Giáo lý hiện nay, giờ Giáo lý được quan niệm là một CUỘC GẶP GỠ và SỐNG HIỆP THÔNG với Chúa Kitô. Dạy Giáo lý là dẫn đưa các em đến gặp gỡ và sống thân mật với Chúa Kitô (x. TH.DGL 5). Đây là phần đóng góp tích cực của Giáo lý viên và không ai thay thế được. Chính Giáo lý viên bằng tư cách, tình thương, sự niềm nở và lòng đạo đức của mình, nhờ phương pháp sư phạm độc đáo đức tin, phải cố gắng thực hiện cho bằng được CUỘC GẶP GỠ thân tình và sống động này. Chính Chúa Kitô là Thầy dạy duy nhất về Giáo lý, còn các Giáo lý viên là dụng cụ, là “phát ngôn viên” (đề nghị các Giáo lý viên đọc kỹ Tông huấn “Dạy Giáo lý” hay ít nhất những trang đầu của cuốn ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH - Phần Giáo án).
Do đó, trước khi cho các em mở tập Giáo lý, Giáo lý viên cần dẫn các em đến gặp gỡ và sống thân mật với Chúa Kitô đã. Chính Chúa Kitô đến gặp gỡ các em, thân mật truyện trò với các em về tình thương của Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và Cha của mọi người, đặc biệt Cha yêu thương các em. Chính Chúa Kitô dạy các em về Chúa Cha, về tình thương cứu độ của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Cuốn Giáo lý - thủ bản - (cả 3 cấp) có thể nói chỉ là phần tóm lược nội dung những cuộc gặp gỡ Chúa Kitô. Nói cách khác, sau khi các em đã được Giáo lý viên dẫn vào gặp gỡ và sống thân mật với Chúa Kitô rồi, các em mới mở tập Giáo lý để ghi nhận, để nhớ nội dung cuộc gặp gỡ vừa thực hiện. Bộ Giáo lý “HỒNG ÂN” không phải là sách tự học, nhưng là loại sách cần có người dạy, cần có Giáo lý viên. Các Giáo lý viên cố gắng tránh lối dạy : cho các em đọc trước, thậm chí học thuộc lòng trước, rồi Giáo lý viên đến cắt nghĩa một số từ ngữ khó hiểu, kể cho các em nghe một vài câu chuyện “hấp dẫn”, hoặc cắt nghĩa sơ qua nội dung bài và thế là xong. Không, giờ Giáo lý là lúc các em GẶP GỠ và SỐNG THÂN MẬT với Chúa Kitô.
III. PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN GIẢNG (TH.DGL 31).
Giáo lý Hồng ân tận dụng tất cả các phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của mọi khoa học, nhất là của Huấn giáo, đặc biệt tổng hợp các phương pháp Qui nạp - Thánh Kinh và chủ động linh hoạt.
1. Phương pháp Qui nạp : đề nghị các GLV đọc kỹ và làm quen phương pháp Qui nạp đã được trình bày trong tập HÂHG II bài 2.
Với diễn tiến 5 bước theo thứ tự nhất định : dẫn nhập - trình bày - diễn giải - tổng hợp - áp dụng của phương pháp Qui nạp, nội dung bài Giáo lý được nhắc đi nhắc lại 5 lần khác nhau, giúp các học viên thích thú theo dõi, tiếp thu và thực hành.
2. Phương pháp Thánh Kinh : Thánh Công đồng Vaticanô II dạy : “Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu... Thánh Công đồng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu hãy năng đọc Thánh Kinh để học biết “khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô”, vì “không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (T. Hiêrônimô). Vậy ước gì mọi Kitô hữu tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh... Nếu đời sống Hội thánh được tăng triển nhờ năng nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, cũng thế, cũng có thể hy vọng đời sống thiêng liêng được đổi mới nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa, là lời “hằng tồn tại muôn đời” (Hc.MK 21-26).
Hiến chế Phụng vụ thánh đã xác định :
- “Trong việc cử hành Phụng vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng... Chính nhờ nguồn cảm hứng và sức phấn khởi của Thánh Kinh mà xuất phát những lời kinh, lời nguyện và những bài phụng ca, đồng thời những động tác và các biểu hiện trở thành có ý nghĩa. Vì vậy, để xúc tiến việc canh tân, phát triển và thích ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động, đã được truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng (Hc.PVT 24).
- “Để bàn tiệc Lời Chúa được phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn để trong một số năm nhất định, phải đọc cho dân chúng nghe phần quan trọng của Thánh Kinh” (PVT 51).
Tông huấn “Dạy Giáo lý” còn cụ thể hơn : “Việc Dạy Giáo lý bao giờ cũng lấy nội dung ở nguồn mạch sống động là Lời Chúa... việc dạy Giáo lý phải tiêm nhiễm và thấm nhuần tư tưởng, tinh thần và thái độ theo Kinh Thánh và Tin Mừng, nhờ sự tiếp xúc chuyên cần với chính các bản văn. Việc dạy giáo lý sẽ càng phong phú và hữu hiệu, nếu đọc các bản văn với trí hiểu và tâm hồn của Hội Thánh, lấy cảm hứng ở sự suy tư về cuộc sống của Hội Thánh trong hai ngàn năm” (TH.DGL 27).
Sách GLHTCG 1992, ngay từ những trang đầu, sau khi đã nhắc lại giáo huấn trên đây của Công đồng Vaticanô II và của Tông huấn Dạy Giáo lý, đã đưa đến hướng dẫn cụ thể : “Hội Thánh hằng khuyên nhủ đặc biệt các Kitô hữu hãy nhờ việc siêng năng đọc Thánh Kinh để đạt được khoa học cao vời về Chúa Giêsu Kitô” (GLHTCG 133).
Với những chỉ thị trên và các văn kiện khác của Tòa thánh, Giáo lý Hồng ân mạo muội đi theo các bậc đàn anh trong nỗ lực đưa Thánh Kinh vào Huấn giáo : các GLV và học viên giáo lý tiếp xúc Thánh Kinh bằng mọi phương cách có thể : đọc - nghe trực tiếp nguyên văn Thánh Kinh qua việc công bố Lời Chúa, nghe những câu chuyện, những nhân vật trong Thánh Kinh... từ đó gặp gỡ và sống thân mật với Chúa Kitô, cụ thể :
a) Bầu khí lớp Giáo lý : Vị trí của sách Thánh Kinh, cung cách GLV đối với Thánh Kinh, sách Giáo lý, nội dung lời giảng, lời cầu nguyện... tạo nên bầu khí Thánh Kinh giúp các học viên dần dần cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong giờ Giáo lý.
b) Vận dụng Thánh Kinh vào lời giảng trong các bước của phương pháp Qui nạp :
- Dẫn nhập : một câu chuyện gợi ý trích từ Thánh Kinh.
- Trình bày : công bố nguyên văn một đoạn Thánh Kinh chứa đựng nội dung giáo lý muốn trình bày. Các học viên đứng nghe cung kính.
- Diễn giảng : GLV phân tích, diễn giảng Lời Chúa vừa được công bố để học viên “khám phá” nội dung giáo lý. GLV còn biết vận dụng những lời Thánh Kinh khác để soi sáng, củng cố, bổ túc cho Lời Chúa vừa được công bố hầu làm sáng tỏ những khía cạnh của chân lý đức tin muốn trình bày.
- Tổng hợp : nội dung của bài giáo lý được tóm kết lại trong một câu Lời Chúa cùng với câu Giáo lý trong sách thủ bản. Đó là bài học Giáo lý.
- Áp dụng : được Lời Chúa soi sáng, củng cố và thuyết phục tâm trí, các học viên trao đổi để thống nhất một quyết tâm cụ thể như một thực hành Lời Chúa.
c) Sinh hoạt giáo lý : khả năng cầm trí của các em có hạn ; đàng khác các em “ham vui” nên cần có những sinh hoạt minh họa. Những sinh hoạt trong giờ Giáo lý có mục đích vừa để thư giãn vừa để thẩm thấu nội dung giáo lý. Những sinh hoạt này, cố gắng trong mức độ tối đa, kín múc hoặc khơi nguồn từ Thánh Kinh.
3. Phương pháp chủ động linh hoạt :
Người ta thường dễ nhớ những gì mình phát hiện, khám phá và trân trọng những gì là “của mình”. Vì thế, phương pháp Qui nạp và Thánh Kinh trên đây phải được thực hiện nhờ phương pháp chủ động linh hoạt :
- Chính các học viên giữ phần chủ động trong cuộc gặp gỡ và sống thân mật với Chúa Kitô. GLV chỉ giữ vai trò môi giới, tạo cơ hội, xúc tác... cho cuộc gặp gỡ này được xảy ra sinh động và có chất lượng.
- Chính các học viên “khám phá” chân lý đức tin, nội dung bài giáo lý mà Chúa Kitô muốn thông truyền cho họ. GLV là người khơi gợi, hướng dẫn, phấn khích... làm cho nội dung bài giáo lý “nảy sinh” trong tâm trí học viên và được phát biểu trước cộng đoàn.
Bằng những câu gợi ý, bằng những câu chuyện, các phép lạ, các câu nói của các nhân vật Thánh Kinh, các biến cố lịch sử cứu rỗi... bằng những tranh ảnh, học cụ... GLV giúp các học viên “khám phá” những ý nghĩa, những giá trị, những chân lý đức tin... GLV cần vận dụng phương pháp “niềm vui khám phá” mà Chúa Giêsu nói tới trong dụ ngôn người mẹ sinh con (x. Ga 16,21) để làm cho lớp học sinh động, có chất lượng.
IV. DIỄN TIẾN CỦA TIẾT GIÁO LÝ.
Giáo lý cấp II tiếp tục trình bày tiết giáo lý theo diễn tiến 5 bước (khác với 5 bước của phương pháp Qui nạp) như chương trình Giáo lý cấp I. Đề nghị các GLV đọc kỹ và vận dụng cách sáng tạo diễn tiến này (x. Giáo án ĐBTT tr. 11-25).
V. GIÁO ÁN GIÁO LÝ CẤP II.
1. Tập Giáo án Giáo lý cấp II - Lớn Lên Trong Chúa Thánh Thần - được hình thành và đến tay Bạn là nhờ sự đóng góp công sức và trí tuệ của Cha Tổ trưởng, quí Thầy, Dì trong và ngoài tổ LL.T.CTT. Cùng với mọi người, Ban Huấn Giáo Xuân Lộc chân thành cám ơn Cha và quí Thầy, Dì.
2. Chương trình Giáo lý thiếu nhi là chương trình căn bản phân chia thành 3 cấp I - II - III. Do đó, giáo án LL.T.CTT được dọn theo tính bổ túc, mở rộng và lên cao so với cấp I ; đồng thời hé mở, giới thiệu nội dung Giáo lý cấp III (SỐNG ĐẠO). Chương trình Giáo lý Hồng ân trình bày mầu nhiệm Kitô giáo theo hình vòng tròn xoắn ốc và lên cao : nội dung cuốn GLCG.VN qui chiếu cuốn GLHTCG được trình bày thành 3 vòng tròn đồng tâm mở rộng dần mà tâm điểm là Chúa Kitô :
- Vòng I :
Chương trình cấp I
với 4 phần của sách
GLCG.VN và GLHTCG.
- Vòng II :
Chương trình cấp II
với 4 phần của sách
GLCG.VN và GLHTCG.
- Vòng III :
Chương trình cấp III
với 4 phần của sách
GLCG.VN và GLHTCG.
3. Tập giáo án này mới làm được công việc nhỏ bé là “sưu tầm” và giới thiệu “tư liệu” cho mỗi ý chính của các bài giáo lý cấp II theo phương pháp Qui nạp và Thánh Kinh, giúp GLV nắm bắt nội dung và bớt tốn công tìm kiếm, sưu tầm. GLV cần bổ túc cho chính mình và sử dụng tập giáo án này một cách sáng tạo và nhuần nhuyễn, nhất là vận dụng phương pháp chủ động linh hoạt và các sinh hoạt giáo lý để chuyển tải nội dung giáo lý sao cho sinh động, hấp dẫn, đúng nội dung, có chất lượng, biến bài giáo lý thành sức sống mới và phong phú cho các học viên, đồng thời biết thích nghi với trình độ tiếp thu của các học viên.
4. Chương trình giáo lý cấp II gồm 42 bài với 119 ý chính. Tập Giáo án cung cấp tư liệu cho từng ý chính của mỗi bài : dẫn nhập - trình bày - diễn giải - đôi khi tổng hợp (Lời Chúa hoặc câu giáo lý cần thuộc).
Vì thế, trước khi khai giảng Giáo lý cấp II, GLV cần biết rõ thời lượng của cấp II, những bài, những ý chính quan trọng để lên chương trình cho mỗi tuần, mỗi tiết sao cho thư thái, hợp lý và đúng thời lượng (cần phải dự phòng những tiết ôn tập, chuẩn bị nghi lễ Thêm sức cuối cấp, những ngày nghỉ, những biến động đột xuất v.v... Chương trình chung giáo phận qui định là 3 năm cho một cấp : 156 tuần cho 119 ý chính của 42 bài. Trong thực tế mỗi nơi, GLV cần phải uyển chuyển, thích nghi :
a) Trường hợp 1 ý chính cho một tiết giáo lý : GLV vận dụng trọn tư liệu của ý chính trong sách giáo án rồi thêm phần sinh hoạt, thực hành với câu chuyện dẫn đến thực hành, nếu cần.
b) Trường hợp 2 hoặc 3 ý chính (không bao giờ giảng dạy tới 4 ý chính) cho một tiết giáo lý : GLV cần :
- Vận dụng tư liệu của sách giáo án cho ý chính thứ nhất (có thể có sinh hoạt nhưng chưa có áp dụng thực hành).
- Sau đó, bước sang ý thứ hai, GLV biến đổi phần công bố Lời Chúa trong sách giáo án thành phần trình bày (diễn ý Lời Chúa thay vì đọc nguyên văn) và do đó không mời học viên đứng lên. Sau đó, diễn giảng, tổng hợp ý hai rồi sinh hoạt, nếu cần.
- Bước sang ý ba, nếu có, GLV thực hiện như ý thứ hai trên đây.
- Cuối tiết giáo lý : GLV gợi ý một điểm thực hành chung cho cả tiết giáo lý cùng với câu chuyện dẫn đến thực hành, nếu cần.
Tóm lại, mỗi tiết giáo lý chỉ có :
+ Một lần công bố Lời Chúa (các học viên đứng).
+ Có thể có một, hai hoặc ba diễn giảng - tổng hợp cho 1,2 hoặc 3 ý chính.
+ Một điểm thực hành.
5. Tập Giáo án này, trong phần chuẩn bị, có giới thiệu học cụ cho bài giáo lý nhưng chưa triển khai trong bài soạn. GLV khi triển khai bước dẫn nhập và diễn giảng, cần vận dụng những học cụ này cách hữu hiệu và linh hoạt để minh họa cho nội dung. Các học viên, nhất là các em lứa tuổi 6-14, tuổi cảm giác, thích “xem bằng mắt, bắt bằng tay”. Những học cụ rất có giá trị và ý nghĩa trong việc cụ thể hóa nội dung giáo lý.
6. Sinh hoạt giáo lý :
Vừa có mục đích thư giãn, vừa làm sinh động tiết giáo lý, GLV cần vận dụng những sinh hoạt giáo lý trong giờ giáo lý (thí dụ : chuyện kể - trò chơi - hát - vũ - câu hò v.v...). Đây không phải là những sinh hoạt ngoài lề hay “điền vào chỗ trống” hoặc chỉ để vui suông, nhưng tất cả đều có mục đích phục vụ cho tiết giáo lý : vui để học. GLV cần chọn lọc và xác định trước khi vào lớp. Nếu có 2 GLV phụ trách một lớp, hoặc có GLV phụ tá, thì cần phân công rõ ràng và thực hiện đúng lúc, hợp nội dung và ăn khớp với nhau.
Giáo lý Hồng ân sẽ cố gắng sưu tầm và giới thiệu tập Sinh Hoạt Giáo lý cấp II như tập Sinh Hoạt Giáo lý cấp I, gồm chuyện kể - thơ - trò chơi - hát - vũ - hò v.v... để GLV tùy nghi sử dụng. Mong các bạn đóng góp để làm phong phú gia sản chung của giáo lý Hồng Ân.
Giờ đây, mời các bạn lắng nghe lời Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nhắc nhủ chúng ta : “Cha khuyên các con hãy dọn mình càng kỹ lưỡng càng tốt cho nhiệm vụ dạy giáo lý... đi đâu cũng mang theo mối bận tâm ấy” (TH.DGL 65).
Lời Chúa : “Còn Chúa Giêsu, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn phúc trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người” (Lc 2,52).
Ý chính : 1. Giá trị của thời gian (Lc 2,41-43.45-47.51-52)
2. Để lớn khôn trong đức tin (2 Pr 3,18)
Qui chiếu : sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG 1992) các số 4-10, 2098.
Tâm tình : Cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho em sự sống và khát vọng lớn khôn thực sự.
Chuẩn bị : Sách Thánh Kinh - Tranh Đức Mẹ ẵm bế Chúa Giêsu Hài Đồng - Tranh Chúa Giêsu lên 12 tuổi, đứng giữa các thầy tiến sĩ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
- Các GLV vui vẻ, tươi cười đón tiếp từng em vào lớp (vào địa điểm giáo lý), làm quen với từng em cốt sao cho các em thấy mình được yêu thương và nhập cuộc với mọi người, mau chóng thoát khỏi tâm trạng xa lạ.
- Đến giờ, GLV chủ nhiệm chào các em và tự giới thiệu mình và các bạn GLV khác, nếu có. Cũng nên giới thiệu tổng quát các em học viên (Tổng số bao nhiêu, nam, nữ bao nhiêu), tuyên dương sự vui vẻ và vỗ tay chào nhau.
2. Thánh hóa :
GLV chủ nhiệm hướng dẫn các em đứng nghiêm trang, khoanh tay, mắt nhìn lên Tượng (nếu có), lên bàn Lời Chúa, làm dấu Thánh gía và mời gọi các em cầu nguyện :
Các em thân mến, hôm nay các em bắt đầu chương trình Giáo lý Hồng ân cấp II : “Lớn Lên Trong Chúa Thánh Thần”. Mỗi người chúng ta lại phải học để biết “lớn lên trong Thánh Thần”, vì Thánh Thần là Đấng ban quyền năng, thúc đẩy, soi sáng, làm phong phú và là sức mạnh của Thiên Chúa để nâng đỡ, thánh hóa toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thánh Thần của Chúa cho chúng con để Người hướng dẫn và làm cho chúng con được lớn lên trong ân sủng Chúa.
3. Dẫn vào bài mới :
Các em thân mến, những năm ở cấp I, các em đã nhìn ngắm Chúa Giêsu để xem cách Người sống, nghe Lời Người dạy, và hiểu Chúa Thánh Thần đã thánh hóa chúng ta thế nào ; đặc biệt các em đã được hướng dẫn để hiểu biết và lãnh nhận bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể cách tốt đẹp. Nhưng tất cả mới chỉ là sơ khởi, thoáng qua. Nay các em đã lớn khôn hơn, vì thế chúng ta phải nhìn Chúa Giêsu kỹ hơn để khám phá thêm về tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đặc biệt trong cấp II này, chúng ta sẽ học hỏi nhiều hơn về Chúa Thánh Thần và đời sống trong Chúa Thánh Thần, để khi kết thúc cấp II này, CÁC EM SẼ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH THÊM SỨC, các em sẽ trở thành những Kitô hữu trưởng thành, làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc sống và xây dựng Hội thánh Người.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập : (GLV chỉ tranh Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu).
Chúa Giêsu lúc mới sinh ra, phải được Đức Mẹ bồng bế ; Đức Mẹ lo cho Chúa mọi sự, như mẹ em lo cho em bé của em vậy. Đức Mẹ cho Chúa bú, cho Chúa ăn... Đức Mẹ chăm sóc Chúa Hài Nhi thật chu đáo... (chỉ sang tranh Chúa Giêsu ở Đền Thờ Giêrusalem và hướng dẫn). Và theo thời gian, Chúa đã lớn dần lên. Khi Chúa lên 12 tuổi, thì mọi sự đã thay đổi. Các em thấy đó : Chúa đã khác nhiều giữa hai thời kỳ này : thân thể lớn hơn, không cần phải bồng, phải dắt nữa, mà Chúa có thể tự mình đi lại, nói năng, giúp đỡ thánh Giuse và Mẹ Maria việc này việc kia... và nhất là Chúa rất thông minh khiến mọi người ngạc nhiên như đoạn Tin Mừng sau đây kể lại - Mời các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca
(Lc 2,41-43.45-47.51-52).
“Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết... Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu... Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến’.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Giá trị của thời gian :
Các em vừa nghe đoạn Tin Mừng thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu khi được 12 tuổi, theo cha mẹ lên Đền Thờ Giêrusalem dự lễ. Sau các nghi lễ, Người ở lại Đền Thờ mà cha mẹ không hay biết vì tưởng rằng con của mình ở trong đoàn lữ hành. Đức Maria và thánh Giuse lo lắng tìm kiếm. Tới ngày thứ ba, ông bà mới tìm thấy con trong Đền thờ, ở giữa các thầy dạy, nghe và hỏi lại những điều trong Kinh thánh. Mọi người rất ngạc nhiên về trí thông minh và sự khôn ngoan của Người.
Đó, các em thấy, dòng thời gian 12 năm đã làm Chúa Giêsu lớn khôn về thể xác, tinh thần và đức tin... Như Chúa Giêsu, thời gian cũng đang tác động nơi mỗi người chúng ta.
- Tác động về thân xác : mỗi năm thêm một tuổi, thân hình các em lại cao hơn, mập hơn, khỏe hơn. Bộ quần áo năm ngoái mặc vừa, năm nay đã chật chội, cụt ngủn, các em phải thay đổi quần áo mới, giầy dép mới, cho vừa với thân xác.
- Tác động về trí tuệ : về mặt trí tuệ, các em cũng thấy phát triển. Năm ngoái các em học lớp bốn, năm nay các em đã lên lớp năm. Các em đã giải được những bài toán khó và đã làm được những bài văn hay. Đó là vì trí tuệ các em đang phát triển. Các em đã hiểu biết nhiều hơn, biết giúp đỡ cha mẹ, sống ngoan ngoãn và vâng lời hơn.
Ngoài việc học ở trường, các em còn biết đọc sách báo để học hỏi thêm, học những cái hay, cái tốt nơi bạn bè và đón nhận sự hướng dẫn của cha mẹ, để thu thập kiến thức, mở mang trí tuệ... Nhờ phát triển trí tuệ mà loài người chúng ta vượt hẳn loài vật đó các em. Thời gian vẫn trôi qua, ngày này qua ngày khác. Các em chăm học hay lười biếng, thời gian vẫn trôi qua nhưng kết quả là các em sẽ giỏi hay dốt : nếu hàng ngày chăm chỉ học tập thì các em sẽ giỏi, sau này sẽ thành tài, sẽ có hạnh phúc. Còn nếu các em lười biếng, các em sẽ dốt, sẽ trở thành con mọt của xã hội, trở thành vô dụng... Chúng ta phải tự chọn, quyết chí chăm chỉ hay buông thả, siêng năng hay lười biếng và phải chịu trách nhiệm về tương lai cuộc đời mình.
- Tác động về đức tin : chúng ta nhìn ngắm Chúa Giêsu trên bức tranh ở Đền Thờ, chúng ta thấy nổi bật nơi Người, trí thông minh, giỏi về Kinh thánh. Chúng ta cũng phải như Chúa Giêsu : không phải chỉ sống tự nhiên, mà còn phải sống khác, sống sự sống thiêng liêng, sống đời sống công giáo, đời sống đức tin.
2. Để lớn khôn trong đức tin.
Hạt giống đức tin được gieo vào tâm hồn khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, sẽ nảy mầm, phát triển thành đời sống đức tin. Đời sống này phải được ta làm cho lớn mạnh cùng với tuổi đời. Muốn lớn mạnh về đức tin, chúng ta phải chăm học Lời Chúa. Thánh Phêrô dạy chúng ta rằng : “Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu độ chúng ta” (2 Pr 3,18).
Khi kết thúc giáo lý cấp I, các em đã được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ ngày đó, các em hằng được rước Chúa Giêsu làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn. Nhờ lương thực Lời Chúa và Mình Chúa, chúng ta phải cố gắng làm cho đức tin được lớn lên :
- Lớn lên trong đức tin, nghĩa là ngày càng tin vững vàng những Lời Chúa nói trong Kinh thánh, hiểu biết giáo lý của Chúa, để biết Thiên Chúa là Cha yêu thương và mọi người là anh chị em. Nhờ đó luôn sống đẹp lòng Chúa và yêu thương mọi người.
- Lớn lên trong đức tin, nghĩa là tấn tới trong tình bác ái chan hòa với mọi người, không phân biệt, kỳ thị hạng người nào.
- Lớn lên trong đức tin còn có nghĩa là gắn bó hơn với Chúa, gặp gỡ Chúa Kitô trong mọi biến cố cuộc sống, biết sống tâm tình của Chúa Kitô, biết khám phá ra những thao thức của Chúa Kitô và tích cực góp phần làm cho những thao thức ấy trở thành hiện thực, biết cầu nguyện và kết hợp với Chúa nhiều hơn (GLV minh họa bằng những thí dụ cụ thể).
Chúa Giêsu càng lớn thì càng khôn ngoan và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến. Nhờ đó, sau này Người đã chu toàn được nhiệm vụ cứu rỗi nhân loại mà Thiên Chúa ủy thác cho Người.
Những buổi giáo lý trong khóa này có mục đích giúp các em khi lớn lên về thân xác, trí tuệ, các em cũng lớn lên về đức tin, chuẩn bị lãnh nhận Bí tích thêm sức. Các em sẽ được Chúa Thánh Thần liên kết mật thiết với Chúa Kitô, với Hội thánh, được trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, góp phần xây dựng Hội thánh và xã hội trần thế theo Tin Mừng của Chúa Kitô.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha chúng con, Cha đã ban cho chúng con sự sống và làm cho chúng con lớn khôn. Xin ban Chúa Thánh Thần mở trí lòng chúng con, để chúng con hiểu biết và yêu mến Cha nhiều hơn, nhờ đó chúng con càng thêm tuổi càng thêm lớn khôn về đức tin và tràn đầy ân sủng của Cha. Amen.
III. Em nhớ Lời Chúa.
“Còn Chúa Giê-su, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và ơn phúc trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người” (Lc 2, 52).
01. H. Tuổi đời đã có ảnh hưởng nào đối với ta ?
T. Tuổi đời đã làm cho ta nên lớn khôn về thể xác và tinh thần.
02. H. Để ngày càng lớn lên trong Đức tin, ta cần phải làm gì ?(GLCG. 372)
T. Ta cần không ngừng đào sâu Giáo lý, siêng năng cầu nguyện và góp phần truyền bá đức tin.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Lúc còn đi học, Newton là một cậu bé gầy gò. Các bạn trong lớp thường chế nhạo cậu về vóc dáng nhỏ bé ấy. Một ngày kia, một người bạn vốn to con đã bắt nạt Newton, chọc ghẹo cậu bằng những câu nói cay cú và đã dúi ngã cậu. Newton cố gắng chống cự lại, nhưng với vóc dáng nhỏ bé, cậu không thể làm được gì anh chàng to lớn kia. Cậu chỉ còn một cách duy nhất là học thật giỏi, học để chứng tỏ bản lãnh của mình. Từ đó cậu luôn chiếm vị trí danh dự đầu lớp.
Với thành tích ấy, cậu được thầy cô và các bạn bè quí mến, và dĩ nhiên, những trò đùa tai ác không còn nữa mà thay vào đó là sự kính phục của mọi người. Sau này, khi nói về kỷ niệm thời thơ ấu này, nhà bác học luôn quả quyết : chính cáic dúi ngã đó là lực đẩy khiến tôi học thật giỏi.
Các em thân mến, Newton, người phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn, đã biết khắc phục khó khăn để trở nên một nhà bác học lừng danh.
Trong đời sống tôn giáo, để được lớn lên, ta phải siêng năng lãnh nhận Bí tích Hòa giải, Bí tích Thánh Thể, cần chăm chỉ học Lời Chúa và chuẩn bị tốt lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Vậy từ nay, các em quyết tâm chuyên chăm học Lời Chúa để lớn khôn về đức tin.
3. Bài làm ở nhà :
Ghi lại câu Lời Chúa (Lc 2,52), đóng khung và tô màu chữ nào em cảm thấy thích nhất trong câu Lời Chúa.
V. KẾT THÚC.
Qua giờ học giáo lý đầu tiên hôm nay, chúng ta đã ngắm nhìn Chúa Giêsu và thấy Chúa đã lớn lên về thân xác, trí tuệ và đức tin. Chính vì yêu thương, Chúa đã ban cho chúng ta nên giống Chúa : thân xác lớn thêm, trí tuệ phát triển và nhất là hồng ân đức tin. Vậy bây giờ chúng ta đứng lên để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa.
- Sáng danh...
- Chúng em cám ơn anh (chị).
- Chúc các em ra về bằng an và luôn nhớ noi gương Chúa Giêsu nhé !
PHẦN I
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
BÀI 1
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO VÀ QUAN PHÒNG
Lời Chúa : “Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao ?” (Mt 6,26).
Ý chính : 1. Ý nghĩa công cuộc sáng tạo (Rm 1,19-20).
2. Thiên Chúa quan phòng (Mt 6,26-33).
3. Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo (St 1,2).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 279-354
Tâm tình : Thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã tác tạo và an bài mọi sự.
Chuẩn bị : Sách Kinh thánh, tranh vẽ cảnh vật thiên nhiên, một số thực vật, động vật, hoa trái...
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : Ổn định chỗ ngồi, nhắc nhở những điều cần lưu ý.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp để biểu lộ cho chúng con thấy sự thiện hảo và tình yêu quan phòng của Chúa đối với chúng con.
Xin cho chúng con nhận ra điều đó để luôn biết ca ngợi và cảm tạ tình yêu Chúa.
3. Giới thiệu tổng quát phần I : Tuyên xưng đức tin.
Chương trình giáo lý của chúng ta qui chiếu cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 11.10.1992. Trong những năm vừa qua, các em đã học cuốn Đến Bàn Tiệc Thánh (ĐBTT) triển khai một phần nội dung cuốn GLHTCG này. Nay chúng ta tiếp tục học hỏi để thấu đáo hơn giáo lý của Chúa và nhất là cố gắng tuyên xưng, sống đức tin để ngày một lớn khôn trong Chúa. Chúng ta bắt đầu phần Tuyên xưng đức tin với bài Thiên Chúa sáng tạo và quan phòng.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Dạo tháng 4/97 vừa qua, vụ hỏa hoạn thánh đường thánh Chambéry tại Rôma đã suýt thiêu rụi báu vật khăn liệm thành Turino (x. Kiến thức ngày nay số 246, trang 17). Tục truyền rằng đó là khăn liệm xác Chúa Giêsu.
Làm sao biết được tính xác thực của báu vật ?
Các nhà khoa học đã khảo nghiệm những sợi vải và dấu máu in trên vải nên đã quả quyết về tính xác thực của báu vật.
Như vậy, bất cứ đồ vật nào cũng đều ghi dấu thời đại của mình. Đồ vật là như thế, còn trời đất và vũ trụ bao la này có nói gì với ta về nguồn gốc, về Đấng tác tạo nên nó không ? Thánh Phaolô tông đồ cho chúng ta một gợi ý suy nghĩ, chúng ta hãy lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma
(Rm 1,19-20)
“Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã chuẩn bị : họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người”.
- Đó là Lời Chúa
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi GLV mời các em ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Ý nghĩa công cuộc sáng tạo :
Thánh Phaolô tông đồ đã giúp chúng ta một cách thức tìm biết Thiên Chúa là nhìn vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, tức là khi nhìn vào trời đất, vũ trụ chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển.
Trong bài 1 của cấp I ĐBTT - Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật - các em đã khám phá được 2 điều kỳ diệu :
- Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật từ hư không nhờ Lời quyền năng.
- Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật vì yêu thương loài người chúng ta.
Đó là 2 ý nghĩa căn bản của công cuộc sáng tạo. Và khi nhìn nhận 2 ý nghĩa này, chúng ta khám phá ra rằng : Thiên Chúa là Đấng Quyền Năng và yêu thương :
+ Trong khi các người chế tạo, các nhà máy chế biến luôn phải dùng những gì có sẵn để làm ra các sản phẩm (GLV dùng những hình ảnh chế tạo thích hợp của địa phương : thợ mộc chế tạo ghế từ gỗ, nhà máy giấy làm ra giấy từ tre, gỗ và các hóa chất...) thì Thiên Chúa làm ra những sản phẩm mới từ hư vô, nhờ Lời quyền năng : “Hãy có, liền có”.
+ Trong khi các người chế tạo, các nhà máy chế biến làm ra những sản phẩm vì mục đích chính trị, kinh tế, thống lãnh thị trường, làm giàu cho bản thân, gia đình, đất nước... thì Thiên Chúa sáng tạo muôn vật vì yêu thương loài người chúng ta. Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc nên Thiên Chúa đã sáng tạo tất cả những gì làm cho con người được hạnh phúc.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, giàu sang, và hạnh phúc. Khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa muốn biểu lộ và thông ban vinh quang của Người cho loài người chúng ta để chúng ta nhận biết và sống hạnh phúc.
(GLV có thể minh hoạ : mặt trời, tinh tú, cây cối, khí hậu... đều được tạo dựng vì con người và cho con người, để cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa và lòng yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người).
2. Thiên Chúa quan phòng :
Nhìn vào muôn loài trong vũ trụ, không những chúng ta khám phá được 2 điều kỳ diệu trên mà còn khám phá ra điều kỳ diệu thứ ba như Lời Chúa nói với chúng ta. Mời các em đứng nghe Lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 6,26-33)
“Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học : chúng không làm lụng, không kéo sợi ; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
- Đó là Lời Chúa
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa trên đây cho chúng ta thấy lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với muôn loài tạo vật và nhất là đối với loài người chúng ta :
a. Thiên Chúa chăm sóc muôn loài :
Qua trình thuật sáng tạo (St 1,1-2,4a và x. Bài 1 ĐBTT), và Lời Chúa vừa nghe, chúng ta thấy :
- Chim trời không gieo không gặt, thế mà không con nào chết đói, hoa đồng nội không thêu không dệt mà vẫn khoe sắc với muôn loài. Mọi tạo vật đều tốt đẹp (x. St 1,10.12.18.21.25.31). Khoa học không gian ngày nay đã cho thấy vũ trụ bao la với muôn ngàn tinh tú, nhưng tất cả được sắp xếp trong một hài hòa tuyệt diệu. Mỗi tinh tú có một vận tốc kinh khủng và một vận hành rộng lớn. Mỗi tinh tú có một quĩ đạo riêng, tất cả đều có tác động hỗ tương, không những không phá hủy nhau, va chạm nhau mà lại hỗ trợ nhau đến nỗi nếu thiếu một tinh thể (thí dụ mặt trăng) thì các hành tinh khác đều bị biến động (GLV có thể cho những con số cụ thể về tốc độ của một số hành tinh : trái đất - mặt trăng - tinh tú ...) (1). Tất cả đều tuân theo những định luật tốt đẹp ... Như vậy, sáng tạo vật gì, Thiên Chúa đặt vật đó ở một vị trí, một hoàn cảnh thuận tiện và một sự chăm sóc chu đáo.
- (GLV lần lượt cho các em quan sát một cây, một con vật để diễn giảng :) Mới mọc lên, mới sinh ra thì nhỏ bé, yếu ớt, bất lực ... nhưng lớn dần, khỏe hơn, khôn hơn, theo dòng thời gian trước khi tàn lụi, chết đi (GLV tiếp tục cho các em quan sát những sản phẩm của khoa học : cái xe, cái áo, cái cặp, cái Radio, TV ... để diễn giảng :) mới xuất xưởng, mới mua về thì tốt, đẹp ... nhưng càng để lâu ngày, càng xấu đi, hư đi : cái cặp mới mua về thì đẹp, tốt ... hai năm sau đã cũ kỹ, xấu đi ; cái áo khi má mới cho thì đẹp, sạch ... hai năm sau đã dơ, đã rách ...
- Từ những khác biệt giữa muôn loài thiên nhiên và các sản phẩm khoa học, chúng ta có thể nhận định rằng : khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa đã phú bẩm cho mỗi tạo vật một sức năng động biến đổi nên tốt hơn, lớn hơn.
- Hơn thế nữa, sách giáo lý mới của Hội thánh còn giúp chúng ta đi xa hơn : các tạo vật có sự tốt lành riêng của chúng, nhưng chúng chưa hoàn hảo khi được tạo dựng : các tạo vật thiên nhiên được sáng tạo trong một tình trạng “trên đường đi tới” một sự toàn hảo tốt hơn cần phải đạt được như Thiên Chúa đã muốn cho chúng.
Đứng trước những kỳ thú của vũ trụ này, con người không thể không thán phục Thiên Chúa. Lúc 10g56' ngày 18.07.1969, Neil Armstrong (Phil Stronggarm) đã đặt chân xuống mặt trăng. Sau này, khi nói về giây phút kỳ diệu đó, ông đã nói : “Tôi đang đứng ở cửa sổ vũ trụ, tôi đã thấy những tuyệt tác của Thượng Đế, chúng thật tuyệt diệu”.
Như vậy, khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa luôn chăm sóc, sắp xếp, an bài một vị trí, một vận hành, một diễn tiến tốt đẹp cho tạo vật đó và cho tất cả muôn loài với nhau. Sự chăm sóc, an bài tốt đẹp, kỳ diệu này, ta gọi là sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngắm nhìn trời đất muôn vật được an bài kỳ diệu, tác giả Thánh vịnh 18 thốt lên :
“Trời xanh tường thuật vinh quang Chúa,
Không trung loan báo việc tay Người làm.
Chúa căng lều cho thái dương tại đó,
Thái dương xuất hiện như tân lang rời khỏi loan phòng
và vui sướng lên đường như tráng sĩ.
Từ chân trời này, thái dương xuất hiện,
rồi chuyển vần mãi đến chân trời kia,
chẳng có chi tránh khỏi ánh dương nồng” (Tv 18,2.6-7)
b. Thiên Chúa chăm sóc loài người :
Những lời Chúa Giêsu nói : “Anh em lại chẳng quí giá hơn chim trời sao” (Mt 6,26), “nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em... Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,30-32), đều nói lên lòng yêu thương chăm sóc tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người. Như vậy, điều khám phá thứ hai khi tìm hiểu về sáng tạo vẫn đúng khi tìm hiểu về sự quan phòng của Thiên Chúa : Thiên Chúa quan phòng muôn loài vì yêu thương loài người chúng ta. Loài người là chóp đỉnh của công cuộc sáng tạo. Loài người cũng là chóp đỉnh của sự an bài, quan phòng : Thiên Chúa tạo dựng, sắp xếp, chăm sóc muôn loài là để loài người có điều kiện tốt đẹp nhất đạt được hạnh phúc.
Tất cả những cách thức tạo dựng, sự sắp xếp, sự chăm sóc của Thiên Chúa dành cho tạo vật và cho loài người được gọi là sự quan phòng.
3. Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo.
Phải chờ đến Tân ước, chúng ta mới đón nhận được mạc khải phong phú về Chúa Thánh Thần. Dù vậy, ngay những dòng đầu tiên của sách Sáng Thế, chúng ta cũng đã thấy hé mở sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sách Sáng thế 1,2 nói : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”.
Câu Kinh thánh này cho thấy ngay từ buổi đầu tiên của vũ trụ, đã có sự hiện diện của một Thần Khí ban sự sống. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong công cuộc sáng tạo, đã làm cho mọi vật được hiện hữu. Riêng con người, Thiên Chúa không chỉ ban cho có thân xác mà còn “thổi hơi” (St 2,7), ban sự sống cho con người. “Thổi hơi” theo nghĩa Kinh Thánh, là trao ban sự sống, sự sống của chính Thiên Chúa nghĩa là Chúa Thánh Thần.
Như vậy, dẫu chưa rõ rệt, nhưng chúng ta thấy Chúa Thánh Thần đã hiện diện ngay từ đầu của vũ trụ. Người cũng sẽ hiện diện mãi trong suốt dòng lịch sử của vũ trụ vì Người là Thần Linh Thiên Chúa và là nguồn mạch sự sống. Muốn có sự sống đích thực, chúng ta phải biết rộng mở tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần, để Người ban sự sống dồi dào, thánh thiện cho mọi ngày sống của chúng ta.
Khi đã nhận biết :
- Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người từ hư vô do Lời quyền năng.
- Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật vì yêu thương loài người chúng ta.
- Thiên Chúa sáng tạo và quan phòng muôn vật và con người, cho tất cả được phát triển tốt đẹp, được hạnh phúc thì chúng ta không thể không dâng lời cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa. Vì thế, mời các em sốt sắng cầu nguyện (mời đứng) :
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo mọi vật thật tốt đẹp. Chúa lại còn quan phòng tài tình để mọi vật đi đúng hướng Chúa muốn. Xin cho con luôn sống tâm tình con thảo, yêu mến, tôn thờ, phó thác vào Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao ? (Mt 6,26).
03. H. Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng điều gì về Thiên Chúa sáng tạo ? # (GLCG. 39)
T. Ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình.
04. H. Vì sao Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật ? (GLCG. 43)
T. Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật để biểu lộ và thông ban vinh quang của Người.
05. H. Thiên Chúa có chăm sóc những loài Chúa đã sáng tạo không ? (GLCG. 44)
T. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăm sóc và hướng dẫn mọi loài thụ tạo, để vũ trụ tiến dần đến mức hoàn hảo như Chúa muốn. Đó là sự quan phòng.
06. H. Ta phải có thái độ nào đối với Đấng Sáng Tạo ? (GLCG. 47)
T. Ta phải luôn sống tâm tình con thảo, yêu mến, tôn thờ, phó thác vào Người và cùng với mọi người bảo vệ, phát triển thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Một hôm có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt, anh nằm nghỉ dưới gốc cây đa cổ thụ, nhìn lên, anh thấy cành lá xum xuê, nhưng trái đa thì lại nhỏ xíu. Anh nghĩ : sao cây to lớn như thế này mà trái lại nhỏ nhỉ ? Nếu ta là ông trời, ta cho nó mang trái lớn như trái bí và lá to như lá chuối, thế mới cân xứng chứ. Dây bí nhỏ thó mà phải mang trái lớn ; cây chuối yếu mềm mà phải mang lá to như tấm phản... Quả là Ông Trời chẳng khôn ngoan chút nào, hay là không có Ông Trời, mọi vật tự nhiên mà có chăng ?... Đang miên man nghĩ tưởng như vậy, anh thiếp ngủ lúc nào không hay. Một cơn gió lớn thổi mạnh làm rớt xuống sống mũi anh một trái đa. Anh giật mình thức giấc, vừa xít xoa vừa nghĩ : “May quá, nếu mà trái đa như trái bí thì bữa nay ta bể mặt hoặc tận số rồi. Thì ra Ông Trời khôn thật, Người xếp đặt cả rồi đấy chứ !?
Các em thân mến, Thiên Chúa là Cha nhân từ, đã xếp đặt mọi sự tốt đẹp hài hòa, nên chúng ta phải tin tưởng phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không cậy sức mình, không ỷ lại, không lười biếng, không trốn tránh trách nhiệm, nhưng cùng với mọi người tìm kiếm Nước Chúa trong khi xây dựng cuộc sống này cho tốt đẹp hơn.
Vậy điều thực hành trong tuần này là : Em tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa, vì Chúa là Cha của em.
3. Bài làm về nhà :
Em viết lại vào vở bài làm 3 khám phá khi tìm hiểu về công cuộc sáng tạo trời đất muôn vật.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến, chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng, yêu thương, chăm nom, săn sóc. Chúng ta phải biết phó dâng cho Chúa mọi lo toan của từng ngày sống. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết tin tưởng và cậy trông vào sự quan phòng của Chúa.
Mời các em đứng lên hát bài : “Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa”.
- Chúng em chào anh (chị).
- Anh (chị) chào các em. Chúc các em về bình an. Nhớ sống tin tưởng vào Chúa nhé.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI
Lời Chúa : “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Chúa”
(St 1,27).
Ý chính : 1. Thiên Chúa tạo dựng con người (St 1,26-28 ; 2,15-16).
2. Đặc ân của loài người trong thời sáng tạo (St 2,15.18-23).
3. Thái độ của loài người (Tv 8,4-9).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 355-384
Tâm tình : Cảm tạ yêu mến Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta giống hình ảnh Chúa.
Chuẩn bị : - Tranh 1 lực sĩ, một ca sĩ hay một người mẫu.
- Ảnh một vị thánh.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : ổn định chỗ ngồi.
2. Thánh hóa :
Thế giới mà các em đang sống có biết bao điều kỳ diệu, mà điều kỳ diệu nhất chính là con người. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, được Thiên Chúa bao bọc bằng ân sủng và tình yêu của Người. Các em hãy cúi đầu cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta sống Ơn gọi làm người và làm con Chúa.
3. Dẫn vào bài mới :
Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật tốt đẹp để làm khung cảnh và nhà cho con người. Con người mới là chóp đỉnh của công cuộc sáng tạo. Và đây là nội dung của bài học hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Thánh Augustinô kể rằng : Ngài đã vất vả, long đong đi tìm kiếm xem Ai dựng nên Ngài ? Gặp đất, Ngài hỏi :
- Hỡi đất ! Đất có phải là Thiên Chúa của tôi không ?
Mặt đất xao động dưới chân rồi trả lời :
- Không. Tôi không phải là Thiên Chúa của bạn.
Tới bên vực thẳm, ngó xuống miệng vực thẳm sâu hoẳm, Ngài hỏi :
- Vực thẳm bí hiểm ơi ! Phải ngươi là Thiên Chúa tôi không ?
Từ dưới đáy vực, có tiếng vang vọng đáp :
- Không. Tôi không phải là Thiên Chúa của bạn.
Trầm mình dưới nước biển, Ngài lại hỏi :
- Biển cả mênh mông ơi ! Phải ngươi là Thiên Chúa của tôi không ?
Mặt nước chao qua, đảo lại rồi chúm chím trả lời :
- Không. Tôi không phải là Thiên Chúa của bạn.
Ngài còn hỏi nhiều loài, nhiều vật khác nữa. Nhưng đều chỉ nhận được tiếng trả lời “KHÔNG”. Cuối cùng thất vọng quá, Ngài kêu lên :
- Ôi ! Nếu các bạn không phải là Thiên Chúa của tôi, thì xin chỉ dùm xem : Ai là Đấng dựng nên tôi ?
Muôn loài, muôn vật xôn xao rồi đồng thanh cất tiếng :
- Chính Thiên Chúa cao cả đã tạo dựng chúng tôi. Người dựng nên cả loài người các bạn nữa đấy !
(Trích trong Góp nhặt 2 tr.339).
Muôn vật đã trả lời cho thánh Agustinô : “Chính Thiên Chúa cao cả đã tạo dựng nên muôn loài và dựng nên cả loài người nữa”. Vậy Thiên Chúa tạo dựng nên con người thế nào ? Lời Chúa trong sách Sáng thế đã soi sáng cho chúng ta, mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Sáng thế (St 1,26-28 ; 2,15-16).
“Thiên Chúa phán : “Chúng ta sẽ làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ, và Thiên Chúa phán với họ : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Thiên Chúa tạo dựng con người (x. B.2+14 ĐBTT).
Khi học cấp I ĐBTT, các em đã biết Thiên Chúa tạo dựng con người làm sao ? Giờ đây chúng ta vắn tắt ôn lại : Sách thánh đã kể lại công cuộc tạo dựng con người mà chúng ta có thể ghi nhận qua 4 bước :
- Trước tiên, Thiên Chúa có một ý định : “Ta hãy làm ra người”.
- Thứ đến, Thiên Chúa chọn một kiểu mẫu, một mô hình : “theo hình ảnh Ta”, Thiên Chúa chọn chính mình làm kiểu mẫu, nghĩa là cho con người được giống Chúa.
- Tiếp đó, Kinh Thánh diễn tả hành động của Thiên Chúa theo lối làm việc của người thợ gốm : lấy bụi đất, nặn thành hình người.
- Sau cùng, Thiên Chúa “thổi hơi vào mũi”. Hơi thở biểu thị sự sống. Thiên Chúa thông ban cho con người sự sống : sự sống của sinh vật và sự sống của chính Người.
Qua cách thức diễn tả như thế, Kinh thánh muốn cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương con người ngay từ khi sáng tạo trời đất muôn loài : cho con người được tham dự vào chính sự sống sung mãn của Thiên Chúa, có khả năng hiệp thông với Thiên Chúa, tức là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
2. Đặc ân của loài người trong thời sáng tạo.
Lòng yêu thương của Thiên Chúa dành cho loài người không chỉ biểu lộ trong công việc tạo dựng con người mà còn được nhìn thấy qua những đặc ân Thiên Chúa ban cho loài người ngay sau khi tạo dựng. Sách thánh đã kể lại cuộc sống của Ông Bà nguyên tổ Ađam - Evà sau khi được tạo dựng như sau (mời đứng) :
Lời Chúa trong sách Sáng thế (St 2,15.18-23).
“Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai.... Đức Chúa là Thiên Chúa phán : “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì : hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói : “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi ! nàng sẽ được gọi là đàn bà ; vì đã được rút từ đàn ông ra”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Bằng hình ảnh một nông trại, Kinh thánh muốn diễn tả những đặc ân Thiên Chúa ban cho loài người trong thời sáng tạo :
a) Sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa :
Con người không những là chóp đỉnh của công cuộc sáng tạo mà còn được tham dự vào sự sống hạnh phúc của Thiên Chúa : “Thiên Chúa đã cho từ đất mọc lên mọi thứ cây coi sướng mắt và ăn ngon miệng và cây sự sống ở giữa vườn cùng cây biết tốt xấu... Thiên Chúa ban tất cả cho con người... Thiên Chúa còn ban cho con người đầu tiên tình bạn thắm thiết qua hình ảnh tạo dựng và dẫn đến cho Ađam người nữ Eva, khiến ông sung sướng thốt lên : đây là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi” nghĩa là đã tìm thấy hạnh phúc với chính người bạn đó. Sách Sáng thế diễn tả người nữ được tạo dựng từ xương sườn người nam. Kiểu nói này diễn tả : nam nữ có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, nam nữ cùng một loài, một bản tính và một địa vị như nhau. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn ban cho con người đầu tiên được tham dự vào tình thân với chính Thiên Chúa qua hình ảnh “khi gió hiu hiu thổi chiều hôm, Thiên Chúa tản bộ trong vườn, đến thăm hỏi, hàn huyên với ông bà” (St 2,8). Quả thật, con người đầu tiên đã được sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa.
b) Không phải đau khổ và không phải chết.
Những dòng đầu của sách Sáng thế còn cho thấy một đặc ân khác của con người trong thời sáng tạo : được đặt trong tình nghĩa với Đấng sáng tạo của mình, sống hòa điệu với bản thân và với vạn vật : con người được hoàn toàn hạnh phúc. Đau khổ không len lỏi vào tâm trí và đời sống con người. Con người còn được tham dự vào sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa : quả “cây biết tốt xấu không được ăn vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi sẽ chết” (St 2,17) nghĩa là bao lâu còn ở trong tình thân với Thiên Chúa, con người không phải chết.
Thế nhưng, tất cả những đặc ân này đã mất khi tổ tông phạm tội ! Thật đáng buồn cho con người như chúng ta sẽ thấy trong bài 3.
3. Thái độ sống của con người.
Khi chiêm ngắm những đặc ân mà Thiên Chúa ban cho con người trong thời nguyên thủy, chúng ta đồng cảm với tác giả Thánh vịnh 8, dâng lời ca tụng Thiên Chúa - mời đứng.
Lời Chúa trong sách Thánh vịnh (Tv 8,4-9)
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm ?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi)
Cùng với tâm tình cảm ơn và yêu mến Thiên Chúa, chúng ta còn phải nỗ lực làm cho cuộc sống của ta và mọi người càng thêm tươi đẹp và đầy yêu thương. Cụ thể, chúng ta biết sống như thánh Phaolô đã dạy :
“Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (Rm 6,13).
Nỗ lực này càng phải mạnh hơn vì chúng ta biết rằng những đặc ân Thiên Chúa ban cho con người thời sáng tạo đã bị mất vì nguyên tổ đã phạm tội. Giờ đây phải cậy nhờ đến ơn Chúa cứu chuộc, chúng ta mới có thể tìm lại được hạnh phúc ban đầu.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con, Chúa lại còn tiếp tục chăm sóc, giữ gìn và ban cho con nhiều ân huệ lạ lùng. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa Thánh Thần canh tân tâm hồn con, để con trở nên hoàn hảo như lòng Chúa mong muốn.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình” (St 1,27).
07. H. Thiên Chúa tạo dựng con người làm sao? # (GLCG. 48)
T. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Chúa, có khả năng nhận biết và yêu mến Người.
08. H. Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người những đặc ân nào ? (GLCG. 51)
T. Thiên Chúa đã ban cho tổ tông loài người được sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng hạnh phúc ấy đã mất khi Tổ tông phạm tội.
09. H. Được Thiên Chúa ban cho sự sống và phẩm giá cao quí như vậy, ta phải làm gì ? (GLCG. 52)
T. Ta phải biết cám ơn và yêu mến Thiên Chúa, đồng thời cố gắng làm cho cuộc sống của ta và mọi người ngày càng thêm tươi đẹp, và đầy yêu thương.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Trên chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, một chàng sinh viên chăm chú nhìn một người đàn ông dáng vẻ lịch duyệt, đang mải miết đọc một cuốn sách cũ. Bị kích động vì thái độ cần mẫn của ông lão, chàng thanh niên mon men đến gần làm quen, và anh hoàn toàn thất vọng khi thấy quyển sách mà ông lão đọc đó là một quyển Kinh thánh. Với giọng nói đầy trịnh trọng, chàng nói với ông lão :
Này cụ, đến bây giờ mà cụ còn đi tìm những điều vô ích nơi quyển sách cỗ lỗ đó nữa sao ? Cụ có biết cho đến bây giờ, người ta đã phát hiện ra những điều quan trọng, từ những con vi trùng nhỏ bé trong vũ trụ, cho đến các máy móc hiện đại có khả năng làm những công việc với năng suất và độ chính xác cao. Nếu cụ muốn, hôm nào cháu sẽ mang đến biếu cụ ít cuốn sách khoa học để cụ thấy rằng thế giới của chúng ta đã thay đổi như thế nào !
Ngước nhìn chàng thanh niên với ánh mắt điềm đạm, cụ già thong thả móc túi đưa chàng thanh niên tấm danh thiếp. Cặp mắt chàng thanh niên vội mở to với tất cả sự kinh ngạc. Tấm danh thiếp ấy ghi dòng chữ : LOUIS PASTEUR, Viện trưởng Viện Hàn Lâm khoa học Paris.
Các em thân mến, Louis Pasteur, cha đẻ của ngành Vi trùng học, là người đã chế tạo ra Vắc-xin ngừa bệnh chó dại, đã có một thái độ thành kính và học hỏi Thánh Kinh. Chính ông, khi tìm hiểu những kỳ công của Thiên Chúa được kể lại trong Thánh Kinh, đã có thể góp công sức của mình để phục vụ hữu hiệu con người là chóp đỉnh của công cuộc tạo dựng. Vậy, em quyết tâm học tập các môn đạo đời để phát triển khả năng nhận biết và yêu mến Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Em viết lại những đặc ân Thiên Chúa ban cho con người thuở sáng tạo.
V. KẾT THÚC.
- Tâm tình cảm tạ, yêu mến Thiên Chúa.
- Yêu thương kính trọng các bạn.
- Sáng danh...
- Chào nhau.
Lời Chúa : “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn : bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình ; ông cũng ăn” (St 3,6).
Ý chính : 1. Thiên thần và loài người sa ngã (St 3,1-7).
2. Hậu quả tội tổ tông (St 3,16-24a).
3. Tội tổ tông truyền (Rm 5,15-16.19).
4. Lời hứa cứu chuộc (Rm 5,15-17).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 385 - 421
Tâm tình : Sợ tội và quyết vâng lời Chúa.
Chuẩn bị : - Tranh số 8 ĐBTT cũ.
- Các hình ảnh chiến tranh, nếu có.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : ổn định chỗ ngồi, cùng hát bài “Chúa dựng nên em” .
2. Thánh hóa :
Mỗi người chúng ta đều bị cám dỗ, cám dỗ không phải là tội. Chúng ta chỉ phạm tội khi sa ngã chiều theo cơn cám dỗ và từ chối Chúa.
Chúng ta hãy xin Thánh Thần Chúa giúp chúng ta nhận biết điều hay lẽ phải, và biết lựa chọn điều tốt hơn là điều xấu.
3. Dẫn vào bài mới :
Hạnh phúc Thiên Chúa ban cho tổ tông từ thuở ban đầu, không còn nữa, vì ông bà đã cố tình nghe theo lời xúi dại của ma quỉ, chống lại Thiên Chúa ; các thiên thần cũng vậy. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu biến cố đau thương này : thiên thần và loài người sa ngã.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Họa sĩ Léonard de Vinci đã vẽ bức họa “Tiệc Ly”. Đây là một kiệt tác nghệ thuật thế giới. Hoạ sĩ đã vẽ bức họa trên tường phòng ăn của một tu viện ở Milan (Italia). Khi thực hiện bức họa, ông đã nghiên cứu, lý luận, suy tư rất nhiều. Ông dành thời giờ đi khắp đó đây để tìm người mẫu thích hợp cho từng nhân vật. Một ngày nọ, ông đã tìm được một thanh niên đạo đức, trong sạch, có khuôn mặt diễn tả được nét mặt cao sang oai nghi, thánh thiện và hiền từ của Chúa Giêsu như ý ông muốn. Vài năm sau, ông đã vẽ xong các tông đồ, chỉ còn thiếu Giuđa, ông lại đi tìm và đã gặp một thanh niên có bộ mặt xảo trá, gian manh, xấu xa như ý ông muốn vẽ về Giuđa. Ông đã thuê chàng trai đó làm người mẫu. Ông vẽ xong, chàng thanh niên làm người mẫu Giuđa ôm mặt khóc và nói với họa sĩ : “Ông không nhớ tôi là ai sao ? Tôi là người cách đây mấy năm đã làm người mẫu cho ông vẽ Chúa Giêsu”. Con đường trụy lạc tội lỗi đã biến đổi con người khác đi như vậy đó !
B. Công bố Lời Chúa :
Bài trích sách Sáng thế ký (St 3,1-7)
“Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng ; mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà : “Có thật Thiên Chúa bảo : “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không ?” Người đàn bà nói với rắn : “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo : các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”. Rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình, ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng : họ mới kết lá vả làm khố che thân”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Thiên thần và loài người sa ngã (x. B. 3 ĐBTT).
(GLV có thể phấn khích các em kể lại câu chuyện sa ngã của thiên thần dựa theo Kh 12,7-17 và của loài người dựa theo St 3,1-6.9-13 rồi bổ túc dựa theo những ý chính sau :)
- Con người được dựng nên trong sự công chính. Tuy nhiên, ngay từ đầu lịch sử, con người nghe theo thần dữ nên đã lạm dụng tự do của mình mà nổi dậy chống lại Thiên Chúa (Hc.MV 13).
- Tuy nhiên, con người không phải là tạo vật đầu tiên chống lại Thiên Chúa mà ma quỉ mới là tạo vật đầu tiên chống lại Thiên Chúa. Sa tan cùng đồng bọn là những thiên thần được Thiên Chúa dựng nên tốt lành nhưng đã trở nên xấu xa vì đã chống lại Thiên Chúa cách dứt khoát. Con người phạm tội vì đã nghe theo lời dụ dỗ của ma quỉ “vì ma quỉ phạm tội từ lúc khởi đầu” (1 Ga 3,8).
2. Hậu quả tội tổ tông.
Nguyên tổ loài người, Ađam - Evà, đã lạm dụng tự do để làm theo ý mình, không vâng phục Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người. Tội đầu tiên này đã lôi kéo theo muôn vàn tội lỗi của mọi người qua các thời đại. Khi từ bỏ Thiên Chúa, Đấng duy nhất tốt lành (x.Mt 19,17), con người tự ý nhận lấy mọi hậu quả xấu xa của tội lỗi như sách Sáng thế ghi lại (mời đứng) :
Lời Chúa trong sách Sáng thế (St 3,16-24a)
“Với người đàn bà, Chúa phán : “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén ; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi”. Với con người, Chúa phán : “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng : “Ngươi đừng ăn nó”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi ; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”. Con người đặt tên cho vợ là Evà vì bà là mẹ của chúng sinh. Đức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ. Đức Chúa là Thiên Chúa nói : “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi”. Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Êđen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. Người trục xuất con người, và đặt ở phía đông vườn Êđen các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trương sinh”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Trình thuật cho thấy : sau khi sa ngã, ông bà nguyên tổ đã mất quân bình khi thấy mình trần truồng (x. St 3,7), chạy trốn Thiên Chúa (x. St 3,8) ; tương quan giữa hai người không còn bình đẳng, hòa hợp như trước (x. St 3,16), đất đai đã chống lại con người và con người phải vất vả cực nhọc mới chinh phục được thiên nhiên. Cuối cùng, con người phải trở về bụi đất (x. St 3,18-19).
Như vậy, hậu quả đầu tiên của tội tổ tông là mất tình nghĩa với Thiên Chúa. Đánh mất sự hòa hợp với Thiên Chúa, con người bị chia rẽ và xáo trộn nơi chính bản thân mình, mất hòa hợp với người khác và xung khắc với vạn vật. Và do đó đau khổ xâm chiếm con người : đau khổ nơi thân xác : bệnh tật, chết chóc ; đau khổ nơi tâm hồn : “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19) ; đau khổ vì người đồng loại chém giết nhau : (Cain giết Abel (x. St 4,8-9) ; đau khổ vì thân phận, nghề nghiệp (x. St 3,6-19) vì con người đã bị Thiên Chúa đuổi khỏi vườn địa đàng (x. St 3,23-24).
Hậu quả thứ hai thật là bi đát : con người phải chết. Thiên Chúa đã nói cho ông bà Ađam - Evà biết trước : “Ngày nào ngươi ăn nó tất ngươi sẽ chết” (St 2,17). Nay ông bà đã ăn nên ông bà phải chết. Cái chết đã đến với con người, nên làm người, ai cũng phải chết (x. Rm 5,12).
Và từ tội đầu tiên này, tội lỗi đã lan tràn và thống trị khắp thế giới. “Nhìn sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng mình đã hướng về sự dữ và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ”
(Hc. MV 13).
3. Tội tổ tông truyền.
Con người đầu tiên là Ađam đã phạm tội mất tình nghĩa với Thiên Chúa nên tất cả con cháu thuộc dòng giống loài người đều sinh ra trong tình trạng tội lỗi của Ađam. Ađam đã nhận được ơn thánh thiện và công chính ban đầu, không chỉ cho riêng mình ông, nhưng cho toàn thể nhân loại. Vậy, một khi Ađam đã đánh mất đặc ân đó vì tội mình, thì nhân loại sinh ra từ Ađam cũng không còn được ở trong tình nghĩa hòa hợp với Thiên Chúa. Tình trạng mất ơn nghĩa với Chúa của mọi người sinh ra ở đời này, ta gọi là TỘI TỔ TÔNG TRUYỀN. Thánh Phaolô khi so sánh tội của Ađam với ơn cứu độ của Chúa Kitô, đã cho ta thấy tính cách lưu truyền tội nguyên tổ, mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma
(Rm 5,15-16.19)
“Vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết. Vì một người duy nhất phạm tội con người đã bị xử án để phải mang án... Vì một người duy nhất đó không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người thành tội nhân.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
(GLV có thể minh hoạ tội tổ tông truyền bằng những thí dụ : cha mẹ bị phá sản, con cái chịu thiệt thòi ; con cái mang chứng bệnh di truyền của cha mẹ, người dân chịu ảnh hưởng cuộc sống của dòng tộc, của thời đại...v.v.)
Chính vì mọi người sinh ra trong tình trạng mất ơn thánh thiện và công chính ban đầu, nên bản tính con người đã bị tổn thương suy yếu và hướng về điều xấu. Thánh Phaolô giúp chúng ta ý thức rõ ràng về sự yếu đuối của con người khi nói : “Tôi lại mang tính xác thịt... khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” (Rm 7,14.21).
Như vậy, tất cả mọi người đều chịu ảnh hưởng xấu xa của tội lỗi, cuộc sống con người trên trần gian trở thành cuộc chiến đấu chống lại sự ác dưới mọi hình thức, nơi bản thân cũng như nơi xã hội. Để đạt tới sự tốt lành như Thiên Chúa muốn, con người phải kiên trì chống lại tội lỗi. Tuy nhiên, trong cuộc chiến khốc liệt và kéo dài suốt đời này, chúng ta luôn có Chúa Kitô đồng hành và trợ giúp, luôn có Chúa Thánh Thần soi sáng và tăng cường sức mạnh. Do đó, chúng ta luôn ý thức về bản tính yếu hèn của mình để không kiêu ngạo và ích kỷ, đồng thời biết nương tựa vào Chúa. Chúng ta cần được thanh tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô (x. Hc.MV 37).
4. Lời hứa cứu chuộc.
Ađam - Evà đã phạm tội “Ăn trái cấm” và kéo theo bao hậu quả tai hại cho ông bà và cho toàn thể nhân loại... Thế nhưng, Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, không bỏ mặc con người trong tình trạng tội lỗi thất vọng. Ngay khi tuyên án phạt ông bà, Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu chuộc cho ông bà và toàn thể nhân loại. Trước khi nghe tin vui về lời hứa cứu chuộc này, mời các em nghe câu chuyện này nhé.
Năm 1968, trong tuần Đại phúc tại giáo xứ Aix, một vị thừa sai đã kể câu chuyện sau đây làm xúc động mọi người :
“Cách đây 10 năm, một bà mẹ thấy giờ chết đã gần, các con cái bà đều đến vây quanh giường, chỉ thiếu có một đứa : Nó bị tù vì tội ác. Bà đã buồn phiền về việc này nên bà đã kiệt sức sớm. Dẫu thế, người mẹ hấp hối muốn thử lần cuối với hy vọng đứa con sẽ trở về đường ngay, mặc dầu cho tới khi đó, mọi lời cầu nguyện của bà đều xem ra vô hiệu ! Đứa con tội lỗi phải đến bên giường chết của mẹ mình. Người ta làm đơn xin ông giám đốc trại giam dẫn nó đến với bà mẹ, có lính bảo vệ cẩn mật. Dầu không còn mở miệng nói, bà mẹ dồn tàn lực nhìn nó với vẻ đau buồn sâu xa ! Cái nhìn của bà mẹ đã trở thành một phép lạ : trở về phòng giam, đứa con liền quì xuống và bắt đầu cầu nguyện. Ít lâu sau đó, nó cởi bỏ gánh nặng tội lỗi sau khi xưng tội đàng hoàng. Ơn thánh Chúa đã tiếp tục tác động trên nó. Sau thời gian giam giữ, nó cố gắng tu luyện, cuối cùng đã trở thành Linh mục. Có lẽ anh chị em muốn biết đứa con ấy là ai ? Vâng, tôi sẽ cho anh chị em biết : đứa con ấy chính là tôi !... Như vậy, hãy can đảm và trông cậy, hỡi anh em tín hữu thân mến. Dù tội chúng ta có lỗi nặng, có nhiều đến đâu thì lòng nhân hậu và lòng thương xót Chúa vẫn còn to lớn gấp mấy”.
Các em thấy đó, lòng thương yêu của một bà mẹ sẵn sàng tha thứ cho đứa con tội lỗi đã biến cải được tâm hồn chai đá của nó. Còn Thiên Chúa, Người yêu thương chúng ta hơn bà mẹ kia rất nhiều. Do đó, mặc dầu 2 ông bà Ađam - Evà đã phạm tội và lãnh án phạt, nhưng Chúa không bỏ hai ông bà. Chúa vẫn thương tha thứ và còn hứa ban Đấng Cứu Thế, để cứu chuộc loài người chúng ta nữa. Bây giờ, các em đứng lên lắng nghe Lời Chúa.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma
(Rm 5,15-17)
“Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xử án để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Hơn người mẹ nhìn đứa con tội lỗi, Thiên Chúa đã hứa và đã thực hiện lời hứa cứu rỗi. Thiên Chúa đã tìm đến với con người (x. St 3,8) và kêu gọi họ tin tưởng. Sự ác sẽ bị đánh bại (x. St 3,15) và con người sẽ lại được phục hồi phẩm giá. Chính Chúa Kitô đã phục hồi phẩm giá cho con người cách kỳ diệu, hơn cả phẩm giá lúc được sáng tạo. Chiến thắng tội lỗi do Chúa Kitô thực hiện đã mang lại cho chúng ta những lợi ích lớn lao hơn cả những lợi ích mà tội lỗi đã làm mất đi. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). “Ôi ! tội đã hóa thành hồng phúc. Nhờ tội, chúng ta mới có được Đấng cứu tinh cao cả dường này.” (Công bố Tin Mừng Phục sinh)
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, qua bài giáo lý hôm nay, con đã hiểu rõ hậu quả tai hại của tội lỗi : tội lỗi làm cho con xa Chúa, mất hạnh phúc thiên đàng. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn Sức Mạnh giúp con can đảm dứt khoát với tội và tránh xa dịp tội. Amen.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn : bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình ; ông cũng ăn” (St 3,6).
10. H. Các thiên thần và loài người có sống mãi trong tình nghĩa với Thiên Chúa không ? # (GLCG. 53)
T. Không. Vì một số thiên thần đã từ chối tình thương của Thiên Chúa và đã quyến rũ tổ tông loài người phạm tội chống lại Thiên Chúa.
11. H. Tội tổ tông đã gây nên những hậu quả nào ? (GLCG. 55)
T. Tội tổ tông làm cho loài người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa, mất sự hòa hợp với bản thân, với đồng loại và với mọi thụ tạo khác, nhất là vì tội mà con người phải đau khổ và phải chết.
12. H. Tội tổ tông có truyền lại cho con cháu không ? (GLCG. 56)
T. Có. Tội tổ tông đã truyền lại cho loài người một bản tính đã mất đi sự thánh thiện nguyên thủy. Ta gọi là tội tổ tông truyền.
13. H. Sau khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa có bỏ loài người không ? # (GLCG. 57)
T. Không. Thiên Chúa chẳng bỏ mà lại hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Tóc Nâu là một nàng công chúa bé nhỏ và xinh đẹp. Thế nhưng số phận đã sớm quay mặt với cô. Khi Tóc Nâu vừa được 8 tuổi thì mẹ em qua đời. Ít lâu sau, nhà vua đã cưới một người vợ kế. Bà mẹ kế vốn đầy ghen tỵ đã tìm cách hãm hại Tóc Nâu. Được biết người bảo vệ của công chúa, chàng Mập, vốn rất thích bánh ngọt, thế là Hoàng hậu đã mua chuộc để Mập bỏ rơi công chúa trong rừng. Bị lạc trong rừng, công chúa đã được 2 mẹ con Nai vàng và Miu Miu chăm sóc. Họ đối xử rất tử tế với cô, nhưng đặc biệt nhắc nhở cô không được đi ra khỏi hàng rào bằng vàng của ngôi nhà. Cho đến một hôm, cô gặp một con két. Con két gian giảo đã gieo vào đầu óc cô sự nghi ngờ lòng tốt của 2 mẹ con Nai vàng. Nghe theo lời dụ dỗ của Két, cô đã vượt ra khỏi hàng rào và ngắt đi nụ hồng, vốn lưu giữ sức sống của 2 mẹ con Nai vàng và Miu Miu. Hậu quả thật ác nghiệt, tòa nhà đã bị sụp đổ, cô cố công tìm kiếm nhưng không thấy 2 mẹ con Nai vàng đâu cả. Trong khi cô hối hận vì lỗi lầm của mình, một chú rùa đến an ủi và hứa dẫn cô đi tìm mẹ con Nai vàng nếu cô chịu ngồi trên lưng chú và không được nói một lời nào trên đường đi. Tóc Nâu đồng ý. Đây thật là một thử thách lớn cho cô, vì con rùa bò đi quá chậm. Thế nhưng nhớ lại lỗi lầm của mình vì đã không nghe lời mà dẫn đến cảnh khổ cực này, Tóc Nâu đã nhẫn nại chờ đợi. Và sau một thời gian dài, chú rùa đã đưa Tóc Nâu gặp lại mẹ con Nai vàng, họ đã được cứu nhờ sự vâng lời của cô.
Các em thân mến, chính vì không vâng lời mà Tóc Nâu đã hại những ân nhân và làm khổ mình. Sau này vì biết hối hận và chuộc lại lỗi lầm bằng cách vâng lời chú rùa, Tóc Nâu đã tìm lại được những người bạn tốt.
Đã hơn một lần, thiên thần và tổ tổng loài người trái lệnh Thiên Chúa, làm hỏng chương trình tạo dựng tốt đẹp, làm cho chính mình và chúng ta phải chết. Nhờ vào tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta được cứu độ. Vậy, để khỏi rơi vào tình trạng đau buồn này, chúng ta phải quyết tâm làm theo ý Chúa qua lời dạy của bề trên.
3. Bài làm ở nhà :
Viết câu “xin Chúa cứu con”.
V. KẾT THÚC.
- Nhắc nhở các em học bài, sống giáo lý.
- Đọc kinh Sáng danh...
- Chào nhau.
BÀI 4
CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
Lời Chúa : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Ý chính : 1. Ngôi Hai xuống thế làm người (Mt 1,18-25).
2. Ý nghĩa mầu nhiệm Nhập thể (Ga 3,16-17).
3. Bản tính của Chúa Giêsu Kitô (Pl 2,6-7).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 456-511
Tâm tình : Vui mừng, tri ân, cảm tạ.
Chuẩn bị : - Bản đồ thánh địa.
- Tranh Giáng sinh (12-20-26 ĐBTT cũ).
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : ổn định chỗ ngồi, thăm hỏi những em vắng lần trước.
2. Thánh hóa :
Lạy Cha, chúng con ngợi khen, cảm tạ Cha, đã tặng ban Con Một yêu dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Xin Cha cho chúng con biết siêng năng học và sống giáo lý, để trở thành người gieo rắc niềm vui và sự an bình của Chúa Giêsu cho mọi người.
3. Dẫn vào bài mới :
Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu chuộc cho con người sa ngã. Người đã chuẩn bị bằng việc gọi Abraham làm cha của một dân riêng - Đó là dân Do thái. Khi đến thời đã định, Thiên Chúa sai Con của Người là Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm người. Hôm nay, chúng ta tìm hiểu về biến cố Con Thiên Chúa làm người.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập : Khám phá của Emmanuel.
Ngày xưa, tại vùng đất Phi châu, có chú bé tên là Emmanuel, chú luôn thắc mắc. Một hôm, chú hỏi thầy giáo : “Thưa thầy, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào ?” Thầy giáo chỉ lắc đầu trả lời : “Thầy không biết”. Rồi chú đến với những người trong làng để hỏi họ cho biết, họ cũng không biết. Thế là Emmanuel quyết định đi khắp các vùng chung quanh để hỏi cho biết Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nước nào, nhưng chú đều thất vọng. Khi đã kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, chú đến một quán trọ tìm chỗ nghỉ qua đêm, nhưng cũng không còn. Sau cùng chú quyết định đi lang thang ngoài đồng vắng, tìm đến một cái hang để trú qua đêm. Vừa bước vào hang, chú nhận ra trong hang có đôi vợ chồng trẻ và một hài nhi. Nhìn thấy chú, người mẹ liền nói : “Chào Emmanuel, chúng ta đã chờ con từ lâu rồi ?” Chú rất ngạc nhiên không biết tại sao người mẹ này biết tên chú, mà còn biết cả điều chú đang suy nghĩ, tìm kiếm nữa. Thế rồi, chính tại cái hang đó, chú đã khám phá ra Thiên Chúa nói thứ tiếng nói của tình yêu.
Các em thân mến, chú bé Emmanuel đã khám phá ra tiếng nói của tình yêu, và chú đã cảm nhận tình yêu là ngôn ngữ chung của nhân loại.
Bây giờ, Anh (chị) mời các em cùng nghe lại tiếng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng theo thánh Matthêu.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 1,18-25)
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô : bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ : Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta .” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát, rồi mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Ngôi Hai xuống thế làm người.
Trong bài 4 ĐBTT, các em đã nghe thánh Luca kể lại cuộc Giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Hôm nay, sự kiện Giáng sinh ấy được thuật lại dưới ngòi bút của thánh Matthêu. Trình thuật này làm nổi bật mầu nhiệm Ba Ngôi trong biến cố Giáng sinh : Chúa Cha là Đấng chủ động, sáng kiến và đạo diễn “điệu nghệ” dàn dựng ; Chúa Thánh Thần, bằng quyền năng cao cả, tác động nên thai nhi nơi cung lòng Đức Nữ Đồng Trinh ; Chúa Con thủ vai chính, trở thành một hài nhi bé nhỏ ngoan hiền. Thế là hài nhi Giêsu, Cứu Chúa đã sinh ra tại làng Belem, sống ẩn dật tại Na-da-rét thuộc nước Do thái. Khi ba mươi tuổi, Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cuối cùng Người chịu chết trên thập giá thời Phongxiô Philatô. Nhưng Người đã sống lại và lên trời.
2. Ý nghĩa mầu nhiệm Nhập thể.
Cách đây 2 tháng, Tâm và Thái đi học giáo lý như mọi người. Khi gần đến cổng nhà thờ, hai bạn thấy xuất hiện một chiếc xe ôm mà người ngồi sau mặc áo đen dài, Tâm nhéo Thái nói nhỏ : Cha xứ đi đâu về kìa. Thái cải chính : đâu có phải Cha xứ. Cha nào ấy. Rồi xe vượt qua và vào nhà xứ. Lát sau, Cha xứ và cha khách đi ra nhà thờ. Cha xứ chỉ chỏ, nói năng đầy vẻ kính trọng. Đi qua lớp giáo lý, Cha xứ giới thiệu người khách lạ là Đức Cha Giáo phận. Tụi Tâm, Thái và đồng bạn vỗ tay, đứng lên chào Đức Cha. Đức Cha khuyến khích cả lớp cố gắng học giỏi để cuối năm Đức Cha về ban Bí tích Thêm sức cho... Trong thánh lễ Chúa nhật kế tiếp, Cha xứ công bố cho mọi người biết Đức Cha vừa đến thăm giáo xứ và chấp nhận cho giáo xứ xây dựng nhà thờ, một ước nguyện mà từ lâu mọi người chờ mong. Sau thánh lễ, Tâm nói với Thái đầy vẻ tự tin : “hôm đó, Tâm đã nói với bạn rằng Đức Cha về thăm như vậy, hẳn có ý nghĩa gì trọng đại, bạn không tin, bây giờ thì hết cãi nhé !”
Các em thân mến, những biến cố xảy ra trong đời, mấy ai biết ngay được ý nghĩa của nó. Phải một thời gian sau, người ta mới khám phá được ý nghĩa của nó. Biến cố Giáng sinh đã xảy ra gần 2000 năm rồi, nay quá đủ thời gian để chúng ta khám phá ra ý nghĩa của biến cố vĩ đại này. Để soi sáng cho ý nghĩa của biến cố Giáng sinh, mời các em nghe Lời Chúa (mời đứng).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 3,16-17)
Khi ấy Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
(GLV phấn khích các em dựa vào Lời Chúa vừa nghe để khám phá ra ý nghĩa mầu nhiệm Nhập thể, rồi GLV tóm kết :)
Lời Chúa chúng ta vừa nghe cho chúng ta 4 ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể :
a. Thứ nhất, Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu ta khỏi chết : chính Chúa Giêsu đã nói : “Thiên Chúa ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Câu kế tiếp xác quyết lại ý mạnh hơn : “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Loài người đã phạm tội nên phải chết. Nay nhờ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế, cứu chuộc loài người khỏi chết. Đây là cách thế tốt đẹp nhất có thể giải thoát loài người khỏi chết (x. Cv 4,12).
b. Thứ đến, Con Thiên Chúa xuống thế làm người để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa : yêu ai, ta thường tặng quà cho người đó. Ngày sinh nhật, ngày bổn mạng của ai, ta thường tặng quà cho người đó. Thấy người bạn học bị đau, chúng ta đến thăm với quả cam, trái quít. Càng yêu ai nhiều thì càng sẵn sàng tặng quà nhiều (GLV có thể minh họa bằng những tặng quà trong sinh hoạt gia đình, học đường, bạn bè...). Thiên Chúa yêu loài người chúng ta nên Người đã tặng cho loài người món quà thật to, thật quí đó là Người Con độc nhất của Người. Thánh Gioan đã khẳng định : “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10), “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Quà tặng này không chỉ để bày tỏ tình cảm mà còn đem lại hiệu quả to lớn : cứu loài người khỏi chết.
c. Ý nghĩa thứ ba mà chúng ta có thể khám phá thấy nơi mầu nhiệm Nhập thể : Con Thiên Chúa xuống thế làm người để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện. Các em còn nhớ câu ngạn ngữ Việt
Nam : “Không thầy đố mày làm nên”. Chúng ta cần có những người thầy, thầy dạy toán, thầy dạy văn, dạy khoa học, dạy vi tính... Hơn hết, chúng ta cần người thầy dạy sống thánh. Trần gian này không có vị thầy nào dạy chúng ta nên thánh bằng Chúa Giêsu. Người là Thầy (x. Ga 1,38 ; Mt 23,8 ; Ga 13,13) ; là thánh (x. Lc 4,34) ; Người là khuôn mẫu (x. Mt 11,39). Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Người (Ga 14,6) ; Người là khuôn vàng thước ngọc của lề luật mới : “Anh em hãy thương yêu nhau NHƯ Thầy đã thương yêu anh em” (Ga 15,12).
d. Cuối cùng, mầu nhiệm Nhập thể còn cho ta ý nghĩa thứ tư : để ta được kết hợp với Người mà trở nên con cái Thiên Chúa. Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con Một xuống thế làm người để loài người nhờ kết hợp với Người mà trở nên con Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã soi sáng cho chúng ta ý nghĩa này của mầu nhiệm Nhập thể khi người viết : “Đức Kitô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2 Pr 1,3-4).
Tóm lại, Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì 4 lẽ này :
- Một là để cứu ta khỏi tội lỗi,
- Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,
- Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,
- Bốn là để ta được kết hợp với Người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
3. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật.
Các em đã có dịp xem cuốn phim Mai Ca. Mai Ca là một cô gái thuộc hành tinh lạ, đã xuất hiện với các bạn trẻ nhỏ nhân dịp nghỉ hè. Mai Ca cùng với các bạn vui chơi và kết hợp 2 nhóm đối nghịch thành một nhóm. Đến lúc hết năng lượng, Mai Ca trở thành bất lực ! May nhờ Carol bế Mai Ca tới trạm năng lượng. Nhờ vậy, Mai Ca có thể trở về hành tinh. Phải chăng Chúa Giêsu, dưới một góc độ nào đó, cũng tương tự như Mai Ca ? Chúng ta lắng nghe thánh Phaolô dạy (mời đứng) :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê
(Pl 2,6-7)
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô đã cho thấy Chúa Giêsu Kitô tiên vàn là Thiên Chúa “vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng Chúa Giêsu Kitô đã “trở nên giống phàm nhân” sống như người trần thế. Biến cố Nhập thể độc nhất và lạ lùng này của Chúa Giêsu cho ta thấy Chúa Giêsu khác hẳn với Mai Ca ở 2 điểm căn bản :
- Mai Ca là một nhân vật trong phim giả tưởng, không có thật, trong khi Chúa Giêsu là một nhân vật có thật, nhân vật lịch sử (1).
- Mai Ca dù có mặt với các trẻ em trên trái đất này, nhưng Mai Ca vẫn là và chỉ là con người của hành tinh khác. Trong khi Chúa Giêsu thực sự là một con người như bao người khác, đồng thời vẫn thực sự là Thiên Chúa như Chúa Cha. Nơi Chúa Giêsu, không có một phần là Thiên Chúa và một phần là người như pho tượng trong chiêm bao của Nabukodonosor (x. Đn 2,31-45), cũng không phải là một sự pha trộn hỗn hợp thần tính và nhân tính. Chúa Giêsu thực sự là người thật như mọi người ngoại trừ tội lỗi, và là Thiên Chúa thật như Chúa Cha. Nói cách khác, Chúa Giêsu có 2 bản tính (2) : vừa có bản tính loài người, vừa có bản tính Thiên Chúa trong cùng một Ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa.
D. Cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm người để cứu chuộc con khỏi tội lỗi và để tỏ cho con biết tình yêu của Thiên Chúa, cũng như để làm mẫu mực cho con sống thánh thiện, đặc biệt để làm cho con nên con cái Chúa. Xin ban Chúa Thánh Thần cho con, để Người giúp con sống như Chúa và biết thưa cùng Thiên Chúa : “Abba, Cha ơi”.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
14. H. Vì sao Con Thiên Chúa xuống thế làm người ? (GLCG. 63)
T. Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này :
- Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi,
- Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,
- Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,
- Bốn là để ta được kết hợp với Người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
15. H. Vậy Chúa Giê-su Ki-tô là người hay là Thiên Chúa? (GLCG. 64)
T. Chúa Giê-su vừa là người thật như ta, vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha. Người vừa có bản tính loài người, vừa có bản tính Thiên Chúa, trong cùng một Ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa.
16. H. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người như thế nào ? # (GLCG. 65)
T. Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai “nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và đã làm người” (K. Tin Kính).
17. H. Cuộc sống trần thế của Chúa Giê-su đã diễn ra thế nào ? # (GLCG. 66)
T. Chúa Giê-su đã sinh ra tại làng Bê-lem, sống ẩn dật tại Na-da-rét, nước Do Thái. Khoảng ba mươi tuổi, Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cuối cùng Người chịu chết trên thập giá thời Phong-xi-ô Phi-la-tô, rồi sống lại và lên trời.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : chọn trong tập hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành :
Em quyết tâm chăm chỉ làm việc.
3. Bài làm ở nhà :
Vẽ một máng cỏ vào tập bài làm với tựa đề : Emmanuel.
V. KẾT THÚC.
Đọc kinh Sáng danh.
BÀI 5
CUỘC SỐNG TRẦN THẾ CỦA CHÚA GIÊSU
Lời Chúa : “Đức Giê-su đi xuống cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 61).
Ý chính : 1. Lược sử cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu (Lc 2,41-52).
2. Ý nghĩa đời ẩn dật của Chúa Giêsu (Lc 2,51-52).
3. Ý nghĩa đời công khai của Chúa Giêsu (Mc 1,9-13).
4. Chúa Thánh Thần trong đời sống trần thế của Chúa Giêsu
(Lc 1,26-38 ; 1,39 ; Mt 1,20-25 ; 3,16 ; 4,1-11)
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 512-570
Tâm tình : Ngưỡng mộ, thán phục Chúa Giêsu.
Chuẩn bị : Tranh 20 + 26 ĐBTT cũ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : tương tự các bài trước.
2. Thánh hóa :
Các em quý mến, trong 33 năm cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu đã dành những 30 năm để sống âm thầm : làm việc và cầu nguyện dưới mái nhà Nadarét.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết theo gương Chúa, sống vâng lời cha mẹ, các vị hướng dẫn và nhiệt tâm chu toàn bổn phận.
3. Dẫn vào bài mới :
Bài trước chúng ta tìm hiểu về biến cố Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Hôm nay chúng ta tìm hiểu về cuộc đời trần thế của Người. Mời các em chăm chú theo dõi.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Bé Lan học lớp 4. Ở trường, em là học sinh giỏi được thầy cô thương mến ; còn ở nhà, Lan là một người con ngoan được cha mẹ yêu quí. Ngoài việc học tập, Lan thường giúp mẹ các việc trong nhà như quét nhà, coi em... Lan còn là một thiếu nhi ngoan, đạo đức. Có người hỏi Lan : “Tại sao em lại là một trò giỏi, con ngoan, và được nhiều người thương mến như vậy ?
Các em có biết Lan trả lời thế nào không ? Lan trả lời : “Cháu muốn sống như vậy để đáp lại sự yêu thương của cha mẹ và nhất là cháu muốn nên giống Chúa Giêsu vì chính Chúa Giêsu đã rất giỏi, rất ngoan ; Chúa làm gương cho cháu mà !
Các em thân mến, bé Lan đã thấy Chúa Giêsu làm gương cho mình. Và bé Lan đã cố gắng bắt chước Chúa Giêsu.
Giờ đây, anh (chị) mời các em đứng lên cùng nghe Lời Chúa nói về cuộc đời Chúa Giêsu.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 2,41-52)
“Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người : “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” Người đáp : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa
nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến’.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Lược sử cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu.
(Nội dung này đã học ở bài 4 ĐBTT và bài 4 trên đây, GLV nhắc qua lại để làm cơ sở đi vào các nội dung sau :)
Chúa Giê-su đã sinh ra tại làng Bê-lem, sống ẩn dật tại Na-da-rét, nước Do Thái. Khoảng ba mươi tuổi, Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cuối cùng Người chịu chết trên thập giá thời Phong-xi-ô Phi-la-tô, rồi sống lại và lên trời.
Như vậy, cuộc đời Chúa Giêsu có thể chia làm 3 thời kỳ :
- Thời ẩn dật : chừng 30 năm.
- Thời công khai : chừng 3 năm.
- Cuộc khổ nạn - Phục sinh : vào dịp lễ Vượt Qua năm 30.
Điều mà chúng ta cần nói ở đây là tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là mầu nhiệm (1) (x. GLHT 514), bất cứ lời nói, việc làm và phép lạ nào cũng đều là dấu chỉ mầu nhiệm của Người (x. GLHT 515). Các cử chỉ trong cuộc sống trần thế của Chúa từ lúc khởi đầu cho tới ngày Người được đưa về trời đều dẫn chúng ta tới mầu nhiệm của chức làm con Thiên Chúa và của sứ mạng cứu chuộc của Người. Do đó, trong bài này và 2 bài kế tiếp, chúng ta cố gắng tìm hiểu một vài khía cạnh trong các giai đoạn cuộc đời của Chúa, không dám có tham vọng thấu đạt tất cả.
2. Ý nghĩa đời ẩn dật của Chúa Giêsu.
Họa sĩ nọ được một người đến đặt vẽ một bức tranh. Ông hẹn 2 tháng sau. Đến ngày hẹn, khách hàng đến nhận tranh, lúc đó Họa sĩ mới lấy giấy bút ra vẽ và trong khoảnh khắc ông đã hoàn thành bức họa và khách hàng đắc ý. Hỏi đến giá tiền, họa sĩ nhã nhặn thưa : 300 đôla (tương đương 3 triệu đồng Việt Nam). Khách hàng tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên và tỏ vẻ khó chịu. Họa sĩ mời khách vào phòng làm việc và chỉ cho khách thấy muôn vàn bức vẽ nháp, khiến khách hàng càng ngạc nhiên nhưng là ngạc nhiên cảm phục. Ông rút ví lấy đủ số tiền và còn bồi dưỡng thêm cho họa sĩ 10 đôla !
Các em thân mến, để có thể tạo được bức danh họa làm đắc ý khách hàng trong 5 phút, họa sĩ đã phải dành 2 tháng trời để vẽ nháp. Điều này giúp chúng ta hiểu phần nào ý nghĩa thời ẩn dật 30 năm của Chúa Giêsu tại Na-da-rét mà thánh Luca tóm kết như sau (mời đứng):
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 2,51-52)
“Sau đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến’.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a. Nêu gương hiếu thảo :
Trong phần lớn cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu đã chia sẻ điều kiện sống của đại đa số nhân loại : một cuộc đời bình thường không dáng vẻ rầm rộ bên ngoài, cuộc sống lao động chân tay, một cuộc sống tôn giáo Do thái tùng phục lề luật Thiên Chúa, một cuộc sống cộng đoàn... Và tất cả quãng đời ẩn dật này, Thánh kinh chỉ nói tóm gọn rằng : Chúa Giêsu “vâng phục” cha mẹ (x. Lc 2,51) và Người “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với cha mẹ đã chu toàn giới răn thứ bốn cách hoàn hảo. Đó là hình ảnh trần thế về lòng vâng phục của Người đối với Cha trên trời. Sự vâng phục mọi ngày của Chúa Giêsu đối với cha mẹ đã loan báo và là dấu chỉ cho sự vâng phục của ngày thứ Năm tuần thánh : “Xin đừng làm theo ý con mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Sự vâng lời của Chúa Giêsu trong cuộc sống hằng ngày như thế đã khởi đầu công việc khôi phục lại những gì mà sự bất tuân phục của Ađam đã phá hủy (x. Rm 5,19).
Việc cậu bé Giêsu bị lạc và tìm lại được trong Đền Thờ Giêrusalem làm vỡ tan sự im lặng dầy đặc trong 12 năm ẩn dật. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu hé mở cho ta thấy Người đã được hoàn toàn thánh hiến cho một sứ mạng xuất phát từ tư cách Con Thiên Chúa của Người : “Cha mẹ không biết con phải lo công việc của Cha con sao ?” (Lc 2,49).
b. Nêu gương nên thánh trong cuộc sống gia đình và lao động thường ngày :
Cuộc sống ẩn dật của Chúa Giêsu tại Na-da-rét cho phép mọi người hiệp thông với Người qua những lối sống hàng ngày của mình : Đức Thánh Cha Phaolô VI đã cho ta thấy những bài học quí giá của đời sống ẩn dật này :
- Bài học về gia đình : Xin Na-da-rét dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông yêu thương trong gia đình, vẻ đẹp đơn sơ và khắc khổ của gia đình, đặc điểm linh thánh và bất khả xâm phạm của gia đình.
- Bài học về sự làm việc : Na-da-rét, ngôi nhà của “Giuse - ông thợ mộc !” Chính đây là nơi phải học và phải tôn xưng luật nghiêm khắc và cứu chuộc của lao động con người.
Tóm lại, qua sự phục tùng của Chúa Giêsu đối với Mẹ Maria và thánh Giuse, cũng như qua công việc làm khiêm tốn nhiều năm tại Na-da-rét, Chúa Giêsu để lại cho ta tấm gương của sự thánh thiện trong đời sống thường ngày của gia đình và của lao động. Như vậy, đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu có những ý nghĩa này :
- Một là nêu gương hiếu thảo, vâng phục cha mẹ,
- Hai là nêu gương nên thánh trong cuộc sống gia đình và lao động thường ngày.
3. Ý nghĩa đời công khai của Chúa Giêsu.
Năm 1958, sau khi an táng Đức Pio 12, các vị Hồng y lần lượt vào điện Vatican họp cơ mật viện để bầu vị Giáo Hoàng mới. Các vòng bỏ phiếu đều tỏa khói đen, dấu hiệu chưa có vị Tân Giáo Hoàng! Cuối cùng, một làn khói trắng lan tỏa nơi ống khói báo hiệu đã có Đức Tân Giáo Hoàng và liền đó loa phóng thanh cho biết Đức Hồng y Angelo Roncalli đắc cử với danh hiệu Gioan 23. Trước tin này, nhiều người tỏ ra thất vọng vì lúc đó Đức Roncalli đã 77 tuổi và sự nghiệp của Người trước đây không có gì sáng giá. Có người đã vội phát biểu : chắc vì không tìm được ai sáng giá nên bầu đại ông già này, chờ ít năm “ổng” chết, sẽ chọn người khác... ! Thế nhưng sáng ngày 25.01.1959 sau thánh lễ kính thánh Phaolô tông đồ trở lại, Đức Gioan 23 đã công bố : tôi muốn triệu tập một công đồng chung. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau... ! và từ 1962-1965 công đồng Vaticanô II được thực hiện và được đánh giá là biến cố Hiện xuống mới ! Giữa cái tầm thường và cái lừng danh của một con người Roncalli trong 2 giai đoạn cuộc đời đã cho chúng ta một suy nghĩ về đời công khai của Chúa Giêsu so sánh với đời ẩn dật dài 30 năm của Người !
(GLV có thể chọn câu chuyện dẫn nhập khác, thí dụ : - Câu chuyện Xức dầu David (1 Sm 16,1-13) - Hoặc tìm một câu chuyện vua cha giới thiệu hoàng tử).
Khoảng năm 27 sau công nguyên, Chúa Giêsu khai mào đời công khai với việc chịu phép rửa thống hối của Gioan như thánh Mác-cô tường thuật như sau, mời các em nghiêm trang lắng nghe - mời đứng.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 1,9-13)
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a. Khai mạc :
Chúa Giêsu sống đời ẩn dật chừng 30 năm. Sau đó Người bắt đầu đời công khai với phép Rửa của Gioan và chịu ma quỉ cám dỗ.
Khi ấy, Gioan rao giảng một phép Rửa thống hối để được ơn tha thứ tội lỗi (x. Lc 3,3). Một đoàn lũ tội nhân, những người thu thuế và lính tráng, các Biệt phái và nhóm Sađucêô và bọn gái điếm đã đến xin Gioan làm phép rửa cho họ. Lúc đó, Chúa Giêsu xuất hiện đón nhận phép Rửa của Gioan. Chúa Giêsu tự liệt mình vào số các tội nhân, là Chiên Con của Thiên Chúa xóa tội trần gian. Người đã làm trước kỳ hạn cuộc rửa bằng cái chết đẫm máu của mình. Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã ưng nhận phép rửa của sự chết để tha thứ tội lỗi cho chúng ta.
Tiếp đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào hoang địa và ở đó 40 ngày không ăn gì hết. Cuối thời gian này, Sa-tan đã 3 lần cám dỗ Chúa về miếng ăn, quyền uy và của cải. Chúa Giêsu đã chiến đấu và chiến thắng những cơn cám dỗ đó. Biến cố này có một ý nghĩa cứu độ : Chúa Giêsu là Ađam mới luôn trung thành, trong khi Ađam cũ sa ngã ; Chúa Giêsu hoàn thành tốt đẹp ơn gọi của Israel, trái với những người khiêu khích Thiên Chúa suốt 40 năm trong sa mạc ; Chúa Giêsu là Đầy tớ của Thiên Chúa, trọn vẹn tuân theo thánh ý Chúa. Người chiến thắng ma quỉ, báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn.
Tóm lại, Chúa Giêsu đã khai mạc đời công khai của Người với phép rửa thống hối của Gioan và chiến thắng những cơn cám dỗ của ma quỉ. Người đã thông cảm thân phận yếu đuối của loài người. Người chiến thắng để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Chúa Cha, khác với Ađam đã sa ngã.
b. Rao giảng Nước Thiên Chúa :
“Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người nói : “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14-15). Để chu toàn ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai mạc Nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chúa Cha tập họp con người xung quanh Chúa Giêsu Kitô. Cuộc tập họp này chính là cộng đoàn Hội thánh mà Chúa Kitô là trung tâm.
Đây là một Tin Mừng vì tất cả mọi người đều được kêu gọi gia nhập Nước Trời, nhất là những kẻ nghèo hèn, bé mọn và tội lỗi là những hạng người đã bị xã hội thời Chúa Giêsu và nhiều thời khác khinh thường, loại bỏ. Tất cả mọi người đều được mời gọi sám hối và tin vào Chúa Kitô. Đấy là điều kiện để được sống trong Nước Thiên Chúa.
4. Chúa Thánh Thần trong đời sống trần thế của Chúa Giêsu.
Qua những học hỏi trên đây, chúng ta đều thấy Chúa Thánh Thần đã hiện diện và tác động nơi đời sống của Chúa Giêsu Kitô từ khi Nhập thể, suốt đời sống ẩn dật và cả đời công khai :
- Chính Chúa Thánh Thần đã tác động cho Đức Trinh Nữ Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô (x. Lc 1,26-38 ; Mt 1,20-25).
- Chính Chúa Thánh Thần đã tác động cho bà Elisabet nhận ra Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (x. Lc 1,39-45).
- Chính Chúa Thánh Thần đã tỏ hiện trong ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan (x. Mt 3,16).
- Chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11).
- ...v.v.
Tóm lại, Chúa Thánh Thần hằng hiện diện và kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong công trình cứu chuộc. Chúng ta hãy tin kính và cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết đón nhận hồng ân cứu độ. Giờ đây, chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết cầu nguyện cùng Chúa Giêsu.
D. Cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã nêu gương cho chúng con trong cuộc sống nơi trần thế này. Xin cho mỗi người chúng con ý thức và sống như Chúa : “càng lớn lên, càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40)
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Đức Giê-su đi xuống cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài”(Lc 2, 61)
18. H. Đời sống ẩn dật của Chúa Giê-su có ý nghĩa gì ? (GLCG. 68)
T. Đời sống ẩn dật của Chúa Giê-su có những ý nghĩa này :
- Một là nêu gương hiếu thảo, vâng phục cha mẹ,
- Hai là nêu gương nên thánh trong cuộc sống gia đình và lao động thường ngày.
19. H. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã làm gì ? (GLCG. 69)
T. Người đã đến sông Gio-đan chịu phép rửa của ông Gio-an để nói lên rằng : Người chấp nhận và khai mạc công trình cứu chuộc của Người. Công trình này sẽ được hoàn thành trong cuộc khổ nạn.
20. H. Việc Chúa Giê-su chịu ma quỉ cám dỗ và chiến thắng nói lên điều gì ? (GLCG. 70)
T. Chúa chịu cám dỗ để cảm thông thân phận yếu đuối của loài người. Người chiến thắng để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Chúa Cha, khác với A-đam đã sa ngã.
21. H. Khi rao giảng, Chúa Giê-su chủ ý loan báo điều gì ? (GLCG. 71)
T. Khi rao giảng, Chúa Giê-su loan báo : “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
22. H. Tại sao lời loan báo Nước Thiên Chúa là một Tin Mừng ? (GLCG. 72)
T. Vì mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa và Nước ấy thuộc về những người nghèo hèn, bé mọn, nghĩa là những ai đón nhận với lòng khiêm hạ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : câu chuyện dẫn đến thực hành :
Stéphane là một em bé da đen được rửa tội năm lên 7 tuổi. Dù nhỏ tuổi, em đã tuyên tuyên bố với ba của em : Là con cái Chúa, con sẽ cư xử và hành động hoàn toàn theo gương Chúa Giêsu.
Từ đó, em vâng lời nhanh nhẹn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì ba má sai bảo như múc nước, giã gạo, chẻ củi, nhóm bếp, quét nhà...
Khi Nữ tu truyền giáo hỏi em : Ai đã dạy em làm tất cả những việc đó ? Em trả lời : Chính Chúa Giêsu đã dạy em.
Cũng như Stéphane : noi gương Chúa Giêsu, em luôn vâng lời cha mẹ.
3. Bài làm ở nhà :
Đọc Tin Mừng theo thánh Matthêu 4,1-11 để ghi lại Chúa bị cám dỗ về những gì.
V. KẾT THÚC.
GLV gợi ý tạ ơn và kết thúc.
BÀI 6
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU
Lời Chúa : “Khi Thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông : “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy” (Mt 17,22).
Ý chính : 1. Chúa Giêsu lên Giêrusalem (Mc 10,32-34).
2. Ai gây ra cái chết của Chúa Giêsu (Ga 11,47-53).
3. Tại sao Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu phải chết ?(1 Ga 4,9-10)
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 571-623
Tâm tình : Hối tiếc vì những lỗi phạm - cảm tạ hồng ân cứu chuộc.
Chuẩn bị : Tượng chịu nạn, tranh cuộc thương khó hay chặng đàng thánh giá.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : tương tự những bài trước.
2. Thánh hóa :
Chúa Giêsu nói : “Không ai yêu bằng kẻ chết vì người mình yêu”. - Và Chúa đã thực hiện điều đó :
Các em hãy nhìn lên Thánh giá và thưa với Chúa : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu con và đã chết vì con. Mỗi ngày con sẽ cố gắng ngoan hơn để đáp đền tình yêu Chúa.
3. Dẫn vào bài mới :
Sau thời gian sống ẩn dật tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai, đi rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, được nhiều người ca tụng yêu thích, nhưng cũng không thiếu kẻ chê bai ghen ghét, đặc biệt giới lãnh đạo Do thái giáo, những người này luôn chống đối Chúa. Và cuộc chống đối đã lên tới cao điểm, khiến Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn như chúng ta học trong bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Hôm đó, tàu “Con nhạn” tiến vào cửa biển Buffalô. Ngoài số đông hành khách, tàu còn chở thêm nhựa cây và dầu hắc. Khi tàu gần cập bến, thì tự nhiên lửa bốc cháy dữ dội, nhất là khi bén sang nhựa cây và dầu hắc. Hành khách, thủy thủ hốt hoảng xô lấn tìm đường thoát thân. Viên Truyền trưởng dồn họ về phía trước, miệng hô to :
- Gioan May-na (Jean Maynard) !
- Dạ, có tôi ?
- Cho tàu quay về phía tây nam và ép vào bờ.
Gioan May-na không chút do dự, con tàu lướt nhanh vào bờ. Viên thuyền trưởng lo lắng gọi to :
- Gioan May-na ! Cố gắng thêm 5 phút nữa, được không ?
- Xin Chúa giúp tôi !
Tàu ép sát vào bờ, dừng lại. Hành khách và đoàn thủy thủ thoát nạn, còn Gioan May-na chết thiêu trên tàu.
Gioan May-na đã hy sinh cứu sống hành khách và đồng bạn ; nhưng những người được cứu sống chỉ là một số nhỏ thôi. Còn Chúa Giêsu, vì yêu thương, đã hy sinh chịu chết để cứu chuộc toàn thể loài người, đem lại cho ta sự sống đời đời, như Lời Chúa sau đây thuật lại cho chúng ta. Mời các em đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 10,32-34)
“Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình : “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thương tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
a) Tự nguyện :
Giêrusalem là thủ đô của nước Do thái và là trung tâm tôn giáo Do thái giáo. Nơi đây có Đền Thờ là “nhà của Chúa Cha” (Ga 2,16) và là nơi vị tiên tri thi hành sứ mệnh hiến tế của mình (x. Lc 13,33), nên Chúa Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem (x. Lc 9,51). Quyết định này ngay các tông đồ cũng lo sợ có nguy cơ đến tính mạng (x. Ga 11,7.16) vì các ông biết rõ “người Do thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại còn đến đó sao ?” (Ga 11,8). Chính Chúa Giêsu càng biết rõ tai họa sẽ đến với Người : không chỉ một lần, nhưng đã 3 lần Người loan báo những tai họa đó (x. Lc 9,22.44 và 18,31-33). Không chỉ biết sự cố, nhưng còn biết rõ ràng cả “ngày, giờ” đã đến (x. Ga 13,1 ; Mt 26,2.12) và người mong chờ để hoàn tất (x. Lc 12,50).
Tất cả những hiểu biết, những tâm tình và quyết chí thực hiện đó của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tính cách tự nguyện của Chúa Giêsu : biết rõ nguy cơ mà vẫn nhất quyết đi tới, có nghĩa là Chúa Giêsu tự nguyện chịu chết (GLV dùng nhiều thí dụ trong đời thường để nêu bật ý nghĩa tự nguyện của Chúa Giêsu trong biến cố lên Giêrusalem).
b) Tỏ mình là Vua Kitô :
Chúa Giêsu đã lên Giêrusalem nhiều lần (x. Lc 2,41-42 ; Ga 2,13-14 ; 11,7) nhưng lần này, có lẽ vào mùa thu năm 27, Người lên Giêrusalem trong một cung cách đặc biệt :
- Chính Chúa Giêsu quyết tâm (x. Lc 9,51) dẫn đầu các môn đệ (x. Mc 10,32).
- Chuẩn bị trang trọng : “Đức Giêsu sai hai môn đệ và bảo : “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy... Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền” (Mt 21,1-2.6).
- Các môn đệ : phần thì kinh hoàng (x. Mc 10,32), phần thì nôn nóng (x. Mt 21,6-7 ; 26,17) nhưng vẫn tích cực tham gia.
- Dân chúng đón rước Chúa như đón một vị Messia-Vua Kitô- với những lời tung hô chưa từng có : “Hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21,9).
Việc làm và quang cảnh này cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Vua Kitô.
c) Nước Thiên Chúa sắp hoàn thành :
Chúa Giêsu lên Giêrusalem vào mùa thu năm 27 đã được diễn ra trong tưng bừng nô nức, nhưng cũng trong náo động và thách đố :
- Dân chúng nhất là những trẻ nhỏ reo hò : “Hoan hô Con vua Đavít”, những kẻ mù lòa, què quặt đến với Chúa Giêsu trong Đền Thờ và được Chúa Giêsu chữa lành (x. Mt 21,9.14-15).
- Chúa Giêsu đánh đuổi các con buôn để thanh tẩy Đền Thờ, lật bàn của những kẻ đổi bạc, xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Thách đố quyền lực Do thái giáo : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19).
- Các Thượng tế và Kinh sư (cấp lãnh đạo Do thái giáo) chất vấn Chúa Giêsu về tình hình náo động (x. Mt 21,16) và về quyền hành động (x. Mc 11,28). Cuộc đối đầu mỗi lúc một căng thẳng và cuối cùng đưa đến quyết định bắt và giết Chúa Giêsu (x. Mt 26,4). Và thực sự, Chúa Giêsu đã bị bắt và bị giết trước lễ Vượt Qua năm đó, nhưng rồi Người đã sống lại.
Tất cả những điều này cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến, một Nước mà Vua Messia sẽ thiết lập bằng lễ Vượt Qua của chính mình.
Tóm lại, việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem có ý nghĩa này :
- Một là để tự nguyện chịu chết.
- Hai là để tỏ mình là Vua Ki-tô.
- Ba là cho thấy Nước Thiên Chúa sắp hoàn thành khi Người chịu chết và sống lại.
2. Ai gây ra cái chết của Chúa Giêsu.
Năm đó “nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái : “Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con”. Vua lại còn thề : “Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng đươc”. Cô gái đi ra hỏi mẹ : “Con nên xin gì đây ?” Mẹ cô nói : “Đầu Gioan Tẩy Giả”. Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng : “Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm”. Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ” (Mc 6,21-29).
Trong vụ Gioan bị giết này, các em thấy chính “thị vệ” đã vào ngục giết Gioan, nhưng tên thị vệ chỉ làm công tác thừa hành lệnh nhà vua. Nhà vua truyền lệnh đó vì lời yêu cầu của cô gái. Cô gái đưa ra yêu cầu đó là do ý định thâm độc trả thù của bà Hêrôđia vì Gioan đã ngăn cản vua Hêrôđê lấy bà làm vợ.
Trong vụ án tử hình của Chúa Giêsu cũng tương tự : chính những người lính Rôma đã đóng đinh và giết Chúa Giêsu, nhưng ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu ? Thánh Gioan có thể giúp chúng ta khám phá ra “thủ phạm” của vụ án Chúa Giêsu, mời các em đứng :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 11,47-53)
“Các Thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói : “Chúng ta phải làm gì đây ? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta”. Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caipha, làm Thượng tế năm ấy, nói rằng : “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là : thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là Thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giêsu”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
(GLV bằng phương pháp chủ động, giúp các em lần lượt khám phá ra các “thủ phạm” :)
Thánh Gioan đã cho ta thấy một số “thủ phạm” trong vụ án Chúa Giêsu :
- Các Thượng tế và các người Pharisêu : đây là cấp lãnh đạo Do thái giáo. Chính họ vì sợ mất ảnh hưởng, mất quyền hành, nên đã quyết định chống đối Chúa Giêsu. Họ đã nhờ Giuđa làm nội gián
(x. Mt 26,14-16 ; 26,47) và sai một số ngươi đông đảo mang gươm giáo, gậy gộc đến bắt Chúa Giêsu tại vườn Cây Dầu, rồi dẫn đến Thượng tế Caipha, nộp cho Tổng trấn Philatô. Tại tòa án của Tổng trấn Philatô, các Thượng tế và kỳ mục xúi đám đông dân chúng tha Baraba mà giết Đức Giêsu. Họ đã làm áp lực buộc Philatô phải lên án tử hình cho Chúa Giêsu.
- Philatô đại diện cho Hoàng đế Rôma. Đây là cấp lãnh đạo xã hội thời đó. Sau khi điều tra, ông đã biết rõ Chúa Giêsu vô tội, muốn tha nhưng vì áp lực của dân chúng do các Thượng tế và kỳ mục xúi giục, đã kết án tử hình cho Chúa Giêsu.
- Đám lính Rôma : những người lính thừa hành đã hành hạ, nhạo báng, và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá tại Gôn-gô-tha.
- Dân chúng : trong vụ án này, chúng ta cũng thấy rõ những đám đông dân chúng tham dự hoặc vì tò mò, hoặc do bị xúi giục lên án tử hình cho Chúa Giêsu.
Bản thân những người trên đây có tội như thế nào thì chỉ mình Thiên Chúa biết. Chính Chúa Giêsu đã tha thứ cho họ trên thập giá (x. Lc 23,34) và theo gương Người, thánh Phêrô đã coi hành động của những người Do thái và cả của những thủ lãnh của họ như “do không hiểu biết” (Cv 3,17).
Tuy nhiên, trong những bài trước và phần đầu của bài này, chúng ta đã khẳng định về tính cách tự nguyện chịu chết của Chúa Giêsu, thì chúng ta lại thấy “thủ phạm” của vụ án Chúa Giêsu là chính những tội nhân trong đó có chúng ta. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô giúp chúng ta khám phá ra sự thật này : “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3). (GLV minh hoạ bằng những tội lỗi các em thường phạm : bỏ lễ Chúa nhật, lười biếng, bất phục tùng, gian lận, trộm cắp... là một cách giết Chúa và do đó chính chúng ta là “thủ phạm” của vụ án Giêsu !).
3. Tại sao Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu phải chết ?
Abraham chỉ có một người con duy nhất là Isaac. Ông yêu thương Isaac hơn chính mạng sống ông. Một ngày kia, Chúa bảo Abraham : hãy mang Isaac đến đất Morida và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến. Abraham đã làm theo lời Chúa dạy, ông đã không từ chối Thiên Chúa, sẵn sàng hiến dâng người con một nên Thiên Chúa chúc lành cho ông (x. St 22,1-18).
Cũng vậy, Thiên Chúa chỉ có một người Con duy nhất là Chúa Giêsu Kitô. Vậy mà Thiên Chúa lại trao nộp Người Con đó cho nhân loại để chịu chết đau thương. Thiên Chúa đã có ý nghĩ gì khi làm điều này ? Thánh Gioan tông đồ giúp ta tìm hiểu ý nghĩa sự việc qua Lời Chúa sau (mời đứng) :
Lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ (1 Ga 4,9-10)
“Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát sau đó mời ngồi).
Lời Chúa này phần nào giúp chúng ta khám phá ra lý do Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu phải chết : các em biết Ađam đã phạm tội và vì tội mà sự chết đã đột nhập thế gian và do đó mọi người phải chết (x. Rm 5,12). Cái chết đã làm cho con người mất tất cả và làm hỏng chương trình sáng tạo tốt đẹp của Thiên Chúa (x. St 1,1-2,25). Thánh Phaolô đã tuyên xưng : “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3). Thiên Chúa muốn giải thoát con người khỏi hiểm họa của cái chết, nghĩa là muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Muốn thế, cần phải có một tế vật xứng đáng có khả năng chuộc lại và giải thoát mọi người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi. Khi trao nộp Con mình vì tội lỗi Ađam và tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa cho thấy rõ dự án của Người về chúng ta là một dự án nhân hậu, nghĩa là vì lòng yêu thương cao vời dành cho chúng ta :
- “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,9.10).
- “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi : đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Hơn nữa, nhờ cuộc khổ nạn, một biểu hiện của “sự vâng lời, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8), Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh cứu rỗi (x. Dt 10,5-10). Và cũng nhờ cuộc khổ nạn ấy mà toàn thể nhân loại được nên công chính (x. Dt 5,9).
Tóm lại, chính vì yêu thương chúng ta mà Thiên Chúa đã muốn cho Chúa Giêsu phải chết. Nhờ cái chết tự nguyện và vâng phục, Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh đền tội và làm cho ta nên công chính.
Đứng trước lòng yêu thương trời bể đó của Thiên Chúa, đứng trước sự hy sinh cao cả của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại, mỗi người chúng ta có suy nghĩ gì và sẽ đền đáp ra sao ? Em xin Chúa Thánh Thần ban cho em ơn sức mạnh để can đảm chấp nhận gian khổ trong cuộc đời, sẵn lòng noi gương Chúa Giêsu cứu giúp những người khác, nhất là những người nghèo, nghèo thể xác và tinh thần.
D. Cầu nguyện.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha yêu thương chúng con đến độ sai Con Một của Cha là Chúa Giêsu đến hy sinh làm của lễ đền tội chúng con. Xin cho chúng con nhận ra tình thương của Cha qua cuộc khổ nạn của Con Cha mà biết chấp nhận những vất vả khi thi hành bổn phận hàng ngày.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Khi Thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông : Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy” (Mt 17,22).
23. H. Việc Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem có ý nghĩa gì ? # (GLCG. 77)
T. Việc Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem có ý nghĩa này :
- Một là để tự nguyện chịu chết.
- Hai là để tỏ mình là Vua Ki-tô.
- Ba là cho thấy Nước Thiên Chúa sắp hoàn thành khi Người chịu chết và sống lại.
24. H. Những ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giê-su ? (GLCG. 82)
T. Một số người lãnh đạo Do Thái đã chủ mưu giết Chúa Giê-su. Nhưng chính chúng ta cũng gây nên cái chết của Người mỗi khi chúng ta phạm tội, như lời Thánh Phao-lô nói : “Chúa Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3).
25. H. Vì sao Thiên Chúa lại muốn cho Chúa Giêsu phải chết? (GLCG. 83)
T. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10).
26. H. Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su đem lại cho ta điều gì? # (GLCG. 85)
T. Nhờ cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su đã chu toàn sứ mệnh đền tội và làm cho ta nên công chính.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : câu chuyện dẫn đến thực hành :
Vào thời chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945), phát xít Đức chiếm nước Balan, Cha Maximilien Kolbe, đã bị bắt giam tại trại tập trung to nhất và ghê sợ nhất, những tên lính Đức ở đây rất độc ác, dã man. Chúng muốn trả thù vượt ngục bằng cách bắt 10 người tù khác chết thay. Lần kia, ban đêm có người vượt ngục. Sáng hôm sau, chúng xếp hàng tù nhân và bắt há miệng xem răng rồi lựa chọn 10 người phải chết thay. Trên sân nhà tù, ai nấy đều im lặng, hồi hộp và khiếp đảm. Tên sĩ quan cai tù giận dữ, vừa đưa tay chỉ định : tên này, tên này... Ai bị chỉ định, phải bước sang một bên. Chợt có tiếng la thất thanh :
- Khốn nạn thân tôi, vợ con tôi, ai sẽ nuôi nấng ?
Giữa lúc thinh lặng rùng rợn ấy, một tù nhân tự động bước ra khỏi hàng, đứng im cách nghiêm trang, sĩ quan Đức ngạc nhiên hỏi :
- Mày là ai ?
- Maximilien Kolbe, linh mục công giáo.
- Mày muốn gì ?
- Tôi tình nguyện chết thay cho anh bạn tù này, (cha chỉ vào người la khóc lúc nãy) vì anh ta còn vợ còn con thơ vô tội.
- Tại sao mày lại muốn chết thay cho hắn, mày không muốn sống à ?
Cha đáp lại :
- Sự sống rất cao quí và đáng sống lắm, nhưng người bạn này cần sống hơn tôi. Anh ấy cần lo cho gia đình, vợ con anh ta cần anh sống. Anh ấy cần phải sống. Còn tôi, tôi là Linh mục, tôi có thể hy sinh được.
- Muốn ngu thì cho ngu. Vào xếp hàng thế, còn tên kia được tha. Thế là anh tù trẻ được tha.
Trước quyết định lạ lùng đó mọi người bỡ ngỡ, xúc động, nhất là anh tù trẻ, anh không thể tin có chuyện đó được : vị Linh mục đã chết thay cho anh.
Cha và 9 người tù khác đi vào ngục tối. Ở đó những người tù bị bỏ đói. Ngày thứ 12, cửa phòng giam được mở ra, mọi người tù kia đã chết, ngoại trừ Cha Maximilien với đôi mắt sáng, dù thân hình tàn tạ. Viên cai ngục bắt Ngài giơ tay, chích mũi thuốc độc “ân huệ” kết liễu cuộc đời Ngài. Thế là linh hồn cha về với Chúa là Đấng nêu gương yêu thương, hiến mạng sống vì bạn hữu. Ngày 15-5-1994, Cha Maximilien Kolbe đã được phong hiển thánh, và được kính hằng năm vào ngày 14.08. Noi gương cha Maximilien Kolbe, khi gặp gian nan đau khổ, em nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu mà nỗ lực vượt qua.
3. Bài làm ở nhà :
Lấy giấy màu, cắt hình một cây thánh giá, rồi dán lên trang vở với dòng chữ “Chúa Con đến hy sinh làm của lễ đền tội” (2 Cr 5,19), hoặc dòng chữ “Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3).
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở - Tạ ơn - Sáng danh.
Bài 7
CHÚA GIÊ-SU SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI
Lời Chúa : “Những người này bảo hai ông : “Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (Lc 24,34).
Ý chính : 1. Chúa Giêsu sống lại và lên trời (Lc 24,33-35).
2. Sống niềm tin Phục sinh (Cv 4,34 ; 2,44-45 ; 2,42 ; 2,46-47).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 631-667
Tâm tình : Hân hoan vui mừng.
Chuẩn bị : Tranh Bài 20+21 về Chúa sống lại và lên trời (bộ tranh ĐBTT cũ).
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : tương tự các bài trước.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua cái chết để bước vào sự sống mới. Xin cho chúng con biết can đảm vượt qua những ích kỷ, những lười biếng... trong đời sống thường ngày, để được tham dự vào sự sống của Chúa.
3. Dẫn vào bài mới :
Vì tội lỗi nhân loại mà Chúa Giêsu đã tự nguyện chịu chết trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Người đã sống lại như Lời Người đã báo trước. Vậy dựa vào đâu ta biết Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời ? Đó là nội dung bài mới, chúng ta học hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Sáng sớm hôm đó, 2 bạn trẻ thất thểu đi về làng Emmau. Đột nhiên có người đồng hành chia sẻ tâm trạng của đôi bạn trẻ : “Các anh có chuyện gì mà buồn rầu thế !” Không thèm ngó nhìn vị vừa nói, một người trẻ buông lỏng : có lẽ ông là người duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay. Người bạn trẻ kia tiếp lời : chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói... Thế mà các Thượng tế và Thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Những việc ấy đã xảy ra nay là ngày thứ ba rồi... Người khách đồng hành đã giải thích cho 2 anh nhưng cũng chẳng làm tan biến vẻ u buồn và lo lắng của họ mãi cho đến khi ngồi vào bàn ăn, người khách lạ “cầm bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ”. Mắt họ liền mở ra và nhận ra Chúa Giêsu phục sinh, nhưng Người lại biến mất (x. Lc 24,13-31).
Hai bạn trẻ này đã hành động thế nào khi biết Chúa Giêsu đã sống lại thật ? Mời các em đứng lên nghe chính thánh Luca thuật tiếp :
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 24,33-35)
“Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông : “Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Chúa Giêsu sống lại :
Trong bài 6 của ĐBTT, các em đã học về đề tài này, nay các em cần củng cố niềm tin bằng những lý chứng xác thực :
a) Ngôi mộ trống :
Bốn thánh ký Tin Mừng đều kể lại sự kiện này (Mt 28,1-8 ; Mc 16,2-8 ; Lc 24,1-11 ; Ga 20,1-10) : vào sáng sớm ngày thứ nhất sau lễ Vượt Qua năm 27, các phụ nữ đã đi viếng mộ Chúa. Đến nơi, các bà thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Các bà hốt hoàng chạy về báo tin cho các tông đồ. Hai ông Phêrô và Gioan đã tới mộ, các ông đã thấy đúng như lời các phụ nữ nói. Các ông đầy hoang mang, thắc mắc !!!
Ngôi mộ đã chôn xác Chúa, nay trống không ! Ngôi mộ trống, tự nó không phải là bằng chứng trực tiếp cho việc Chúa sống lại vì người ta có thể đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau (x. Mt 28,
11-15). Tuy nhiên, sự kiện này đã là dấu chỉ quan trọng, là bước đầu dẫn các môn đệ đến chỗ nhìn nhận Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan viết : “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8), nghĩa là, ông đã thấy ngôi mộ trống, và việc đó đã dẫn ông đến chỗ tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
b) Những lần hiện ra của Chúa Kitô phục sinh :
Khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra với nhiều người: trước hết là bà Maria Mađalena và các phụ nữ, các bà ra mộ từ sáng sớm để hoàn tất việc táng xác Chúa (x. Ga 20,11-18), sau đó là thánh Phêrô và nhóm tông đồ (x. Ga 20,19-29), đặc biệt là 2 môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). Thánh Phaolô còn cho biết Chúa Giêsu “đã hiện ra với hơn 500 người một lượt” (1 Cr 15,6) và chính Phaolô cũng đã được gặp Chúa Kitô Phục sinh (x. 1 Cr 15,8). Về việc Chúa Phục sinh, các tông đồ, dù đã được báo trước nhiều lần, vẫn không hiểu, không tin. Nhưng những chứng cứ hiển nhiên trên đây khiến các ngài phải công nhận sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô là sự thật, là một sự kiện lịch sử và dám lấy mạng sống mình để làm chứng. Tuy nhiên, sự kiện này không chỉ dừng lại trên phương diện lịch sử. Nó còn vượt quá tính lịch sử để dẫn đưa vào mầu nhiệm siêu việt mà chúng ta sẽ học hỏi ở cấp III (x. Bài 13 Sống đạo).
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày. Trong một lần gặp gỡ các tông đồ, sau khi căn dặn các ông nhiều điều, Chúa Giêsu lên trời ngay trước mắt các ông và có đám mây rước Người lên khuất mắt các ông : Chúa đã lên trời (x.
Cv 1,6-11).
2. Sống niềm tin Phục sinh :
Câu chuyện dẫn nhập bài này đã cho ta thấy cùng đoạn đường Giêrusalem đến Emmau, 2 môn đệ đã có những tâm trạng và hành động khác nhau lúc đi và khi về :
- Lúc đi : chán nản, buồn sầu, thất vọng (x. Lc 24,17.21-24).
- Khi về : phấn khởi, vui sướng, tin tưởng (x. Lc 24,33-35).
Thánh Luca không kể tiếp tâm trạng và đời sống của 2 môn đệ này như thế nào vào các ngày kế tiếp. Nhưng hòa chung với các tông đồ và các môn đệ khác, những tín hữu đầu tiên, chúng ta không sợ sai khi nghĩ rằng hai ông đã tích cực sống và loan truyền Tin Mừng Phục sinh. Cái đã làm biến đổi nhận thức và hành động của 2 ông chính là niềm tin Phục sinh.
Quan sát đời sống và sinh hoạt Hội thánh thời các tông đồ, chúng ta có thể ghi nhận những nét sau :
- Hiệp thông bác ái : “Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa đều bán đi lấy tiền, đem đặt dưới chân các tông đồ” (Cv 4,34 ; 2,44-45)
- Chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy (x. Cv 2,42)
- Siêng năng tham dự thánh lễ và cầu nguyện không ngừng (x. Cv 2,42).
- “Hân hoan vui vẻ và được toàn dân thương mến” (Cv 2,46-47).
Nếp sống này phát xuất từ niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh. Nếp sống này ngày nay vẫn được duy trì và phát huy trong đời sống tu trì. Nếp sống của tín hữu thời sơ khai là nếp sống lý tưởng của những người tin vào Chúa Kitô phục sinh.
Ngày nay, chúng ta tin vào Chúa Giêsu Phục sinh là dựa vào niềm tin và lời chứng của các tông đồ. Các Ngài đã tin, đã sống và làm chứng cho niềm tin đó. Để có thể sống niềm tin Phục sinh, ta hãy chiêm ngưỡng đời sống của các tông đồ sau khi Chúa sống lại mà noi theo, bắt chước. Chúng ta phải biết kiểm điểm và thực hiện ngần nào có thể cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn gia đình hoặc giáo xứ. Tóm lại, tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, ta luôn sống lạc quan tin tưởng, can đảm theo đường lối Chúa, dầu phải chấp nhận những thiệt thòi, mất mát, vì tin rằng ta sẽ được dự phần vinh quang với Người.
Để thực hiện được cuộc sống như thế của những người tin vào Chúa Kitô Phục sinh, chắc chắn tự sức riêng, chúng ta chẳng làm được. Chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là hồn sống của Hội thánh thời sơ khai, cũng khai quang và tăng cường sức mạnh nơi nhận thức và hành động của chúng ta để chúng ta có thể phần nào biết sống niềm tin Phục sinh.
D. Cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh vinh quang, Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Xin giúp chúng con chiến thắng tính hư nết xấu của mình để sau này được sống lại vinh quang với Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Những người này bảo hai ông : “Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (Lc 24,34)
27. H. Sau khi Chúa Giê-su chết và được mai táng trong mồ, điều kỳ diệu gì đã xảy ra ? # (GLCG. 88)
T. Sau khi chết chưa đủ ba ngày, Chúa Giê-su đã sống lại như Người đã báo trước.
28.H. Dựa vào đâu mà biết Chúa Giê-su đã sống lại thật ? (GLCG. 89)
T. Dựa vào hai điều này :
- Một là ngôi mộ không còn xác Chúa mà chỉ còn lại những vải liệm xếp ngay ngắn gọn gàng.
- Hai là Chúa Giê-su đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, cùng ăn uống và trò chuyện thân mật với họ.
29. H. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su làm gì ? # (GLCG. 94)
T. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày rồi Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha.
30. H. Tin vào Chúa Giê-su Phục sinh, ta phải sống thế nào ? (GLCG. 96)
T. Ta luôn sống lạc quan tin tưởng, can đảm theo đường lối Chúa, dầu phải chấp nhận những thiệt thòi, mất mát,vì tin rằng ta sẽ được dự phần vinh quang với Người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Một thiếu niên bị bắt vì đạo tại thành Antiokia, cậu bị đánh đập trước mặt các quan án và binh lính cho đến khi cậu gần bất tỉnh. Họ hỏi cậu rằng :
- Chúa Cứu thế của mày có thể làm gì cho mày ?
Cậu đáp : “Chúa Cứu thế của tôi có thể làm cho tôi sung sướng đến nỗi tôi hầu như không cảm thấy roi đòn của các ông”.
Họ lại cột cậu vào trụ tra tấn cho đến khi gần chết, rồi đem cậu trở lại, và hỏi nữa rằng :
- Bây giờ Chúa Cứu thế của mày có thể làm gì cho mày ?
Vị anh hùng thiếu niên trả lời : “Ngài có thể khiến tôi yêu mến kẻ thù của tôi, và cầu nguyện cho những người đã bạc đãi, đã bắt bớ và tra khảo tôi”.
Họ lại tra tấn dữ dằn một lần nữa, rồi làm cho cậu hồi tỉnh để hỏi như trước. Khi nhẹ nhàng thở hơi cuối cùng, cậu êm dịu trả lời :
- Chúa Cứu thế của tôi có thể đem tôi về với Người, ở đó tôi không hề phải chịu đau đớn nữa.
Các em thân mến, chính nhờ niềm tin vào Chúa Phục sinh mà cậu thiếu niên kia có thể lướt thắng những đau đớn, không những không hận thù, mà còn thảnh thơi để nói những lời yêu thương với những người đã đánh đập tra khảo mình. Chúng ta hãy noi gương cậu, sống niềm tin Phục sinh bằng thái độ luôn vui tươi, hòa nhã với mọi người để thông phần vào vinh quang của Chúa Phục sinh.
3. Bài làm ở nhà :
Câu Kinh thánh nào trong bài giáo lý này làm em cảm kích nhất, em ghi lại vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
(GLV nhắc nhở toàn bài và khơi gợi niềm vui vì Chúa đã sống lại. Rồi kết thúc với bài hát Phục sinh hoặc kinh Sáng Danh).
Bài 8
CHÚA GIÊ-SU SẼ ĐẾN PHÁN XÉT
Lời Chúa : “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).
Ý chính : 1. Chúa Giêsu đến thế gian nữa không ? (Ga 14,1-3).
2. Phán xét cuối cùng (Mt 16,24-27).
3. Hoàn tất Nước Thiên Chúa (1 Cr 15,20-24).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 668-682
Tâm tình : Chờ mong trong nỗ lực sống tốt.
Chuẩn bị : Tranh 22 ĐBTT cũ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : như các bài trước.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa để xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, bằng chính lối sống hiền hòa ngay thẳng của chúng con, để chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại trong vinh quang, là ngày vui mừng trọn vẹn.
3. Dẫn vào bài mới :
Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, nhưng Người sẽ lại đến để hoàn tất Nước Thiên Chúa. Đây là đề tài riêng của cấp II. Chúng ta cần tìm hiểu và học kỹ hơn.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
[GLV lược truyện : Thời ông Nôe (St 6,11-13 # Mt 24,37) hoặc Đầy tớ xấu (Mt 24,48-51) để dẫn vào Lời Chúa sau đây :]
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 14,1-3)
“Lòng anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát sau đó mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Chúa Giêsu sẽ trở lại :
Trước lễ Vượt Qua năm 27 đó, “Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13,1), Người loan báo cho nhóm 12 tông đồ về việc Người sắp ra đi. Tin này làm các ông xao xuyến, buồn sầu. Chúa Giêsu phải lên tiếng, lý do Người viện dẫn để an ủi, trấn an các ông là Người đi để “dọn chỗ cho các ông và Người sẽ trở lại đem các ông về với Người để Người ở đâu, các ông cũng được ở đó” (Ga 14,1-3). Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy Người sẽ trở lại. Trong nhiều dịp khác, Chúa Giêsu đã cho biết Người sẽ trở lại (x. Mt 24,26-28.30 ; 25,31). Trong ngày Chúa Giêsu về trời, các thiên sứ cũng loan báo Người sẽ trở lại (x. Cv 1,11).
2. Phán xét cuối cùng.
Trong vụ án thuốc phiện, Vũ Xuân Trường đã bị tòa án luận tội và tuyên án tử hình ngày 12.05.1997. Vũ Xuân Trường đã làm đơn kháng án lên tòa cấp trên. Tòa án chung thẩm vẫn y án. Phán quyết của tòa án chung thẩm này là bản án cuối cùng, có giá trị chung thẩm. Do đó, Vũ Xuân Trường bị xử bắn về tội buôn bán thuốc phiện.
Tiến trình của vụ án trên khiến chúng ta nhớ đến ngày chúng ta sẽ chết và nhất là nghĩ tới ngày tận thế, thân xác sẽ sống lại kết hợp với linh hồn để trình diện trước tòa án của Thiên Chúa. Tòa án đó sẽ thế nào, mời các em nghiêm trang đứng nghe Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 16,24-27)
“Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa trên đây cho chúng ta biết rõ Chúa Giêsu sẽ lại đến để phán xét muôn loài. Chúa Giêsu đã phụng mệnh Chúa Cha để xuống thế làm người, thực hiện kế hoạch cứu độ. Vì thế, Chúa Cha đã trao “toàn quyền xét xử cho Chúa Con” (Ga 5,22) và đến ngày phải kết thúc công trình cứu độ, Người sẽ đến trong vinh quang để xét xử mọi người. Chúa Giêsu sẽ phân biệt dứt khoát thiện với ác, như chiên với dê (x. Mt 25,32-33) và Người phơi bày ra ánh sáng mọi điều bí ẩn trong lòng con người (x. Lc 12,2). Người phán xét về việc mỗi người đã từng nhận hay từ chối ơn thánh (x. Mt 11,23-24) qua việc họ có sống hiệp thông với Người, với mọi người chung quanh và với vũ trụ vạn vật hay không (x. Mt 25,31-46). Người sẽ phán xét cụ thể theo tiêu chuẩn bác ái (x. Mt 25,35.40).
Tóm lại, trong ngày trở lại phán xét, Chúa Giêsu vinh hiển sẽ phơi bày mọi tâm tư thầm kín của mỗi người, và thưởng phạt theo việc họ đã làm.
3. Hoàn tất Nước Thiên Chúa.
Mobutu đã làm tổng thống nước Jaia bên Phi châu từ 32 năm. Ông quyết tâm xây dựng Jaia thành một cường quốc Châu phi. Từ tháng 12/96, Kabila đã nổi lên chống đối. Kabila tiến quân dần về thủ đô. Mobutu quyết tử thủ, giữ vững thủ đô Kinshasa. Nhưng ngày 7/5/97, Mobutu buộc phải chấp nhận lên đường đi Libreville hội nghị để tìm giải pháp cho đất nước. Các chính khách đều nghĩ rằng đây là chuyến ra đi không hẹn ngày trở lại của Mobutu !
Trong những năm ở trần gian, Chúa Giêsu cũng đã rao giảng và thiết lập một vương quốc, vương quốc Thiên Chúa. Nay Người đã ra đi. Liệu Người có hoàn tất được vương quốc Thiên Chúa không hay sẽ chỉ giống như ông Mobutu đành phải nhường lại đất nước Jaia cho Kabila ? Thánh Phaolô đã hé mở cho chúng ta thấy kết quả cuộc đời Chúa Giêsu, mời các em đón nghe Lời Chúa - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô
(1 Cr 15,20-24)
“Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình : mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Theo lời thánh Phaolô, chúng ta thấy Chúa Kitô đã thực hiện được :
- Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết.
- Chúa Kitô đã mở đường đi về trời.
- Và như chúng ta đã học trên đây, Chúa Kitô sẽ trở lại.
Vậy Người sẽ hoàn tất Nước Thiên Chúa như thế nào ?
Khi xuống thế làm người, Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập Nước Thiên Chúa (x. Mt 3,1-16.12). Khi sống lại và về trời Người đã thiết lập Nước Thiên Chúa cách hoàn hảo nơi bản thân phục sinh của Người (x. TĐ. Đấng cứu chuộc 16).
Chúa Cha đã “tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh” (Ep 1,21-22). Như thế “Nước của Chúa Kitô đã hiện diện cách mầu nhiệm trong Hội thánh” (x. Hc.HT 3) và Hội thánh là “mầm mống và khởi đầu cho Nước ấy ở trần gian” (Hc.HT 5). Chúa Kitô đã thực hiện quyền tối thượng trên vũ trụ nhờ Hội thánh, chỉ còn chờ đến ngày hoàn tất là ngày Người trở lại (x. Ep 1,10). Thời gian giữa 2 lần Chúa đến là thời gian để Hội thánh dấn thân làm chứng cho Nước Chúa. Hội thánh sẽ phải trải qua những ngày khó khăn và đen tối (x. Ep 5,16).
Theo kế hoạch của Thiên Chúa, cuộc chiến đấu với quyền lực gian ác sẽ phải kết thúc và Chúa Kitô sẽ kết thúc cuộc chiến thắng quyền lực gian ác bằng việc phán xét kẻ sống và kẻ chết (x. Kh 20,2). Đó là ngày Người biểu lộ vinh quang cho toàn thể thụ tạo.
Tóm lại, vào ngày trở lại, Chúa Giê-su sẽ thực hiện cuộc chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác và qui tụ vạn vật để dâng lên Thiên Chúa Cha (x. 1Cr 15,24).
Như vậy, Chúa Kitô sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết và hoàn tất Nước Thiên Chúa một cách vẻ vang. Tuy nhiên, về thời điểm khi nào biến cố này xảy ra thì không ai biết, “ngay cả thiên thần trên trời hay Người Con cũng không biết” (x. Mc 13,32). Niềm tin này củng cố nhận thức và thúc đẩy người tín hữu sống tốt cuộc sống hiện tại, đặc biệt trong 3 điểm cụ thể sau :
a) Thiện ác sẽ được phân biệt rõ ràng và dứt khoát khi Chúa Giêsu trở lại. Tình trạng vàng thau lẫn lộn hôm nay (x. Mt 13,36-43) sẽ không còn nữa : ai làm lành sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng với Thiên Chúa, ai làm ác sẽ bị kết án phải sống muôn đời với kẻ dữ (x. Mt 25,40). Vì thế, ta quyết tâm làm điều thiện, điều tốt, tránh điều ác, điều xấu.
b) Mỗi người phải biết tận dụng thời gian quí báu hiện tại (x. Ep 5,16) vì sự chọn lựa và hành động đúng với sự chọn lựa này sẽ quyết định số phận vĩnh cửu của chính mình. Chúng ta không biết ngày và giờ, nên phải theo Lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta được liệt vào số những người được chúc phúc, chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng sẽ bị đẩy vào lửa đời đời” (Hc.HT 48).
c) Thời gian giữa 2 lần Chúa Kitô đến (Giáng sinh và Quang lâm) là thời gian của Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Chúng ta luôn biết thức tỉnh nghe theo Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, cùng nhờ sức mạnh của Người mà chiến đấu can trường đạt chiến thắng cho đến phút trình diện trước tòa Chúa để lãnh phần thưởng hạnh phúc muôn đời.
D. Cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa sẽ đến xét xử thế gian. Nhưng con không biết là ngày nào. Xin giúp con sống thánh thiện trong mọi công việc hôm nay để luôn sẵn sàng chờ Chúa đến với mỗi người chúng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).
31. H. Chúa Giê-su còn đến thế gian nữa không ? # (GLCG. 97)
T. Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
32. H. Phán xét kẻ sống và kẻ chết nghĩa là gì ? (GLCG. 98)
T. Nghĩa là Chúa Giê-su vinh hiển sẽ phơi bày mọi tâm tư thầm kín của mỗi người, và thưởng phạt theo việc họ đã làm.
33. H. Nước Thiên Chúa sẽ hoàn tất thế nào trong ngày Chúa Giê-su trở lại ? (GLCG. 99)
T. Vào ngày trở lại, Chúa Giê-su sẽ thực hiện cuộc chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác và qui tụ vạn vật để dâng lên Thiên Chúa Cha (x. 1Cr 15,24).
34. H. Khi nào Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang ? (GLCG. 100)
T. Chắc chắn Người sẽ trở lại trong vinh quang, nhưng ta không biết được lúc nào (x. 2 Tx 2,3-12). Vì vậy, ta được mời gọi luôn sống tỉnh thức đợi chờ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành :
Lược kể câu chuyện 10 cô trinh nữ theo Mt 25,1-13 để dẫn đến thực hành : Em chu toàn việc bổn phận hằng ngày để chờ đón Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Ghi vào tập bài làm “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở - Tạ ơn - Sáng danh.
Lời Chúa : “Ông Gio-an còn làm chứng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1,32).
Ý chính : 1. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ? (Ga 1,32-33).
2. Chúa Thánh Thần đã được ban cho các môn đệ (Ga 20,19-22)
3. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội thánh.(Cv 2,41 ; Mt 5,48 ; Hc.HT 39)
4. Những hồng ân Chúa Thánh Thần.
5. Sống với Chúa Thánh Thần (1 Cr 3,16-17).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 683-747
Tâm tình : Tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần.
Chuẩn bị : Hình ảnh ngày lễ Ngũ tuần sau khi Chúa Giêsu về trời.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : ổn định chỗ ngồi, tạo không khí vui tươi.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thổi hơi ban Thánh Thần Chúa trên các tông đồ như một làn gió mát dịu và phán : “Bình an cho các con”.
Xin cho chúng con biết luôn ngoan ngoãn mở rộng tâm hồn đón nhận những hoạt động của Chúa và làm theo Thánh Thần hướng dẫn.
3. Dẫn vào bài mới :
Trong Kinh tin kính, sau khi tuyên xưng về Chúa Cha, Đấng tạo dựng trời đất, sau khi tuyên xưng về Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc loài người, chúng ta tuyên xưng về Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Trong ngày Rửa tội và Thêm sức, chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ tìm hiểu về Chúa Thánh Thần để có thể sống theo sự hướng dẫn, tác động của Người.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Theo dõi sinh hoạt của các đội bóng đá, chúng ta luôn thấy mỗi đội đều có một tổ huấn luyện viên. Đội banh thành công hay thất bại phần lớn tùy thuộc tổ Huấn luyện viên. Hội thánh là một tập thể những người tin theo Chúa Kitô đang phải đương đầu với sức tấn công của tội lỗi. Để chiến thắng, Hội thánh cần sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần là Huấn luyện viên của mình.
Trước tiên, mời các em nghe Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta biết Chúa Thánh Thần là Đấng nào ? (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 1,32-33)
“Ông Gioan còn làm chứng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
Chúng ta phải nói ngay với nhau rằng tự sức mình chúng ta không biết gì về Chúa Thánh Thần (x. Cv 19,2). Chính nhờ Chúa Giêsu, chúng ta mới biết và kính thờ Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã được Chúa Kitô dạy cho biết về Chúa Thánh Thần (x. bài 7 ĐBTT). Nay chúng ta cần tìm biết thêm về Người qua các danh xưng và biểu tượng mà Kinh thánh dùng để nói về Chúa Thánh Thần.
a) Danh xưng :
Thánh Thần là tên riêng của Đấng chúng ta thờ lạy và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Hội thánh nhận tên ấy từ Chúa Kitô và tuyên xưng Danh ấy trong Bí tích Thánh Tẩy.
Danh xưng “Thần Khí” (1) dịch từ tiếng Do thái có nghĩa là hơi thở, khí, gió. Thánh Thần là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở thần linh.
Chúa Giêsu khi hứa sai Chúa Thánh Thần đến, đã gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ (x. Ga 14,16) thường được dịch là Đấng An ủi. Chúa Giêsu cũng gọi Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý (x. Ga 16,13). Thánh Phaolô gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí của lời hứa (x. Gl 3,14), Thần Khí Đức Chúa (x. 2 Cr 3,17), Thần Khí Thiên Chúa (Rm 8,9). Còn thánh Phêrô thì gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí vinh quang (x. 1 Pr 4,14).
b) Biểu tượng : (2)
- Nước : nước có ý chỉ về hành động của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thánh tẩy. Vì sau lời cầu Chúa Thánh Thần, nước trở nên dấu chỉ hữu hiệu mang lại ơn tái sinh.
- Dầu : dầu và Thánh Thần có liên hệ mật thiết đến trở thành đồng nghĩa. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, dầu là dấu chỉ của Bí tích Thêm sức, Bí tích trao ban Chúa Thánh Thần cách đặc biệt. Nhưng để có một ý nghĩa xác đáng, cần phải trở lại việc xức dầu đầu tiên được Thánh Thần thực hiện : xức dầu cho Đức Giêsu. Trong Cựu ước có nhiều Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu là Đấng được xức dầu đặc biệt : nhân tính mà Ngôi Con nhận lấy được xức dầu đặc biệt là Thánh Thần (x. Cv 10,38).
- Lửa : tượng trưng sức mạnh biến đổi của tác động Thánh Thần. Lửa từ trời đến thiêu đốt của lễ của Êlia (x. 1 V 18,38) và Đức Giêsu nói : “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất” (Lc 12,49). Một trong những kiểu nói gợi cảm nhất để diễn tả hành động của Thánh Thần
là : “Đừng dập tắt Thánh Thần” (1 Tx 5,19).
- Mây : tỏ lộ Thiên Chúa hằng sống và cứu độ. Với Môsê trên núi Sinai (x. Xh 19,9), ở lều hội họp (x. Xh 40,34) và đang khi đi trong sa mạc (x. Xh 40,36-38) ; với Salomon khi cung hiến Đền Thờ (x. 1 V 8,10-11) ; khi Chúa biến hình (x. Lc 9,34) cũng như khi che khuất mắt các tông đồ ngày Chúa về trời (x. Cv 1,9), đám mây đều mang một
ý nghĩa : sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng khi sứ thần nói : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35) thì đám mây này chỉ rõ về Chúa Thánh Thần
hơn cả.
- Chim bồ câu : Khi Đức Giêsu lên khỏi nước trong dịp chịu phép rửa, dưới hình chim bồ câu, Thánh Thần xuống trên Người (x. Mt 3,16). Thánh Thần cũng xuống và ở lại trong tâm hồn đã được thanh luyện của người chịu thanh tẩy (x. Cv 8,16-17).
Tóm lại, cùng với những gì đã học trong bài 7 ĐBTT và những điều trên đây, chúng ta có thể tuyên xưng niềm tin về Chúa Thánh Thần như sau : Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy.
2. Chúa Thánh Thần đã được ban cho các môn đệ :
Sau khi chữa khỏi một người què ở cửa Đền Thờ Giêrusalem, Phêrô và Gioan bị điệu đến trước công nghị Do thái, bị chất vấn về quyền năng và nhờ Danh ai mà làm điều ấy. Bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần nói cho mọi người biết : nhân danh chính Chúa Giêsu Kitô mà người què này được lành mạnh. Công nghị cấm đoán, đe dọa nhưng Phêrô đã nói : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 3,1-4,22). Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho Phêrô và Gioan nên mạnh dạn và kiên cường như thế ! Nhưng các ông đã nhận được Chúa Thánh Thần khi nào mà có được sức mạnh lớn lao như vậy ? Mời các em lắng nghe thánh Gioan tường thuật (mời đứng) :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 20,19-22).
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất. Trước tiên, Chúa ban cho các ông sự bình an. Đây là ơn rất cần thiết cho các ông vì sau khi Chúa Giêsu bị giết, các tông đồ vừa sợ vừa lo cho tương lai... Chúa đem đến cho các ông sự bình an, niềm vui Phục sinh.
Thứ đến, Chúa trao cho các ông một sứ mệnh : “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Tin Mừng cần phải được loan báo khắp nơi cho mọi người để mọi người nhận biết và hưởng nhờ ơn cứu độ. Sứ mệnh này thật cam go, các tông đồ cần một sức manh, một đỡ nâng, một hướng dẫn... nên Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các ông, Đấng mà Người đã hứa với các ông nhiều lần trước khi đi chịu chết (x. Ga 16,7-15).
Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ bằng cách “thổi hơi” và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Việc làm này của Chúa Giêsu nhắc chúng ta nhớ tới lần Thiên Chúa “thổi hơi” trên nắm đất vừa được nắn thành hình người (x. St 2,7) làm cho loài người nên giống “hình ảnh Thiên Chúa”. Nay, Chúa Giêsu lại “thổi hơi” trên các tông đồ. Người thổi hơi để ban sức sống mới, sự sống thần linh cho các tông đồ. Như vậy, Chúa Giêsu Phục sinh đã tái tạo sự sống, sự sống trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta còn thấy Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ ngày lễ Ngũ tuần. Hôm đó, vào ngày lễ Ngũ tuần, một ngày lễ lớn của Do thái giáo. Khi đó các tông đồ đang tụ họp trong nhà thì bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Lập tức các ông được biến đổi, một sức mạnh tràn ngập trên tâm hồn và thể xác các ông, khiến các ông không thể cưỡng lại được. Các ông cảm thấy được thống trị bởi sức mạnh thôi thúc duy nhất là rao giảng, thông truyền cho kẻ khác tất cả những gì mình đang chiêm ngưỡng trong ánh sáng rạng chiếu. Chúa Thánh Thần tổng hợp lại trong các ông như một bức tranh kính mầu đã được Chúa công bố. Và như thế, Hội thánh được khai sinh (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, SĐTG 1985).
Tóm lại, các tông đồ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào chiều ngày Chúa Giêsu sống lại và được sức mạnh tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ tuần để bắt đầu thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
3. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội thánh :
Thánh Augustinô nói : “Tôi muốn nói linh hồn là gì đối với các chi thể của chúng ta, thì Chúa Thánh Thần cũng là như thế đối với các chi thể của Chúa Kitô” (Bài giảng 2 C 7,4). Thật vậy, Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội thánh (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II TĐ.CTT). Người hành động bằng nhiều cách để xây dựng và thánh hóa Hội thánh.
a) Xây dựng :
Chúa Thánh Thần biến đổi các tông đồ vào ngày Ngũ tuần trở thành những người rao giảng Tin Mừng, qui tụ những người tin vào Chúa Kitô. Ngày hôm đó đã có khoảng 3000 người theo đạo (x. Cv 2,41).
- Chúa Thánh Thần qui tụ các tín hữu hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ tạ ơn, đồng tâm nhất trí, cả về tiền của (x. Cv 2,42-46).
- Chúa Thánh Thần ngự đến trên cả các tín hữu (x. Cv 8,14-17), qui tụ cả những người ngoại giáo (x. Cv 10,44-48).
- Chúa Thánh Thần tách riêng Barnaba và Saolô chuyên lo truyền giáo cho dân ngoại (x. Cv 13,2-3).
- Trong suốt dòng lịch sử của Hội thánh, Chúa Thánh Thần vẫn hằng xây dựng Hội thánh mỗi ngày thêm đông, thêm nhiều hoa trái thánh thiện.
- Công đồng Vaticanô II được gọi là lễ Hiện Xuống mới, là một bằng chứng hùng hồn và gần gũi chúng ta nhất về hoạt động xây dựng của Chúa Thánh Thần trong Hội thánh : Chúa Thánh Thần đã, đang và mãi mãi hiệp nhất mọi tín hữu nên một trong Chúa Kitô.
Tóm lại, Chúa Thánh Thần ban sức sống cho Hội thánh, hợp nhất các tín hữu nên một trong Chúa Ki-tô và thúc đẩy Hội thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Ki-tô giao phó.
b) Thánh hóa :
Chúa Thánh Thần thánh hóa, canh tân Hội thánh.
- Tất cả mọi người trong Hội thánh (Giáo phẩm - tu sĩ - giáo dân) đều được mời gọi nên thánh (x. Mt 5,48 ; Hc.HT 39).
- Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa Hội thánh nhờ các Bí tích và Lời Chúa :
+ Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, Chúa Thánh Thần trả lại cho ta sự sống siêu nhiên mà chúng ta đã mất vì tội tổ tông và tội riêng ta, được gọi Thiên Chúa là Cha (x. Rm 8,15). Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy tâm hồn tín hữu nguồn sống mới của Chúa Kitô (x. Gl 2,20 ; Rm 8,2.9.17). Để nuôi dưỡng đức tin của ta, Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ qua các Bí tích khác nhất là Bí tích Thánh Thể tăng cường sự sống siêu nhiên, ban cho ta được hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô (x. Gl 3,27 ; Rm 13,14). Chúa Thánh Thần soi sáng lòng trí tín hữu, giúp họ nhận định, phán đoán đúng sự thật, sự thiện và thực hiện theo ý Thiên Chúa.
+ Chúa Giêsu có “lời ban sự sống” (Ga 6,68-69) “lời uy quyền” (Mc 1,22) để thánh hóa Hội thánh và các phần tử trong Hội thánh. Hiến chế tín lý mạc khải của Công đồng Vaticanô II nơi số 21 đã viết: “Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội thánh, ban sức mạnh Đức tin cho con cái Hội thánh. Thực vậy, Lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm (Dt 4,12) có khả năng gầy dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hóa” (Cv 20,32). Chúa Thánh Thần, không những đã linh ứng cho các tác giả viết Kinh thánh (x. HcMK 11) mà còn tác động đến những lời ấy “đâm thấu lòng dân chúng khiến họ phải thốt lên với Phêrô : thưa anh em, chúng tôi phải làm gì” (x. Cv 2,37-41). Vì thế, Hội thánh đã “không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng các tín hữu (x. HcMK 21) đặc biệt trong Phụng vụ (x. HcPV 24). Bàn tiệc Lời Chúa trong Thánh lễ và trong các cử hành Bí tích là phương thức tuyệt diệu để Chúa Thánh Thần trao ban ân sủng và thánh hóa Hội thánh.
- Chúa Thánh Thần dạy tín hữu cầu nguyện với Thiên Chúa.
Do hậu quả của tội nguyên tổ, con người trở nên yếu hèn, không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. May thay, Chúa Thánh Thần đã dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa, vì Người biết rõ những gì đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong ta và cho ta (x. Rm 8,26-27).
- Chúa Thánh Thần thúc đẩy ta mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô : Chúa Thánh Thần không những soi sáng, hướng dẫn, giúp ta sống đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng Chúa Thánh Thần còn hiện diện sống động trong ta : “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao ? mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em”(1 Cr 6,19), “Người luôn ở giữa anh em và trong anh em” (Ga 14,17). Chúa Thánh Thần làm cho ta nên thánh (x. 2 Tx 2,13), thúc đẩy ta mến Chúa yêu người vì Người là tình yêu Thiên Chúa, giúp ta can đảm làm chứng cho Chúa Kitô.
Tóm lại, Chúa Thánh Thần làm cho các tín hữu trở nên con cái Chúa Cha, và dự phần vào chính sự sống Chúa Ki-tô. Người còn cho họ nhận biết sự thật, dạy họ cầu nguyện, thúc đẩy họ sống mến Chúa yêu người, và làm chứng cho Chúa Ki-tô.
4. Những hồng ân Chúa Thánh Thần :
Đời sống của các Kitô hữu còn được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đó là những năng lực thường xuyên giúp con người dễ dàng vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Những hồng ân này quen gọi là 7 ơn Chúa Thánh Thần. Đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức, ơn biết kính sợ Thiên Chúa. Nhờ các hồng ân này, người tín hữu biết mau lẹ vâng theo các ơn soi sáng của Chúa.
5. Sống với Chúa Thánh Thần :
Trời đã về khuya, Tâm vẫn chưa về nhà. Nó lủi thủi bước, vừa đi vừa suy nghĩ : “Làm sao có tiền đưa mẹ đi bác sĩ. Mẹ ốm nặng mà nhà không còn một đồng... !” Từ sáng đến giờ, Tâm chạy xuôi chạy ngược mà chẳng vay mượn đủ. Tâm buồn lắm. Không thể về nhà bây giờ, vì nhìn thấy mẹ rũ rượi trên cái phản tre, nó không thể chịu được. Nhưng làm sao để có tiền bây giờ ? Buồn quá, nó buông thõng mình trên đám cỏ bên đường...
“Cái gì lộm cộm dưới mông ? Cái gì vậy ?” Tâm tránh sang một bên và bới tìm. Một cái túi “bánh kẹo hay đồ vật gì chăng ?” Tâm tò mò mở ra : “Trời ơi ! một túi tiền !” Tâm ước chừng với số tiền này thừa sức để chữa bệnh cho mẹ. Tâm sung sướng reo lên, nó cuộn gói tiền lại giấu vào người và chạy nhanh về nhà. Đi ngang qua Nhà thờ, Tâm không quên ngừng lại để cám ơn Chúa. Nhưng chính lúc ở trước Mình Thánh Chúa, một ý nghĩ thoáng xuất hiện : biết đâu số tiền này là của một người cũng đi mua thuốc cho một bà mẹ đang ốm nặng như mẹ của Tâm thì sao ? Thế là Tâm đi chậm về phía nhà Cha sở. Nó gõ cửa và thưa hết chuyện với Cha, đồng thời nhờ Cha tìm cách trao túi tiền lại cho người đánh mất. Rất cảm động trước thái độ tốt của Tâm và hiểu được hoàn cảnh của Tâm, Cha sở tận tình giúp đỡ và động viên mọi người trong xứ lo liệu đưa mẹ Tâm đi bệnh viện.
Riêng người mất túi tiền, sau khi nhận lại được từ nơi Cha sở, đã tìm đến nhà Tâm cám ơn và thưởng cho em một món tiền xứng đáng. Thế là Tâm có tiền lo thuốc thang cho mẹ.
Đang lúc Tâm định làm điều xấu thì Chúa Thánh Thần soi sáng và nhắc nhở Tâm. Thái độ của Tâm như thế là đúng hay sai, là khôn hay khờ, các em hãy lắng nghe thánh Phaolô nói với chúng ta - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô
(1 Cr 3,16-17).
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Là Đền Thờ Thiên Chúa và được Chúa Thánh Thần ngự trong, chúng ta phải sống thế nào ?
Đền thờ của giáo xứ chúng ta (GLV có thể phấn khích các em miêu tả về nhà thờ của giáo xứ để dẫn các em đến thái độ đối với Chúa Thánh Thần nơi chính thân xác và tâm hồn các em) đều được mọi người quan tâm góp công xây dựng, trang trí đẹp đẽ, gìn giữ sạch sẽ. Một em nào xả rác trong nhà thờ, liền được nhắc nhở ; một em nào đi đứng thiếu nghiêm trang, đứng đắn, kéo lê dép... đều được khuyến cáo. Những thái độ này đều được nhìn nhận là tôn kính nhà Thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng phải có những thái độ đó đối với Chúa Thánh Thần trong con người chúng ta :
a) Xây dựng con người có văn hóa, có đức độ, có nhiệt tình và nhất là có nội dung đức tin vững chắc nhờ chuyên chăm học văn hóa, luyện tập nhân đức, và sống tốt trong môi trường huấn giáo (huấn giáo không chỉ là học thuộc những câu giáo lý nhưng còn là cải tạo lối sống và dẫn vào đời sống mới).
b) Dấn thân phục vụ, loan báo Tin Mừng : người Kitô hữu muốn sống đích thực ơn gọi Kitô hữu thì phải thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đặc biệt, khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, người Kitô hữu tham dự vào chính sứ mệnh của Chúa Giêsu, Đấng đã đến, đã sống và rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Trước khi về trời, Chúa Giêsu trao sứ mệnh ấy cho Hội thánh : “Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Ơn gọi Kitô hữu cũng là ơn gọi làm việc tông đồ” (Sl. TĐGD 2).
Sống kết hợp với Chúa Giêsu, người Kitô hữu luôn biết trắc ẩn, bén nhạy thao thức như Chúa Giêsu : Người chạnh lòng thương xót đám dân vì họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn (x. Mc 6,34). Người Kitô hữu đón nhận chính sứ mệnh của Chúa Giêsu truyền lại cho Hội thánh : “Đến với muôn dân” (x. Sl.HĐTG 1). Tình yêu đối với Chúa và đối với mọi người thôi thúc chúng ta phải truyền rao Tin Mừng bằng lời nói, hành động, đời sống chứng tá để mọi người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu thế và nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương hầu đón nhận tình thương mà Thiên Chúa dành cho họ (x. Sl TĐGD c.4).
c) Câ#u nguyện cùng Chúa Thánh Thần : Chúa Thánh Thần dạy ta biết cầu nguyện đẹp lòng Chúa Cha, vì Chúa Thánh Thần là Thần Trí của Thiên Chúa. Người biết rõ những gì đẹp lòng Thiên Chúa.
- Chúa Thánh Thần sẽ dọi ánh sáng vào lòng ta, mở rộng trí khôn ta để đón nhận ý Chúa, thấu hiểu Lời Chúa : Thánh Thần không những giúp ta hiểu bằng trí óc mà còn hiểu bằng tâm hồn đức tin.
- Sự hiểu biết thâm sâu này giúp ta khám phá ý nghĩa của Lời Thiên Chúa, và từng bước, Lời Chúa hoán cải tâm hồn ta.
- Thánh Thần giúp ta nhận ra ý Chúa để thực hiện.
Vì thế ta luôn cậy dựa vào Chúa Thánh Thần khi cầu nguyện.
d) Vâng theo Chúa Thánh Thần : Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu qua tiếng nói lương tâm : âm thầm nhưng rõ rệt và sống động. Chúa Thánh Thần hằng chỉ bảo cho người tín hữu từng lúc đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu phải tránh. Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn người tín hữu như ngự trong Đền thờ của Người. Vì thế, ai luôn vâng nghe Chúa Thánh Thần soi sáng, khơi động, thúc giục... sẽ luôn thực hiện được cuộc sống hạnh phúc.
Tóm lại, ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
D. Cầu nguyện.
Đọc kinh Chúa Thánh Thần.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ông Gio-an còn làm chứng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1,32).
35. H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ? # (GLCG. 101)
T. Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy.
36. H. Chúa Thánh Thần đã được ban cho các môn đệ lúc nào ? (GLCG. 106)
T. Chúa Giê-su đã nhiều lần hứa ban Chúa Thánh Thần, rồi chiều ngày Phục sinh và ngày lễ Ngũ tuần, Người đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
37. H. Chúa Thánh Thần xây dựng Hội thánh thế nào ? # (GLCG. 107)
T. Chúa Thánh Thần ban sức sống cho Hội thánh, hợp nhất các tín hữu nên một trong Chúa Ki-tô và, thúc đẩy Hội thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Ki-tô giao phó.
38. H. Chúa Thánh Thần thánh hoá Hội thánh thế nào ? (GLCG. 108)
T. Chúa Thánh Thần làm cho các tín hữu trở nên con cái Chúa Cha, và dự phần vào chính sự sống Chúa Ki-tô. Người còn cho họ nhận biết sự thật, dạy họ cầu nguyện, thúc đẩy họ sống mến Chúa yêu người, và làm chứng cho Chúa Ki-tô.
39. H. Ta còn được hưởng những ơn nào của Chúa Thánh Thần nữa không ? (GLCG. 320)
T. Ta còn được nâng đỡ bởi bảy ơn Chúa Thánh Thần :
- Một là ơn khôn ngoan,
- Hai là ơn hiểu biết,
- Ba là ơn thông minh,
- Bốn là ơn biết lo liệu,
- Năm là ơn sức mạnh,
- Sáu là ơn đạo đức,
- Bảy là ơn biết kính sợ Thiên Chúa.
40. H. Ta phải sống với Chúa Thánh Thần thế nào ? # (GLCG. 109)
T. Ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành : câu chuyện dẫn đến thực hành :
Thánh Phanxicô Xaviê nói : một em bé thấy con chó bị điên, từ xa đang hung hăng chạy lại, em bé đó sẽ làm gì ? Chạy trốn ư ? Không được, vì em chưa biết đi, em phải làm gì ? - Em sẽ la to, gọi ba, gọi mẹ đến giúp em khỏi bị con chó cắn.
Chúng ta giống như em bé, tự mình không thể bước đi, thoát mọi cám dỗ, thử thách của ma quỉ. Ta phải cầu xin đặc biệt với Chúa Thánh Thần hầu xin Người ban ơn sức mạnh, khôn ngoan, can đảm, thánh hóa... để có thể sống đẹp lòng Chúa. Vậy : Trước khi bắt đầu một công việc, em sốt sắng xin Chúa Thánh Thần thánh hóa.
3. Bài làm ở nhà :
Em hãy vẽ hình mình đang đội mũ triều thiên.
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở, tạ ơn, sáng danh...
Lời Chúa : “Đức Giê-su vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra và thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,9-11).
Ý chính : 1. Giáo lý về Thiên Chúa duy nhất (Mc 12,29-30).
2. Tên Thiên Chúa (Xh 3,14-15).
3. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (Mc 1,9-11).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 232-267
Tâm tình : Ước ao biến đổi tâm hồn mình trở thành Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chuẩn bị : Tranh Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : tương tự các bài trước.
2. Thánh hóa : (GLV hướng dẫn các em : sau mỗi lời xướng, các em đáp : “Chúng con chúc tụng Chúa”).
X- Lạy Chúa Cha : Thiên Chúa sáng tạo trời đất và muôn loài trong vũ trụ.
Đ- Chúng con chúc tụng Chúa.
X- Lạy Chúa Con : Đấng cứu độ trần gian để chúng con được giao hòa. Đ.
X- Lạy Chúa Thánh Thần : Thần Khí thánh hóa và canh tân thế giới. Đ.
3. Dẫn vào bài mới :
Chúng ta đã học về Chúa Cha, về Chúa Con và về Chúa Thánh Thần. Nhưng đó không phải là 3 Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cần học và tuyên xưng đức tin về Một Chúa Ba Ngôi.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lần kia, khi thấy Chúa Giêsu đối đáp hay quá với những người thuộc nhóm Sađốc, thì một người thông luật đã hỏi thử Người : ThưaThầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ? Chúa Giêsu đã trả lời người đó thế nào ? Các em hãy nghiêm trang nghe câu trả lời đầy khôn ngoan của Chúa - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 12,29-30).
“Đức Giêsu trả lời : “Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Thiên Chúa duy nhất.
Dù biết người thông luật có ý thử mình, Chúa Giêsu vẫn điềm tĩnh trả lời : Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất. Khi quả quyết điều này, Chúa Giêsu không đưa ra một điều mới lạ vì niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất là đức tin đã được Thiên Chúa mạc khải (tỏ bày) từ thời Cựu ước (x. Đnl 6,4-5), được củng cố, bảo trì trong suốt lịch sử dân tộc Do thái, trở thành gia bảo của dân riêng Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định lại niềm tin căn bản này ngay trong cuộc chiến đấu với Satan (x. Mt 4,10 ; Mc 12,29). Sau ngày Chúa Giêsu về trời, Hội thánh tiếp tục tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất. Đây là khẳng định đầu tiên và là khẳng định căn bản nhất của đức tin. Vì thế, khi tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, ta phải hiểu : chỉ có một Thiên Chúa và ngoài Người ra, không có Thiên Chúa nào khác, và ta phải thờ phượng một mình Người mà thôi
(x. Mt 4,10).
2. Tên Thiên Chúa.
Vào thế kỷ 13 trước Công nguyên, Thiên Chúa đã chọn gọi và sai Môsê đi giải phóng dân riêng Do thái khỏi ách nô lệ người Ai cập. Môsê đã thưa với Chúa : Nếu họ nói với tôi : Tên Người là gì ? thì tôi sẽ nói làm sao với họ ?” Các em biết Thiên Chúa trả lời thế nào không ? Mời các em nghiêm trang nghe chính Chúa trả lời (mời đứng):
Lời Chúa trong sách Xuất hành (Xh 3,14-15)
“Thiên Chúa phán với Môsê : “Ta là Đấng Hiện Hữu“. Người phán : “Ngươi nói với con cái Israel thế này : “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em”. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê : “Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này : Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của ông Abraham, Thiên Chúa của ông Isaac, Thiên Chúa của ông Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là Danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Các em biết : tên gọi của một người nào là chính người đó. Khi sinh ra, chúng ta được cha mẹ đặt cho một tên. Tên (1) là chính người mang tên đó, nói đến tên của ai là bộc lộ nguồn gốc, tính tình, khả năng... của người đó. Việt Nam chúng ta càng chú trọng đến tên gọi (GLV có thể quảng diễn về cách gọi tên của các miền Trung - Nam - Bắc). Chính Môsê cũng thấy có yêu cầu xác định Tên Đấng đã sai mình nên đã xin Thiên Chúa cho biết tên và Thiên Chúa đã cho ông biết : “Ta là Đấng hiện hữu...” hoặc “Ta là Ta, Ta là Giavê” (2) (Xh 3,14 ; x. Xh 6,2-6). Tên gọi này vừa là ý Chúa muốn tỏ mình cho ta, vừa là từ chối không cho biết Người. Thật ra, Thiên Chúa vượt xa tất cả những gì con người có thể hiểu biết hay diễn tả nhưng đồng thời Người cũng rất gần gũi con người. Người luôn có mặt với loài người, nhận lời họ kêu cầu, bảo vệ và giải thoát họ khỏi các thù địch vì Người là “Đấng hiện hữu”.
“Đấng hiện hữu” khởi xướng và ký kết với Israel nơi hoang địa tại núi Sinai một Giao ước (Hợp đồng) nhận Israel làm dân riêng của Người (x. Xh 19,3-6) và dân Israel đã thề hứa : “Tất cả những gì Giavê đã phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo” (Xh 19,8). Thế nhưng, thực tế của dòng lịch sử, Israel đã bất trung với Thiên Chúa, phản bội giao ước. Dù vậy, Thiên Chúa, Đấng hiện hữu, vẫn trung thành mãi mãi “giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,7), vẫn là “Thiên Chúa giầu lòng thương xót” (Ep 2,4) “đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16).
Tóm lại, Thiên Chúa đã tỏ cho ta biết tên của Người là Đấng Hiện Hữu và Thiên Chúa còn tỏ cho ta biết Người “giầu ơn nghĩa và trung tín” (Xh 34, 6). Người chính là Sự Thật và Tình yêu.
3. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một ngày kia trên đường từ Giêrusalem về Ga-da, chiếc xe tứ mã đang chở một quan thái giám người Ethióp, làm quan lớn trong triều của bà Canđakê, nữ hoàng nước Êthióp. Ông đã lên Giêrusalem hành hương và bấy giờ đang trên đường về. Ông ngồi trên xe, đọc sách ngôn sứ Isaia. Philipphê đuổi kịp xe, lên tiếng : “Ngài có hiểu điều Ngài đọc không ?” Quan đáp : “Làm sao tôi hiểu được nếu không có người dẫn giải” rồi ông mời Philipphê lên xe. Philipphê đã giải thích và nhờ đó vị quan hiểu được lời Kinh thánh đang đọc (x. Cv 8,26-35).
Sách ngôn sứ cầm trong tay, mắt và miệng đọc mà còn không hiểu thì mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao siêu vô cùng, ai hiểu được nếu không có người chỉ bảo cho ! May phước cho chúng ta, đã có Đấng dạy chúng ta biết mầu nhiệm cao siêu này. Mời các em nghiêm trang nghe Lời Người (mời đứng) :
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 1,9-11)
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa này, chúng ta thấy những gì (GLV giúp các em phát hiện những sự việc và những ai, để dẫn đến nội dung giáo lý :)
Ngoài Gioan Tẩy Giả, chúng ta thấy có 3 nhân vật cao cả :
- Chúa Giêsu, Người vừa được Gioan làm phép rửa, là Vị được tuyên dương là “Con yêu dấu của Cha”.
- Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống. Trong bài 9, các em đã biết bồ câu biểu tượng cho Chúa Thánh Thần.
- Tầng trời xé ra và có tiếng từ trời phán : đây là lối nói của Cựu ước diễn tả về Thiên Chúa, Đấng hiện hữu mà Chúa Kitô dạy cho biết là Chúa Cha (x. Ga 14,9-10). Hơn nữa, trong tiếng phán ra từ trời “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” nói lên một tương quan giữa người nói và kẻ được nói tới. Người được nói tới, Chúa Giêsu, là Con và người nói là “Cha”, Cha của Chúa Giêsu (x. Ga 20,17).
Tóm lại, nhờ Chúa Giêsu mạc khải mà ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau, nên chỉ là một Thiên Chúa duy nhất mà thôi (Kinh Tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi).
D. Cầu nguyện.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh : là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con ca ngợi Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn nhớ mọi người là Đền thờ của Chúa Ba Ngôi để chúng con biết tôn trọng nhau.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Đức Giê-su vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra và thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,9-11).
41. H. Khi tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, ta phải hiểu thế nào ?
(GLCG. 29)
T. Ta phải hiểu : chỉ có một Thiên Chúa và ngoài Người ra, không có Thiên Chúa nào khác, và ta phải thờ phượng một mình Người mà thôi (x. Mt 4,10).
42. H. Thiên Chúa có tỏ cho ta biết tên của Người không ? (GLCG. 30)
T. Thiên Chúa đã tỏ cho ta biết tên của Người là Đấng Hiện Hữu.
43. H. Thiên Chúa có tỏ mình cho ta biết thêm về Người nữa không ?
(GLCG. 32)
T. Thiên Chúa còn tỏ cho ta biết Người “giầu ơn nghĩa và trung tín” (Xh 34, 6). Người chính là Sự Thật và Tình yêu.
44. H. Nhờ đâu ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ? # (GLCG. 35)
T. Nhờ Chúa Giê-su mặc khải mà ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi (x. Mt 28,19).
45. H. Ta phải hiểu thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ? (GLCG. 36)
T. Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau, nên chỉ là một Thiên Chúa duy nhất mà thôi. (Kinh Tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi).
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt GL cấp II.
2. Thực hành :
Để tỏ lòng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, em kết thúc công việc bằng kinh sáng danh.
3. Bài làm ở nhà :
Ghi kinh Sáng danh vào tập và trang trí thật đẹp.
V. KẾT THÚC.
Nhắc các em nhớ sống dưới sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong từng ngày sống. Lời bà mẹ Margarita nói với Gioan Bosco : “Con hãy luôn nhớ : Chúa nhìn con”.
Bài 11
HỘI THÁNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”
(Ga 15,5)
Ý chính : 1. Hội thánh trong chương trình cứu độ (Ga 15, 4-5).
2. Hội thánh là Đền Thờ Chúa Thánh Thần (Ep 2,19-22).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : các số 748-810
Tâm tình : Cảm tạ Chúa, đồng thời yêu mến và ước muốn góp phần xây dựng Hội thánh.
Chuẩn bị : - Tranh 18 ĐBTT cũ.
- Tranh Chúa Giêsu đang giảng về Nước Trời (ĐBTT cũ).
- Một cây kiểng có nhiều cành.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : Tương tự bài trước
2. Thánh hóa :
Các em thân mến, hôm nay chúng ta được học hỏi về Hội thánh trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nài xin Thánh Thần Chúa, Đấng là linh hồn của Hội thánh, Đấng không ngừng canh tân Hội thánh bằng ân sủng của Người, ban cho chúng ta tâm tình yêu mến, ham thích học hỏi và xây dựng Hội thánh.
3. Dẫn vào bài mới :
Chúa Giêsu Kitô, khi đến trần gian đã qui tụ những ai tin vào Người thành một cộng đoàn là Hội thánh. Giờ đây chúng ta tìm hiểu cộng đoàn đó trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Sau lụt Hồng thủy, con cháu của Nôê sinh sôi nảy nở ngày càng đông, càng giàu mạnh. Họ dự tính xây một ngọn tháp cao thấu trời, để lưu danh muôn thuở.
Nhưng Thiên Chúa thấu suốt lòng kiêu căng tự mãn của họ, Người đã phá vỡ chương trình của họ một cách dễ dàng, bằng cách làm cho ngôn ngữ trở nên bất đồng, không ai hiểu ai... Vì thế công trình thất bại. Tháp đó được gọi là Ba-bel có nghĩa là “hỗn độn” (x. St 11,1-9). Còn, Chúa Giêsu khi đến trần gian đã sống “hiền lành và khiêm tốn” (x. Mt 11,29), đã qui tụ một dân mới biết liên kết với Người và với nhau như hình ảnh sinh động của cây nho mà Thánh sử Gioan đã ghi lại. Mời các em đứng nghe Lời Chúa :
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan : (Ga 15,4-5)
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để ám chỉ về Người và Hội thánh : Chúa là cây nho, còn các Tông đồ và chúng ta là cành nho. Như cành nho phải gắn liền với cây nho mới trổ sinh hoa trái, chúng ta cũng phải gắn liền với Chúa Kitô, ở trong Chúa Kitô mới có thể sinh nhiều hoa trái thiêng liêng.
1. Hội thánh là cộng đoàn nào ?
Trong bài 9 ĐBTT (cộng đoàn Hội thánh) chúng ta biết chính Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh thành một cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa qui tụ, thành dân Chúa và thành Thân Thể Chúa Kitô. (1)
Cộng đoàn này có một vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ mà Lời Chúa trên đây giúp chúng ta khám phá :
- Khi các em lấy một viên đá ra khỏi đống đá, viên đá đó có bị khô héo hay thối rữa không ? Tại sao (đợi các em trả lời). Viên đá không bị thối rửa vì không có sự sống, và không có sự liên hệ nào giữa viên đá này với viên đá khác hay với cả đống đá. Các viên đá chỉ nằm bên cạnh nhau mà thôi.
- Bây giờ, nếu anh (chị) ngắt chiếc lá này ra khỏi cây cảnh đây, chiếc lá sẽ ra sao ? (đợi các em trả lời). Tại sao ? (đợi các em trả lời). Chiếc lá bị tách lìa khỏi cây sẽ khô héo, vì nó không còn nhận được nhựa sống từ thân cây chuyển đến. Cũng thế, Hội thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Trong Hội thánh, sức sống và ân sủng từ Chúa Kitô chuyển thông đến mọi người. Như thân mình phải gắn bó chặt chẽ với đầu ra sao, Hội thánh cũng phải gắn bó với Chúa Kitô như vậy. Về phần mình, các tín hữu lại phải gắn liền với Chúa Kitô như cành nho phải gắn liền với cây nho để có thể sống và sinh hoa kết trái
- Khi gắn bó với Chúa Kitô, các Kitô hữu đương nhiên liên kết với nhau (x. Rm 12,4-5), vì cùng chung một đức tin, một phép rửa, và có chung một Thiên Chúa là Cha (x. Ep 4,5). Không thể có cành nho nào chỉ liên kết với thân cây mà không liên kết với những cành khác.
Thiên Chúa muốn toàn thể nhân loại được hiệp thông với Người, vì ý định của Thiên Chúa là “thâu họp tất cả nơi Đức Kitô” (Ep 1,10). Thế nên, khi hiệp thông với Thiên Chúa, Hội thánh còn có sứ mạng rao truyền Tin mừng cho mọi tạo vật, để đưa toàn thể nhân loại về hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau.
Như vậy, Hội thánh vừa là dấu chỉ vừa là khí cụ của sự Hiệp thông với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.
2. Hội thánh là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.
Trong câu chuyện người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp (x. Ga 4,1-42), chị thiếu phụ đã nói đến sự khác biệt giữa người Samari và người Do thái về việc tôn thờ Thiên Chúa : “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này, còn các ông lại bảo : Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đáp lại : “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,20-23). Rõ rệt, Chúa Giêsu nói đến một Đền thờ khác, không phải là Đền thờ Giêrusalem, cũng không phải là Đền thờ trên núi Ga-ri-dim, hay Đền thờ giáo xứ chúng ta... Vậy Đền thờ đó là Đền thờ nào ? Thánh Phaolô Tông đồ cho chúng ta câu trả lời rất xác đáng, mời các em đứng nghe :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêsô (Ep 2,19-22).
“Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các tông đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô cho chúng ta thấy :
- Những tín hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, không còn là người xa lạ hay tạm trú, nhưng là đồng hương với các thánh (tín hữu khác), là người nhà của Thiên Chúa.
- Trong Chúa Kitô, tất cả các tín hữu được xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi Đền thánh trong Chúa, được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí. Thánh Augustino đã có một đối chiếu rất sống động và cụ thể khi nói “linh hồn chúng ta là gì đối với các chi thể của chúng ta thì Chúa Thánh Thần cũng là như thế đối với các chi thể của Chúa Kitô” (Bài giảng 267,4). Chúa Thánh Thần làm cho Hội thánh trở thành “Đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6,16).
Như vậy, Lời Chúa cho ta thấy Hội thánh là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Người không ngừng xây dựng, thánh hóa và canh tân Hội thánh (x. Bài 9 trên đây).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi mọi người gia nhập Hội thánh để làm nên cộng đoàn hiệp thông. Xin giúp con biết sống liên đới với mọi người để xây dựng Hội thánh nên Đền thờ Chúa Thánh Thần.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5).
46. H. Hội thánh là cộng đoàn nào ? # (GLCG. 110)
T. Hội thánh là một cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa qui tụ thành Dân Chúa và thành Thân Thể Chúa Ki-tô.
47. H. Hội thánh có vai trò nào trong chương trình cứu độ ? (GLCG. 113)
T. Hội thánh vừa là dấu chỉ, vừa là khí cụ của sự hiệp thông với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại (Hc.HT số 1).
48. H. Vì sao gọi Hội thánh là Đền thờ của Chúa Thánh Thần ? (GLCG. 118)
T. Vì Chúa Thánh Thần luôn ở trong Hội thánh như linh hồn của Nhiệm thể. Người không ngừng xây dựng, thánh hóa và canh tân Hội thánh bằng các ân sủng của Người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : Chọn trong tập Sinh hoạt Giáo Lý cấp II.
2. Thực hành :
Em sống ngoan để gia đình em trở thành tế bào sống động của Hội Thánh.
3. Bài làm ở nhà :
Em sáng tác một biểu tượng về sự sống và tính hiệp nhất của Hội thánh.
V. KẾT THÚC.
Các em mến, Chúa đã thương gọi các em vào Hội thánh của Người và không ngừng ban mọi ơn lành cho các em. Giờ đây, Chúa lại cho các em được ngồi bên nhau để học hỏi giáo lý, ngõ hầu các em được hiểu và yêu mến Chúa cùng với Hội thánh của Người hơn. Vậy, để kết thúc giờ học này, qua kinh Sáng Danh, các em hãy cùng anh (chị) dâng lời tạ ơn Chúa, và xin Người giúp các em sống xứng đáng là Đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
Ý chính : 1. Đặc tính duy nhất (Mt 16,18).
2. Đặc tính thánh thiện (Ep 5,25-27).
3. Đặc tính công giáo (Ga 10,14-16).
4. Đặc tính tông truyền (Ep 2,19-22).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : các số 811-870
Tâm tình : Tạ ơn Chúa đã cho chúng con sống trong gia đình Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
Chuẩn bị : - Tấm ảnh lớn các thánh Tử đạo Việt Nam.
- Tranh lớn về Đức Giáo Hoàng.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : Tương tự như bài trước
2. Thánh hóa :
Các em thân mến, hôm nay, chúng ta được học về Hội thánh như là một cộng đồng có 4 dấu chỉ đặc biệt mà mỗi Chúa nhật, trong Thánh lễ, chúng ta thường tuyên xưng trong Kinh Tin Kính : “Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta trở nên những người con ngoan trong gia đình Hội thánh.
3. Dẫn vào bài mới :
Chúng ta được Lời Chúa cho biết Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh, chúng ta cần tìm biết Hội thánh của Chúa Giêsu có những đặc tính nào để mỗi người chúng ta biết góp phần làm sáng tỏ những đặc tính đó.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một ông vua kia có 3 người con trai. Cả 3 hoàng tử tài đức ngang nhau. Trước khi chết, vua nghĩ đến việc chia đất đai và quyền hành cho 3 cậu. Nhưng vua lo ngại một điều : liệu khi mình chết rồi 3 anh em có biết hợp tác, đoàn kết với nhau và coi nhau như anh em một nhà, là dòng dõi duy nhất của vua nữa hay không ? Vua gọi 3 hoàng tử đến, trao cho mỗi người một cây cung, tượng trưng cho sự cai trị đất nước, rồi vua lại sai người đem đến một bó tên để bắn. Vua bảo người con thứ nhất : “Con hãy cầm bó tên này và cố gắng bẻ gẫy tất cả.” Cậu bẻ mãi mà không gẫy. Tới người con thứ hai và cậu hoàng tử út, vua cũng bảo làm như thế và không ai bẻ gẫy được bó tên. Nhà vua gật gù : “Các con không thể bẻ gẫy cả bó tên đó đươc đâu vì chúng được gom lại thành một khối duy nhất. Còn bây giờ, nếu cha đưa ra từng cây, chắc chắn chúng con sẽ bẻ gẫy được dễ dàng... Cũng vậy, vương quốc này, rồi đây khi cha mất, nếu các con biết hợp nhất với nhau, chỉ có một vương quốc duy nhất thôi và mỗi người trong các con tùy theo khả năng mà làm việc thì cha tin chắc không một quân thù nào có thể đánh phá được nước ta... Đó là điều ước nguyện duy nhất mà cha mong ước trước khi lìa trần”.
Các em thấy đó, một quốc gia muốn vững mạnh thì mọi thành phần của quốc gia ấy phải hiệp nhất với nhau. Yêu cầu này bắt nguồn từ hoài bão tốt lành, đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Người muốn tất cả nhân lọai đừng chia rẽ nhau nhưng biết kết hiệp như Ba Ngôi Thiên Chúa đã kết hợp cùng nhau. Đây chính là điều mà Lời Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 16,18)
“Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
(GLV đi từ Lời Chúa trên để giúp các em xác tín về Hội thánh là cộng đoàn duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập với những đặc tính sau :)
1. Đặc tính duy nhất.
a) Những lý do làm nên tính duy nhất của Hội thánh :
- Do nguồn gốc : Hội thánh bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Chính Chúa Ba Ngôi làm khuôn mẫu cho sự hiệp nhất trong Hội thánh.
+ Thiên Chúa muốn qui tụ tất cả những ai tin kính Người thành một dân tộc, một dân riêng của Người, vì chỉ có một Thiên Chúa là Cha.
+ Hội thánh được hình thành qua sứ mệnh của Chúa Con, Đấng Cứu chuộc nhân loại bằng cái chết và sự sống lại của Người, để hòa giải nhân loại với Thiên Chúa Cha và để nhân loại hiệp lại thành một thân thể của Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần.
+ Hội thánh được kiện toàn nhờ sức mạnh thánh hóa của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần liên kết, thực hiện sự hiệp thông lạ lùng này giữa các tín hữu và làm cho họ kết hợp khăng khít với Chúa Kitô, hay nói theo kiểu Thánh Phaolô : “Nên một trong Chúa Kitô” (Rm 12,5).
- Do việc thiết lập : Chúa Giêsu chỉ thiết lập một Hội thánh trên nền tảng Phêrô và các tông đồ (x. Mt 16,18).
Chúa đặt Phêrô và các Đấng kế vị Phêrô làm nguyên lý (1) và nền tảng (2) vĩnh viễn, hữu hình cho sự hiệp nhất giữa các Giám mục và cộng đoàn tín hữu.
- Do tuyên xưng một Đức tin : sự duy nhất của Hội thánh còn được nhận biết do việc tuyên xưng Đức tin ; cùng một phép Rửa liên kết mọi người với Chúa Giêsu và với nhau : con một Cha trên trời. Hội thánh cùng chung việc phụng thờ Thiên Chúa : cùng một Thánh lễ, một Thánh Thể, cao điểm nhất của việc thờ phượng Thiên Chúa. Hội thánh biểu lộ niềm tin duy nhất khi mọi tín hữu trên hoàn cầu đều đọc kinh Tin Kính, cùng tuyên xưng Chúa là Cha và mọi người là anh em trong một gia đình Thiên Chúa, cùng chia sẻ một tấm bánh...
Như vậy, Hội thánh duy nhất nhờ ba mối liên kết : “Cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung việc thờ phượng Thiên Chúa, và hiệp nhất huynh đệ trong gia đình Thiên Chúa (Sắc lệnh Hiệp nhất số 2).
b) Sống hiệp nhất :
- Chúa Giêsu hằng quan tâm cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Hội thánh : Người cầu xin với Chúa Cha : “Xin Cha cho tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
- Hoạt động cho sự hiệp nhất. Công đồng Vaticanô II đã ra sắc lệnh Hiệp Nhất, mời gọi con cái Hội thánh, mỗi người phải : “Bận tâm tái lập hiệp nhất liên hệ đến toàn thể Hội thánh, tín hữu cũng như Chủ chăn, mỗi người đều phải lưu tâm tùy theo sức riêng của mình...” (SLHN số 5).
Do đó, trách nhiệm của mọi thành phần dân Chúa là phải bảo vệ sự hiệp nhất và tiến tới sự hiệp nhất Hội thánh ngay từ Giáo xứ bằng cách :
- Canh tân đời sống, luôn trung thành với Hội thánh.
- Hoán cải tâm hồn.
- Hiệp nhất trong lời cầu nguyện, tham dự cách tích cực và sinh động các giờ cầu nguyện chung giáo xứ.
- Hiệp thông trong tình bác ái huynh đệ : yêu thương, giúp đỡ nhau.
- Trong tình liên đới xây dựng giáo xứ : tham gia các sinh hoạt giáo xứ, giáo phận để tô điểm khuôn mặt giáo xứ thêm tươi đẹp, thánh thiện. Xây dựng Giáo xứ tốt đẹp, là góp phần xây dựng giáo phận và Hội thánh.
2. Đặc tính thánh thiện.
Sách Tông đồ Công vụ kể lại cái chết Tử đạo anh dũng của Stêphanô là một trong bảy vị Phó tế đầu tiên của Hội thánh. Người nhiệt thành rao giảng cho người Do thái để họ tin vào Chúa Giêsu, và chỉ cho họ thấy những sai lạc của họ. Nhưng một số người cứng đầu chai lì đã tức giận tố cáo Người phạm thượng chống lại Thiên Chúa và Môsê, nên Người bị kết án ném đá chết. Trước khi chết, khuôn mặt Người vẫn bình an tỏa sáng khiến ai nấy đều ngạc nhiên, rồi Người còn bắt chước Chúa Giêsu xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết mình.
Các em thấy cái chết của vị Tử đạo vẫn cao thượng, nhân hậu đối với kẻ chống đối, luôn được bình an và có lòng tha thứ... Nét đẹp của các Thánh như là những bông hoa đầy hương sắc được chắt lọc, kết tinh từ những tinh túy thơm tho tuyệt diệu của “Vườn Hội thánh”. Chính sự thánh thiện tốt đẹp của Chúa đã chiếu tỏa trên Hội thánh, để Hội thánh trở nên một vườn hoa muôn sắc, tươi đẹp, thơm tho, không một tì ố nào nhưng tinh tuyền, thánh thiện như ý Chúa mà các em sẽ được nghe qua Lời Chúa dạy. Mời các em đứng.
Bài trích thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêsô
(Ep 5,25-27).
“Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh ; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Qua Lời Chúa trong đoạn thư trên đây, chúng ta xác tín rằng chính Chúa Giêsu là Đấng đã yêu thương và thiết lập Hội thánh. Người đã làm cho Hội thánh được thanh tẩy bằng chính Máu, Nước và Lời hằng sống để trở nên thánh thiện. Thánh Phaolô diễn tả sự thánh thiện của Hội thánh qua những từ ngữ : Hội thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, không có khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
a) Những lý do làm nên tính thánh thiện của Hội thánh :
Hội thánh mang đặc tính thánh thiện vì Hội thánh được liên kết với chính Thiên Chúa là Đấng Thánh, như lời tung hô kết thúc kinh tiền tụng : “Thánh, thánh, thánh” :
- Hội thánh là thánh vì Hội thánh do Chúa Giêsu là Đấng Thánh, thiết lập, Người là đầu mà Hội thánh là thân, toàn thân phải liên kết với đầu. Chúa Giêsu và Hội thánh chỉ là một, chính “Chúa Giêsu đã yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh” (Ep 5,25). Vì thế, Hội thánh trở nên thánh thiện nhờ sự thánh hóa của đầu là Chúa Giêsu, “các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11,44-45; x. Mt 5,48).
- Mục đích của Chúa Giêsu khi thiết lập Hội thánh là muốn cho mọi người được cứu rỗi, được gia nhập vào đàn chiên Chúa, được thánh hóa, được cùng gọi Thiên Chúa là Cha và cùng ca khen chúc tụng Thiên Chúa.
- Hội thánh là Bí tích cứu rỗi (HcHT). Hội thánh đã dùng các phương thế trong kho tàng Lời Chúa, cử hành các nghi thức Phụng vụ, cử hành các Bí tích nhằm phát triển những hoa trái thánh thiện, sinh ơn ích cho mọi tín hữu.
- Hội thánh luôn phát sinh những hoa trái thánh thiện và tinh tuyền : đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria, các Thánh là những thành phần ưu tuyển của Hội thánh.
b) Thực tế của Hội thánh lữ hành : luôn phải thanh tẩy.
Tuy nhiên, đối với các phần tử trong Hội thánh lữ hành thì sự thánh thiện này chưa đạt được trọn vẹn. Vì Hội thánh đang trên đường tiến về Nước Trời, nên Hội thánh vẫn gồm cả những người thánh thiện và kẻ tội lỗi, người lành và kẻ dữ. Nhưng dầu ôm ấp những tội nhân, Hội thánh vẫn luôn luôn thánh thiện nhờ sức mạnh và các phương tiện thánh hóa của Chúa Giêsu qua Lời Chúa và các Bí tích ; đồng thời, Hội thánh luôn kêu gọi con cái thanh tẩy không ngừng cho đến ngày tận thế (x. Mt 13,20-30). Sự cố gắng không ngừng này làm phát sinh những “Vị Thánh” trong Hội thánh. Các Thánh là những người đã từ “Gian khổ” (x. Kn 7,14) để đạt đến vinh quang, là những Đấng đã sống bác ái tuyệt vời, vì bác ái là con đường tuyệt hảo để nên thánh. Bác ái là dây ràng buộc sự thánh thiện và là sự trọn hảo của Lề luật, nó điều khiển mọi phương thế nên thánh (Hc.HT 42). Thánh Phaolô đã xác định bằng một lối so sánh độc đáo : “Dầu chúng ta nói tiên tri, làm phép lạ, trừ quỉ... nếu không có đức Bác ái thì cũng vô ích” (1 Cr 13,2).
c) Những mẫu gương sống thánh :
Nhìn vào các Thánh, những người con ưu tú của Hội thánh, chúng ta biết các Ngài là những Đấng đã yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Các Ngài đã thực hiện nhân đức cách anh hùng để nêu gương cho chúng ta sống trung thành với Chúa (x. HcHT số 48-51). Nhưng hơn tất cả, Hội thánh đạt đến sự thánh thiện tuyệt hảo trong Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta. Mẹ được tôn phong làm Nữ Vương các Thánh. Với tâm hồn thanh khiết trọn vẹn, Mẹ đạt đến đỉnh cao của sự thánh thiện như Chúa muốn. Sự thánh thiện tuyệt hảo của Mẹ là niềm vinh dự cho Hội thánh và làm cho Hội thánh ngày càng thêm lộng lẫy, vinh quang, vì Mẹ đã là phần tử của Hội thánh (x. Hc.HT chương 8).
Chúng ta đang sống trong Hội thánh thánh thiện, có Chúa Giêsu là Đấng Thánh, có Đức Maria là Mẹ rất Thánh và có biết bao nhiêu Đấng Thánh Nam Nữ... Là những người con, là thành phần của Hội thánh, chúng ta hãy ngước nhìn lên Mẹ, các bậc tiền nhân thánh thiện, và quyết chí noi gương các Ngài, luyện tập nhân đức để nên thánh, luôn cầu xin Chúa giúp ta sống thánh thiện : “Ông này bà kia đã nên thánh, tại sao tôi không ?”
3. Đặc tính công giáo.
Trong đêm mừng Chúa Giáng sinh, Boca, một chú bé da đen theo các bạn đến thăm Chúa Hài Đồng trong máng cỏ. Sau buổi cầu nguyện, các bạn lần lượt ra về, riêng Boca vẫn còn nán lại, em ngây ngất ngắm nhìn Chúa Hài Đồng. Em muốn nhìn xem Chúa Hài Đồng có màu da gì ? màu trắng - không tin ở mắt mình, em cúi sát hơn, rồi đưa tay sờ Hài Nhi. Hài nhi người da trắng rồi, không còn nghi ngờ gì nữa ! Chợt nhớ đến hoàn cảnh sống của mình, Boca thốt lên : “Tại sao Chúa không là người da đen cho chúng con bớt khổ. Tại sao Chúa không thể là người da đen như con nhỉ ! Không, Chúa phải là người da đen của con”. Cúi chào Chúa, Boca bước nhanh về nhà với một ý định táo bạo. Một lát sau, Boca trở lại. Sau khi quan sát trước sau không có ai, Boca rón rén bước vào Nhà thờ, tiến về phía máng cỏ. Boca thận trọng nhìn xung quanh một lần nữa : chỉ có một Boca với Chúa Hài Đồng. Một chút do dự, Boca tiến lại phía máng cỏ, cúi sát Chúa Hài Đồng, em đưa hai tay xoa mặt và tay của Chúa Hài Đồng... Ô lạ chưa, chỉ một thoáng Chúa Hài Đồng đã có da màu đen. Boca khuôn mặt rạng rỡ thích thú ngắm Chúa Hài Đồng. Boca kính cẩn hôn vào tay Chúa và vui sướng reo lên : “Ôi... Chúa Hài Đồng da đen. Chúa Hài Đồng da đen của con”. Đang miên man với dòng ý nghĩ đơn sơ, chợt một bàn tay khẽ đặt lên vai Boca, Boca giật thót mình quay lại, em lo lắng nhìn vị Linh mục đang đứng bên em : “Thưa Cha, con muốn...”. Vị Linh mục ân cần tiếp lời Boca : Con muốn Chúa Hài Đồng là người da đen như con phải không ? Boca càng hoảng hốt khi thấy vị Linh mục đã biết hết ý định và việc làm của mình. Thế nhưng, với thái độ hiền hòa, đầy cảm thông, vị Linh mục đã từ tốn giải thích cho Boca hiểu : “Chỉ có một Chúa là Chúa của tất cả mọi người, không phân biệt màu da tiếng nói...”. Giờ đây, Boca đã hiểu, em xin lỗi Cha về việc làm ngây ngô vừa qua và lau sạch Chúa Hài Đồng, rồi cung kính đặt vào máng cỏ. Vị Linh mục nhìn em trìu mến ! Văng vẳng đâu đây bài Thánh ca du dương hát mừng Con Chúa ra đời.
Các em thân mến,
Các em thấy đó, Chúa không chỉ là Chúa của người da trắng, cũng không chỉ là Chúa của người Châu Âu... nhưng Người là Chúa của tất cả mọi người. Cũng thế, Hội thánh - Thân thể và Hiền thê của Chúa Kitô - cũng phải hiện diện trong và với mọi dân tộc, mọi quốc gia. Điều đó, được chính Chúa phán dạy chúng ta qua Lời Chúa sau đây. Mời các em đứng lên nghe .
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 10,14-16)
“Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a) Công giáo, đặc tính thứ ba của Hội thánh :
Công giáo là gì ? Xét về từ ngữ : Công là chung ; Giáo là đạo. Vậy Công giáo tức là Đạo chung cho mọi người. Từ ngữ “Công giáo” đã được thánh Ignatiô (khoảng năm 110) sử dụng lần đầu tiên trong thư gửi cho Giáo đoàn Smyrna để chỉ Hội thánh Chúa Kitô. Kinh Tin Kính các thánh tông đồ nói đến : “Hội thánh hằng có ở khắp thế này”. Đây là một “điểm” được dạy trong sách Tin mừng như dụ ngôn : Hạt cải (x. Mt 13,31-32), men trong bột (x. Mt 13,33), lưới cá (x. Mt 13,
47-50) dụ ngôn người Samaritanô (x. Lc 10,29-37). Và Lời Chúa truyền : “Hãy đi khắp thế gian loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ sinh” (Mt 28,19).
Đạo Công giáo có tính cách phổ quát, tức là mở rộng cho mọi người, mọi dân tộc, mọi thời đại.
b) Những lý do làm nên tính “Công giáo” của Hội thánh :
Có 2 lý do chính yếu làm nên tính “Công giáo” của Hội thánh:
- Đời sống Đức tin và Bí tích : nguồn ơn cứu rỗi :
Hội thánh được thiết lập cho mọi người không phân biệt giai cấp, chủng tộc. Hội thánh mang trong mình chính sức sống mãnh liệt của Chúa Giêsu là đầu Hội thánh, sự sống này chính là Đức tin chân chính và đời sống Bí tích mà Chúa Giêsu ban cho Hội thánh. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã không xin Hội thánh điều gì khác ngoài đức tin. Vì đức tin mang lại cho ta sự sống đời đời. Nhờ Đức tin, chúng ta mới biết tham dự sống động vào đời sống Bí tích mà Chúa Giêsu đã lập và trao cho Hội thánh cử hành. Đây là một phương thế rất kỳ diệu để thánh hóa, phát sinh, làm tăng trưởng sự sống thiêng liêng của chúng ta. Đó là những phương tiện Chúa thành lập để ban ơn cứu rỗi cho mọi người.
- Rao giảng Tin mừng là sứ mệnh “Phổ quát” của Hội thánh :
Phát xuất từ lệnh truyền của Chúa Giêsu : “Hãy đi loan báo Tin mừng khắp thế gian” (Mt 28,19), và đáp lại hoài vọng của Chúa Giêsu: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Hội thánh được sai đến với mọi dân tộc để qui tụ toàn nhân loại dưới quyền lãnh đạo duy nhất là Chúa Kitô. Ngay lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã biểu lộ ý định này trong những lần gặp gỡ dân ngoại : như khi gặp người đàn bà bên bờ giếng Giacóp, Chúa cho bà nhận ra Chúa là Đấng Cứu độ và bảo bà hãy đi vào thành loan báo cho mọi người khác (x. Ga 4,7-42). Hoặc khi Chúa Giêsu dạy về Đức ái, Chúa đề cao một người dân ngoại : người Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10,29).
Chính vì sứ mệnh “phổ quát” tức là tính “Công giáo” của mình, Hội thánh phải loan báo Tin mừng Chúa Kitô cho mọi dân tộc. Vì truyền giáo là sứ mệnh hàng đầu của Hội thánh : “Hội thánh lữ hành, tự bản chất là truyền giáo” (Sl TG 2).
c) Hội thánh của mọi dân tộc (sứ mệnh Công giáo) :
Chính vì muốn Tin mừng phải đến với mọi dân tộc, mọi nền văn hóa, mọi tầng lớp xã hội, mà sau Công đồng Vaticanô II, Hội thánh đã thích nghi rất nhiều với truyền thống văn hóa các dân tộc. Hội thánh làm thế vì Hội thánh là của mọi dân tộc. Hội thánh cần làm thế để các dân tộc đều cảm thấy Hội thánh là nhà của mình, và do đó nói lên được tính “Công giáo” của Hội thánh.
Sứ mệnh của người Kitô hữu là phải đưa Hội thánh vào mọi quốc gia, mọi nền văn hóa, để thực hiện hữu hiệu đặc tính Công giáo như một mầm sống. Phải diễn tả các khía cạnh của đặc tính Công giáo, một thực tại của Hội thánh ngay trong cuộc sống này. Phải làm thế nào để Hội thánh Công giáo không phải là một cộng đoàn khép kín nhưng mở rộng, đi tới và đón nhận, thâu nạp tất cả mọi người không phân biệt. Hội thánh là niềm hiệp nhất, hy vọng và cứu độ cho tất cả nhân loại.
4. Đặc tính tông truyền.
Trong đời Đức Giáo Hoàng Piô X (1911) có 4 thành viên của Cộng đồng Thiên Chúa giáo : một người công giáo, một người Tin lành, một người Chính thống và một người lạc giáo Ariô, đã đến nhờ một người Hồi giáo làm trọng tài phân xử xem Hội thánh nào là thật. Để quyết định xem Hội thánh nào do Chúa Kitô thành lập, người Hồi giáo trước tiên hỏi một câu này : “Các Ngài có tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa và thành lập Hội thánh không ?” Họ trả lời : “Có”. Sau đó lần lượt người Hồi giáo hỏi hai câu : “Hội thánh của ông được thành lập bao nhiêu lâu rồi ? và ai là Tổ tiên Tôn giáo của ông ?” Người Tin lành trả lời : “Đã gần 400 năm, tổ tiên là người Công giáo”.
Người Chính thống giáo nói : “Gần 900 năm, tổ tiên là người Công giáo”.
Người lạc giáo Ariô nói : “Từ 1600 năm, tổ tiên là người Công giáo”.
Người Công giáo trả lời sau cùng : “Từ hơn 1900 năm, tức là thời các tông đồ, bằng chứng là sự kế vị liên tục của các vị Giáo Hoàng từ thánh Phêrô đến Piô X.
Nghe thế, đồ đệ của Mahomet kết luận : Nếu Chúa Giêsu chỉ thành lập có một Hội thánh duy nhất và cách đây hơn 1900 năm, thì chỉ có Hội thánh của người Công giáo là Hội thánh thật.
Câu chuyện biến ngôn này giúp ta suy nghĩ điều mà Thánh Phaolô đã phát biểu. Mời các em lắng nghe - mời đứng :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêsô (Ep 2,19-22).
Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các tông đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a) Lý do làm nên tính “Tông truyền” của Hội thánh : Chúa Giêsu thiết lập Hội thánh trên nền tảng các tông đồ.
Thánh Phaolô nói cho chúng ta biết : chúng ta thuộc về gia đình Thiên Chúa, tức là Hội thánh, được xây dựng trên nền móng vững chắc là các tông đồ, và các tiên tri mà viên đá tảng chính là Chúa Giêsu, đầu Hội thánh.
Các tông đồ là những người được Chúa Giêsu kêu gọi, tuyển chọn ngay trong những ngày đầu rao giảng Tin mừng (x. Mc 1,16-20) cho chung sống với Người, nghe Người giảng dạy, chứng kiến các phép lạ Người làm : điều quan trọng nhất là được chứng kiến cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người, được Người sai đi thiết lập Hội thánh (x. Mt 28,16).
b) Các Tông đồ truyền lại :
Trách nhiệm riêng mà Chúa Giêsu trao cho Phêrô, đã được trao lại cho các Đấng kế vị Phêrô, trách nhiệm ấy phải được tồn tại mãi đến tận thế. Cũng vậy, trách nhiệm chăn dắt Hội thánh của các tông đồ được tiếp nối do chính những người mà các tông đồ đặt tay tuyển chọn (x. Cv 6,6 ; 1 Tm 4,14).
Từ đó ta dễ hiểu tại sao Hội thánh là Tông truyền, tức là do các tông đồ truyền lại, là nối liền với các tông đồ và bắt nguồn từ nơi các tông đồ trên phương diện thừa kế liên tục cũng như trên phương diện Giáo lý nguyên vẹn. Là Tông truyền vì : Hội thánh nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ kho tàng Đức tin nguyên vẹn và lời giảng dạy lành thánh từ thời các tông đồ. Chữ “tông truyền” còn nói lên ý nghĩa trung thành với các tông đồ.
c) Tính Tông truyền được thể hiện qua phẩm trật :
Nhìn vào Hội thánh Công giáo, ta thấy đúng thực là Hội thánh Tông truyền, vì nếu quan sát sự thừa kế liên tục từ Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, đến Đức Gioan Phaolô II hiện nay (l997), là một chuỗi nối tiếp không gián đoạn. Đức Giáo Hoàng (cũng gọi là Đức Thánh Cha) là chủ chăn có quyền tối cao trong toàn thể Hội thánh.
Cùng hiệp thông và đồng trách nhiệm với Đức Giáo Hoàng, có các Giám mục, là những người kế vị các tông đồ, với sự trợ giúp của các Linh mục, Phó tế phục vụ dân Chúa bằng quyền giảng dạy, thánh hóa và cai trị, để Hội thánh muôn đời vẫn là Hội thánh Duy nhất, Thánh Thiện, Công giáo và Tông truyền. Toàn thể các Đức Giám mục liên kết với Đức Giáo Hoàng và với nhau làm thành Giám mục đoàn (x. Hc.HT 22). Giám mục đoàn có quyền đầy đủ và tối cao trên Hội thánh khi hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Cộng đoàn tính của Hội thánh được biểu lộ rõ nét trong các Công đồng chung, Thượng Hội Đồng Giám mục, Hội Đồng Giám mục Quốc gia...
Giáo phận là Hội thánh địa phương do Đức Giám mục coi sóc. Trong mỗi Giáo phận lại có những Linh mục, Phó tế cộng tác với Đức Giám mục coi sóc dân Chúa tại các Giáo xứ và các sinh hoạt khác trong Giáo phận. Đức Giám mục có quyền hành trên Giáo phận mình (x. Hc.HT 23).
Để tỏ lòng yêu mến Hội thánh, chúng ta hãy luôn vâng nghe lời Hội thánh giảng dạy, vì nghe Hội thánh là nghe chính Chúa Giêsu.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thiết lập Hội thánh trên nền tảng các tông đồ và trao cho Hội thánh sứ mệnh đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng. Xin cho con biết hiệp nhất với mọi người trong Hội thánh bằng đời sống thánh thiện để giới thiệu Hội thánh cho thế giới ngày nay.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
49. H. Hội thánh Công giáo có những đặc tính nào ? (GLCG. 119)
T. Hội thánh Công giáo có bốn đặc tính này là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.
50. H. Vì sao ta tuyên xưng Hội thánh là duy nhất ? (GLCG. 120)
T. Vì Chúa Ki-tô chỉ thiết lập một Hội thánh và Hội thánh chỉ có một Chúa, chỉ tuyên xưng một Đức tin, sinh ra từ một Phép Rửa, làm thành một thân thể, được sống nhờ một Thần Khí và hướng về một niềm hy vọng.
51. H. Vì sao ta tuyên xưng Hội thánh là thánh thiện ? (GLCG. 122)
T. Hội thánh là thánh thiện vì :
- Một là bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh.
- Hai là được Chúa Ki-tô thánh hoá bằng Lời Chúa và các Bí tích.
- Ba là được Chúa Thánh Thần làm cho sống động và phát sinh nhiều hoa trái thánh thiện.
52. H. Vì sao ta tuyên xưng Hội thánh là Công giáo ? (GLCG. 124)
T. Hội thánh là Công giáo vì :
- Một là toàn bộ chân lý đức tin đã được ủy thác cho Hội thánh gìn giữ và loan truyền.
- Hai là nhờ sự hiện diện của Chúa Ki-tô, Hội thánh mang trong mình đầy đủ các phương tiện cứu độ.
- Ba là Hội thánh được sai đến với mọi dân tộc thuộc mọi thời đại.
53. H. Vì sao ta tuyên xưng Hội thánh là Tông truyền ? (GLCG. 127)
T. Hội thánh là Tông truyền vì :
- Một là Hội thánh được xây trên nền tảng các Tông đồ.
- Hai là Hội thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn của các Tông đồ.
- Ba là Hội thánh vẫn tiếp tục được giáo huấn, thánh hóa và hướng dẫn bởi các Tông đồ, nhờ các Đấng kế vị là các Giám mục, cho đến ngày Chúa Ki-tô lại đến.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát hoặc sinh hoạt Giáo lý cấp II.
2. Thực hành :
Em luôn sống thánh giây phút hiện tại để thể hiện bốn đặc tính của Hội thánh.
3. Bài làm ở nhà :
Viết tên 12 vị tông đồ của Chúa Giêsu.
V. KẾT THÚC.
Các em mến, các em đã được ở trong một Hội thánh có 4 đặc tính trổi vượt là : duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Vậy các em cùng nhau luôn nhớ cầu xin cho Hội thánh được hợp nhất, hãy cố gắng nên thánh mỗi ngày, và hãy nhiệt tình giúp mọi người được biết và gia nhập Hội thánh Chúa. Giờ đây, các em hãy sốt sắng đọc kinh Sáng Danh để tạ ơn Chúa về giờ học vừa qua, và xin Người giúp các em thực hiện các điều vừa quyết tâm.
Sáng danh...
Lời Chúa : “Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,17).
Ý chính : 1. Hàng giáo phẩm (Ga 21,17).
2. Đời thánh hiến (Mc 10,21).
3. Giáo dân và sứ mệnh (Ga 10,1-21)
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 871-945
Tâm tình : Ước ao được sống hạnh phúc trong gia đình Hội thánh.
Chuẩn bị : Hình Đức Giáo Hoàng, tranh Mục tử nhân lành.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như các bài trước).
2. Thánh hóa :
Các em thân mến, Hội thánh là một cộng đoàn có tổ chức, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết nhìn vai trò và vị trí của mình cùng năngnổ thi hành nhiệm vụ xây dựng Hội thánh như lòng Chúa mong muốn.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong hai bài trước, chúng ta đã học biết Hội thánh trong chương trình cứu độ và các đặc tính của Hội thánh. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm biết về tổ chức của Hội thánh.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Vào thế kỷ 10 trước Công nguyên (CN), Salômon đã khôn ngoan tổ chức mọi việc trong đất nước Giuđa rất tốt đẹp đến nỗi tất cả các vua đều tìm cách giáp mặt Salômon. Trong số này có Nữ hoàng Saba, bà đến tận Giêrusalem tham quan tại chỗ, về nhà cửa ông đã xây dựng, thịnh soạn nơi bàn ông ăn, chỗ ở của triều thần, hàng ngũ quân hầu và y phục của họ... Bà đã mất hơi, cấm khẩu. Bà phải thốt lên : “Người ta đã không thuật lại được một nửa về sự khôn ngoan lớn lao của Ngài. Ngài trổi vượt xa lời đồn thổi tôi đã nghe” (x. 2 Ks 9,1-12).
Nước Giuđa thời Salômon được tổ chức tốt đẹp như thế, còn Hội thánh của Chúa Kitô được tổ chức thế nào ? Chúng ta lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Hội thánh, đặt nền tảng cho việc tổ chức của Hội thánh, - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 21,17)
“Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự : Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Hàng giáo phẩm.
Sau một đêm các Tông đồ vất vả chài lưới mà không được gì, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến và hỗ trợ các ông một mẻ cá lạ, có lẽ chưa bao giờ được nhiều như thế. Chúa Giêsu lại còn chiêu đãi các ông một bữa tiệc thân tình cá nướng và bánh ngon. Ăn xong, Chúa trực diện với Phêrô và hỏi ông ba lần cùng một câu : “Anh có mến Thầy không ?” Phêrô đều trả lời cùng một ý : “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” và Chúa Giêsu cũng 3 lần trao cho Phêrô nhiệm vụ đứng đầu Hội thánh : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.” Trước đó, khi Phêrô tuyên xưng Chúa Kitô là Con Thiên Chúa thì Chúa Giêsu còn nói rõ ý định của Người hơn ! “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy... Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời : dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
Nói những lời này, rõ rệt Chúa Giêsu đã thiết lập một phẩm trật cho các tông đồ, và tiếp tục củng cố nên một phẩm trật như ngày nay.
a) Giám mục đoàn :
Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tổ chức các tông đồ này theo cách thức một cộng đoàn, đặt Phêrô làm thủ lãnh. Cũng như cộng đoàn các tông đồ, Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô, và các Giám mục kế vị các tông đồ, cũng làm thành một cộng đoàn duy nhất (x. Hc HT số 19-22) :
- Đức Giáo Hoàng là Đấng Kế vị Thánh Phê-rô, làm Giám mục Rô-ma, là Thủ lãnh Giám mục đoàn, đại diện Chúa Ki-tô và Chủ chăn của Hội thánh toàn cầu.
- Các Giám mục là những Đấng kế vị các Tông đồ, để qui tụ, cai quản Hội thánh địa phương và cùng với Đức Giáo Hoàng phục vụ Hội thánh toàn cầu.
b) Hàng giáo sĩ :
Các Giám mục trao trách nhiệm của tác vụ mình, qua Bí tích Truyền chức thánh, cho nhiều phần tử trong Hội thánh theo từng cấp bậc. Đó là các Giám mục, Linh mục và Phó tế :
- Các Linh mục là những người tham dự vào chức Tư tế thừa tác của Giám Mục và chia sẻ sứ mệnh với Người.
- Các Phó tế là những Thừa tác viên được truyền chức thánh để lo các công tác phục vụ trong Hội thánh.
2. Đời thánh hiến.
Hôm đó, một thanh niên giàu có nhưng hào hiệp đến thưa cùng Chúa Giêsu : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” Chúa Giêsu nhắc lại các giới răn chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Tỏ ra mình là người tốt, anh liền thưa : “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta với lòng trìu mến. Người bảo anh : “Anh chỉ còn thiếu một điều” : đố các em biết điều gì ? mời các em nghe chính Chúa Giêsu đưa ra yêu cầu để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (mời đứng).
- Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 10,21)
“Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thấy anh cẩn trọng tuân giữ mọi giới răn từ nhỏ, Chúa nhìn anh với lòng kính phục và yêu mến. Chúa muốn mời gọi anh tiến xa hơn nữa : bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo. Nghe đến đây. anh sụ mặt xuống và bỏ đi ! Điều mà anh thanh niên này không làm được thì các tu sĩ đã làm : không những từ bỏ của cải, sống khó nghèo mà còn tự nguyện sống khiết tịnh, không lập gia đình, và sống tuân phục. Khó nghèo - khiết tịnh và tuân phục là những lời khuyên Phúc Âm đã được một số người tự nguyện khấn hứa chấp nhận để theo Chúa trong một bậc sống cố định được Hội thánh chấp nhận (x. HcHT 43). Các ngài là những tu sĩ sống đời thánh hiến, một cuộc sống giống như một cây sinh nhiều chi nhánh xum xuê, đã phát sinh nhiều lối sống khác nhau như : đời sống ẩn tu - các trinh nữ - đời sống dòng tu - các tu hội đời - các tu đoàn tông đồ v.v... mà chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu ở giáo lý cấp III.
3. Giáo dân và sứ mệnh :
(Ga 10,1-21 : GLV treo tranh Mục tử nhân lành, nếu có, và quảng diễn :)
Tin mừng theo thánh Gioan chương 10 vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về một đàn chiên đông đảo do một mục tử nhân lành tận tình chăm sóc : những chiên rải rác được tìm kiếm dẫn về đàn, những chiên ốm đau được chăm sóc chu đáo, những chiên ghẻ lở được chữa trị... tất cả đàn chiên đều được dẫn đến đồng cỏ xanh rờn để ăn no thỏa, được dẫn đến suối trong lành để uống thỏa thuê... Bức tranh này (treo tranh, nếu có, và hướng dẫn tiếp) không những nói về Chúa Giêsu Kitô mục tử nhân lành mà còn muốn cho thấy một cộng đoàn đông đảo. Đó là cộng đoàn giáo dân trong Hội thánh của Chúa Kitô. Họ không thuộc thành phần có chức thánh hoặc tu sĩ. Nhờ Bí tích Rửa tội và Thêm sức, người giáo dân được tháp nhập vào Chúa Kitô, trở thành những cành nho trong một thân nho duy nhất, họ được tham dự vào chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình. Người giáo dân “sống giữa trần gian nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế. Giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình, nơi xã hội, tất cả như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa mời gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men trong bột, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình” (Hc.HT 31).
Sứ mệnh riêng của người giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và làm việc tông đồ giữa trần gian trong những công việc thế tục (GLV có thể củng cố bằng nhiều thí dụ về những công việc của đời thường).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thiết lập Hội thánh thành một cộng đoàn gồm nhiều thành phần khác nhau. Xin cho từng người ý thức mình là thành phần của Hội thánh để nỗ lực sống đạo và cộng tác với nhau xây dựng Nước Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”
(Ga 21,17).
54. H. Hội thánh Công giáo có những thành phần nào ? # (GLCG. 130)
T. Hội thánh Công giáo gồm có Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân.
55. H. Đức Giáo Hoàng là ai ? (GLCG. 132)
T. Đức Giáo Hoàng là Đấng Kế vị Thánh Phê-rô, làm Giám mục Rô-ma, là Thủ lãnh Giám mục đoàn, đại diện Chúa Ki-tô và Chủ chăn của Hội thánh toàn cầu.
56. H. Các Giám mục là ai ? (GLCG. 133)
T. Các Giám mục là những Đấng kế vị các Tông đồ, để qui tụ, cai quản Hội thánh địa phương và cùng với Đức Giáo Hoàng phục vụ Hội thánh toàn cầu.
57. H. Các Linh mục là ai ? (GLCG. 134)
T. Các Linh mục là những người tham dự vào chức Tư tế thừa tác của Giám Mục và chia sẻ sứ mệnh với Người.
58. H. Các Phó tế là ai ? (GLCG. 135)
T. Các Phó tế là những Thừa tác viên được truyền chức thánh để lo các công tác phục vụ trong Hội thánh.
59. H. Các Tu sĩ là ai ? # (GLCG. 136)
T. Là những Ki-tô hữu muốn bước theo Chúa Giê-su cách triệt để, nên tự nguyện khấn khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, theo những hình thức đã được Hội thánh phê chuẩn.
60. H. Giáo dân là ai ? # (GLCG. 138)
T. Giáo dân là các tín hữu không có chức thánh và không ở trong bậc tu trì. Nhờ phép Rửa tội họ được dự phần theo cách của họ vào chức Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Ki-tô.
61. H. Sứ mệnh riêng của người giáo dân là gì ? (GLCG. 139)
T. Sứ mệnh riêng của người giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và làm việc tông đồ giữa trần gian trong những công việc thế tục.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : câu chuyện dẫn đến thực hành :
Bé Tâm năm nay lên 10 tuổi học lớp năm, ngày nào cũng đến lớp sớm, em lau chùi bảng viết, bàn ghế thầy cô, và lượm rác trong lớp. Có những con mắt nghi kỵ “Con Tâm thích lấy điểm”. Tâm chỉ mỉm cười hoặc đáp lại “Không dám đâu”. Trong giờ học, Tâm nghiêm trang theo dõi lời thầy giảng. Khi kiểm tra bài, Tâm luôn đạt điểm cao. Lúc ra chơi, Tâm thường tìm đến các bạn nghịch phá để động viên sửa đổi, an ủi các bạn bị điểm kém... Những công việc nhỏ bé và tầm thường của Tâm đã dần dần làm cho lớp tốt hơn, yêu thương nhau hơn, và đạt thành tích xuất sắc tập thể. Tâm đã làm cho Hội thánh có mặt tại lớp học của Tâm.
Noi gương Tâm, Em làm cho Hội thánh có mặt ở mọi nơi bằng đời sống ngoan hiền của em.
3. Bài làm ở nhà :
GLV Hướng dẫn các em vẽ sơ đồ cơ cấu tổ chức của Hội thánh.
V. KẾT THÚC.
(GLV nêu bật diễm phúc được sống trong Hội thánh có phẩm trật, tổ chức qui củ để dễ dàng sống thánh. Nhắc nhở cầu nguyện và tạ ơn).
- Sáng danh... - (Chào nhau...)
Bài 14
HIỆP THÔNG GIỮA CÁC THÁNH
Lời Chúa : “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ” (Ep 4,15-16).
Ý chính : 1. Mầu nhiệm hiệp thông (Ep 4,15-16).
2. Các tín hữu sống trên trần gian (Cv 2,42-47)
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 946-962
Tâm tình : Vui sướng và tin tưởng vì được sống trong sự hiệp thông của gia đình Thiên Chúa.
Chuẩn bị : Tranh cộng đoàn giáo xứ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như các bài trước)
2. Thánh hóa :
Lạy Thánh Thần tình yêu, Chúa là dây liên kết mọi tín hữu, là sự hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa, xin hãy đến, và mở rộng tâm hồn chúng con đón nhận sự hướng dẫn của Chúa trong giờ giáo lý này (thinh lặng giây lát và cho các em hát kinh Chúa Thánh Thần).
3. Giới thiệu bài mới :
Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu rao giảng, thiết lập không chỉ gồm những người đang sống trên trần gian mà còn bao gồm cả các thánh trên thiên đàng và các linh hồn nơi luyện ngục. Ba thành phần này có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là mầu nhiệm Hiệp thông giữa các thánh mà hôm nay chúng ta học hiểu.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Mấy ngày nay bé Ty buồn hẳn, không còn hồn nhiên vui tươi và yêu đời như trước. Mỗi khi bước chân về nhà, Ty lại càng thiểu não hơn, không nói không cười, ai hỏi gì chỉ trả lời ngắn cụt. Có lúcmẹ kêu, Ty cũng không thèm thưa. Mẹ Ty tìm lúc vắng người gặp riêng Ty hỏi chuyện. Ty cũng chỉ trả lời cụt ngủn : cái thằng Ty này ấy mà, mặc xác nó ! Mẹ ôm lấy Ty âu yếm hỏi : sao vậy con, có chuyện gì làm con buồn và thay đổi hẳn vậy ? Ty hằn học : “Tôi đâu có phải là con của bà !”
- Tại sao con lại nói thế. Mẹ đã sinh và nuôi con đến nay !
- Tại sao thằng Bình nói con là con nuôi ! ?
Thuyết phục mãi không xong, bà phải kêu em Bình ở nhà bên qua hỏi chuyện. Bình bảo : “Tại Ty chọc quê cháu nên cháu tức mình chọc nó là con nuôi !” Ty quay lại hỏi Mẹ : vậy con là con ruột của ba má hả ?
- Chứ sao !
Ty lao người vào mẹ, ôm chầm cổ mẹ sung sướng !
Các em thân mến, chúng ta còn sung sướng hơn Ty vì tất cả chúng ta có Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau. Thánh Phaolô diễn tả tình hiệp thông này một cách sâu sắc trong đoạn Lời Chúa sau đây (mời đứng) :
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêsô (Ep 4,15-16).
“Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Mầu nhiệm hiệp thông.
Đoạn Lời Chúa trên đây và nhiều câu Lời Chúa khác cho chúng ta khám phá ra rằng :
- Trước tiên, Thánh Phaolô đã triển khai tình hiệp thông trong Hội thánh bằng hình ảnh Thân thể (x. Ep 4,16 ; 1 Cr 10,17 ; 12,12-21; Rm 12,4-5 ; v.v...) mà Chúa Kitô là nguyên lý Hiệp thông : Chúa Kitô là Đầu. “Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ” (Ep 4,16).
- Nhờ Chúa Kitô, tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh Thánh Thần, đều họp thành một Hội thánh duy nhất và liên kết với nhau. Sự thánh thiện của Đầu được thông ban cho các chi thể : sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong bình an của Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Như vậy trong cùng Hội thánh duy nhất, các thành phần đều có liên hệ mật thiết với nhau, gọi là mầu nhiệm Hiệp thông (cũng quen gọi là mầu nhiệm các Thánh cùng thông công). Các thành phần đó là :
+ Các tín hữu đang sống trên trần thế.
+ Các thánh trên thiên đàng.
+ Các linh hồn đang chịu thanh luyện.
2. Sự hiệp thông giữa các thành phần trong Hội thánh.
a) Các tín hữu sống trên trần gian hiệp thông với nhau.
Cộng đoàn tín hữu tại Giêrusalem thời các tông đồ đã thể hiện rõ nét tình hiệp thông. Mời các em đứng lắng nghe Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Công vụ tông đồ (Cv 2,42-47)
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Các em dựa vào câu Lời Chúa trên để khám phá ra tính hiệp thông giữa các tín hữu trên trần gian (GLV phấn khích các em khám phá và nếu có bảng, nên ghi nhận những phát biểu đúng của các em theo thứ tự sau :)
- Hiệp thông trong đức tin : “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy” (Cv 2,42).
- Hiệp thông trong đức ái : “để mọi sự làm của chung... lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45) đến nỗi không ai thiếu thốn gì... Sự thánh thiện hay tội lỗi của một người đều ảnh hưởng đến cả cộng đoàn như ca dao Việt Nam : “Con sâu làm rầu nồi canh”.
- Hiệp thông ơn sủng : nhờ các Bí tích và cầu nguyện, đặc biệt Bí tích Thánh Thể : “tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42).
- Hiệp thông các ơn huệ Thánh Thần để xây dựng ích chung (x. 1 Cr 12,7).
Tóm lại, các tín hữu còn ở trần gian hiệp thông với nhau trong đức tin, đức ái, kinh nguyện, các Bí tích và các đoàn sủng ; đồng thời cũng chia sẻ cả của cải vật chất với nhau trong tinh thần liên đới và tương trợ.
b) Hiệp thông với các thánh trên trời. (x. Hc.HT số 49) :
Nhờ được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô hơn, các Thánh ở trên trời củng cố toàn thể Hội thánh vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng của Hội thánh tại thế được cao cả hơn:
- Được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa, các Thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta. Với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều để với ơn Chúa, chúng ta có thể vượt thắng cơn cám dỗ, những thử thách mà trung thành với đức tin.
- Hơn nữa, sự hiệp thông với các Thánh mời gọi ta noi gương, bắt chước đời sống mẫu mực của các ngài. Khi ngắm nhìn đời sống của những người đã trung thành bước theo Chúa Kitô, chúng ta khám phá ra một lý do mới thúc đẩy chúng ta cố gắng sống thánh : “Ông này bà kia đã nên thánh, tại sao tôi không ?” (thánh Augustinô) ; đồng thời chúng ta cũng biết con đường chắc chắn nhất giúp chúng ta đạt tới sự thánh thiện là kết hợp hoàn toàn với Chúa Kitô.
Tóm lại, chúng ta noi gương đời sống thánh thiện của các Thánh và xin các ngài phù giúp ; còn các Thánh thì chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta.
c) Hiệp thông với các linh hồn trong luyện ngục.
Sách Mac-ca-bê-ô đã kể một câu chuyện hùng hồn về tình hiệp thông giữa người còn sống trên dương thế và các người đã chết : Hồi đó, trong trận chiến đấu với đạo quân I-du-mê-a do tướng Gorgias chỉ huy, đã có nhiều người Do thái chết. Khi đi lượm xác để chôn cất, người ta thấy dưới áo lót của những người chết có đồ cúng cho tượng thần Xam-ni-a. Mọi người liền cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội phạm đó. Vị anh hùng Giu-đa tổ chức lạc quyên gửi về Giêrusalem lối 2000 quan tiền để dâng lễ đền tội (x. 2 Mcb 12,38-45).
Việc làm này của cộng đoàn Do thái và của ông Giu-đa được đánh giá cao, biểu lộ không những niềm tin vào sự sống lại mà còn đề cao tình hiệp thông giữa người sống với những người đã chết, vì “cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh “ (2 Mac 12,46). Tình hiệp thông này được biểu lộ bằng những hy sinh, những việc lành, nhất là bằng việc dâng thánh lễ cầu nguyện. Hội thánh luôn nhắc nhở chúng ta về bổn phận này và đã tạo nhiều cơ hội để ta nhớ đến các linh hồn đang được thanh luyện như dịp an táng, giỗ, lễ các Đẳng, và tháng các Đẳng, vì thời gian lập công của các ngài đã chấm dứt, giờ đây các ngài trông chờ lời cầu nguyện, hy sinh của chúng ta. Những việc cầu nguyện này không những giúp đỡ người đã chết được giải thoát khỏi sự thanh luyện, nhưng chính chúng ta cũng được hưởng nhờ lời chuyển cầu của các ngài.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, nhờ cái chết sinh ơn cứu độ của Con Một Chúa, chúng con được hiệp thông với nhau giữa những kẻ tin Chúa. Xin cho chúng con hiệp thông với các thánh trên trời để ca tụng Chúa, xin giúp chúng con biết dâng mọi việc lành phúc đức cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội, và xin nhắc nhở chúng con cầu nguyện cho nhau hằng ngày.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ” (Ep 4,15-16).
62. H. Trong Hội thánh, các tín hữu có hiệp thông với nhau không ?
(GLCG. 160)
T. Có, vì tất cả các tín hữu hợp thành một Thân thể duy nhất mà Chúa Ki-tô là Đầu. Sự thánh thiện của Đầu được thông ban cho các chi thể và sự tốt lành của người này ảnh hưởng đến người kia.
63. H. Các tín hữu hiệp thông với nhau thế nào ? (GLCG. 161)
T. Các tín hữu còn sống trên trần gian, các linh hồn trong luyện ngục và các thánh trên trời chia sẻ cho nhau những ơn ích thiêng liêng.
64. H. Các tín hữu còn ở trần gian hiệp thông với nhau thế nào ?
(GLCG. 162)
T. Họ cùng hiệp thông trong đức tin, đức ái, kinh nguyện, các Bí tích và các đoàn sủng ; đồng thời cũng chia sẻ cả của cải vật chất với nhau trong tinh thần liên đới và tương trợ.
65. H. Chúng ta hiệp thông với các Thánh trên trời thế nào ? (GLCG. 163)
T. Chúng ta noi gương đời sống thánh thiện của các Thánh và xin các ngài phù giúp ; còn các Thánh thì chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta.
66. H. Chúng ta hiệp thông với các linh hồn trong luyện ngục thế nào ?
(GLCG. 164)
T. Chúng ta dâng việc lành phúc đức cầu nguyện cho các linh hồn ấy sớm được giải thoát và chính chúng ta cũng được hưởng nhờ lời chuyển cầu của các ngài.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập sinh hoạt và hát giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Chị thánh trẻ Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất yêu mến các linh hồn đang chịu thanh luyện bằng cách dâng nhiều hy sinh cầu nguyện cho các linh hồn ấy. Lần kia ngồi bên một chị bạn giặt đồ, chị bạn vô tình vò quần áo làm bắn bọt xà bông sang Têrêsa. Không tránh né, chị Têrêsa xích lại gần hơn, chấp nhận hy sinh để cầu cho các linh hồn.
Noi gương chị thánh trẻ Têrêsa, em vui chịu những hy sinh để cầu nguyện cho các linh hồn.
3. Bài làm ở nhà :
Tìm hiểu một vị thánh mà em yêu mến, và ghi lại vắn gọn trên tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
(như các bài trước).
Bài 15
ĐỨC MA-RI-A : MẸ CHÚA GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH
Lời Chúa : “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28).
Ý chính : 1. Những đặc ân của Mẹ Maria (Lc 1,26-31.38).
2. Vị trí của Mẹ Maria trong công trình cứu độ và trong Hội thánh (Lc 1,39-40.46-49).
3. Lòng tôn kính đối với Đức Mẹ (Lc 11,27-28).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 487-507, 963-975.
Tâm tình : Cảm tạ Thiên Chúa và vui mừng vì ta có người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria.
Chuẩn bị : Tranh ảnh về Đức Mẹ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như các bài trước)
2. Thánh hóa :
Để thực hiện Ơn Cứu Độ, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và ban cho Mẹ những đặc ân cao cả, để Mẹ trở thành Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ Hội thánh. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta biết sống Lời Chúa theo gương Mẹ Maria.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong mầu nhiệm Hiệp thông, chúng ta thấy nổi bật một chi thể tuyệt vời của Hội thánh là Đức Trinh Nữ Maria. Hôm nay, chúng ta dành những giờ phút này để chiêm ngưỡng và yêu mến Mẹ.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Truyện xưa kể rằng Et-te, cháu của ông Mac-đô-kê, được chọn vào cung phi của As-xu-ê-rô, vua Ai cập. Nàng đã được ân cần chăm sóc chu đáo mọi mặt : luôn có 7 thể nữ theo hầu, được ở phòng tốt nhất, được chu cấp lương thực cao cấp, được trau chuốt dầu thơm, tẩm hương xạ và son phấn, y phục lộng lẫy... Nhờ vậy, khi vào chầu vua, Et-te đã được vua sủng ái, đội vương miện lên đầu và tôn làm hoàng hậu. Nhờ Et-te, dân Do thái đã thoát khỏi nạn diệt chủng do mưu đồ Aman ác độc gây nên (x. Et 2-8).
Để chọn một người làm hoàng hậu cho vua, người ta đã dầy công tuyển chọn và chuẩn bị chu đáo như thế. Nay chọn Đức Maria làm Mẹ Đấng Cứu thế, làm Nữ Vương thiên đàng, Thiên Chúa có dành cho Mẹ những đặc ân nào không ? Thánh Luca đã hé mở cho chúng ta thấy một số đặc ân của Mẹ, mời các em lắng nghe.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 1,26-31.38)
“Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su... Bấy giờ bà Ma-ri-a nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Những đặc ân của Mẹ.
Lời sứ thần kính chào Đức Maria để lộ một cái gì đặc biệt : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà”. Sứ thần không gọi tên của Mẹ mà lại chào là Đấng đầy ân sủng. “Đầy ân sủng” trở thành tên mới của Mẹ (x. TĐ Mẹ ĐCT 8), mà “tên” là chính người đó (x. b.10 cấp II, b.20 cấp I). Qua lời chào và là tên mới của Đức Maria, chúng ta khám phá ra những hồng ân to lớn, đặc biệt Thiên Chúa dành cho Mẹ, Người “được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (Lc 1,42). Chính Đức Maria cũng đã công nhận điều đó (x.Lc 1,48) :
a) Ơn vô nhiễm nguyên tội.(1)
Hơn bất cứ tạo vật nào khác, Mẹ Maria đã được Chúa Cha “chúc phúc bằng tất cả mọi thứ phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Chúa Kitô” (Ep 1,3). “Trong Chúa Kitô, từ trước khi tạo thành trời đất, Thiên Chúa đã kén chọn Mẹ để là người thánh thiện và vô nhiễm trước mặt Người” (x. Ep 1,4 và TĐ Mẹ ĐCT số 10). Mẹ Maria đã được Thiên Chúa đổ “đầy ân sủng” (Lc 1,28) thì đã được cứu chuộc từ khi được thụ thai trong lòng bà Anna, mẹ Người. Đó là điều được tuyên xưng bởi tín điều Vô nhiễm nguyên tội do Đức Piô X tuyên bố năm 1854 : “Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria đã được đề phòng không bị một chút dơ nhớp nào của tội nguyên tổ” (Dz 2803).
b) Ơn làm Mẹ Thiên Chúa :
Sau lời chào “Đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28), Sứ thần loan báo mầu nhiệm cứu chuộc và mời gọi Mẹ cộng tác : “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng tối cao...” (c.31). Một chút nghi vấn nhưng được trấn an ngay : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là Thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với lòng đầy tín thác, Mẹ đã thưa “xin vâng”. Người Con mà Mẹ sinh ra là “Đấng Thánh”, là “Con Thiên Chúa”. “Đấng Thánh” là Thiên Chúa (x. Hs 11,9), “Con Thiên Chúa” cũng là Thiên Chúa (x. Pl 2,6 ; x. b.4 GL cấp II). Như vậy Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Công Đồng Êphêsô năm 431 đã tuyên bố tín điều này (x. Dz 251).
c) Ơn Đồng trinh trọn đời :
Lời chào của sứ thần và tên mới của Mẹ “đầy ân sủng” còn nói lên hồng ân đặc biệt của Mẹ trong việc sinh con : “Thánh Thần sẽ ngự trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”
(Lc 1,35). Thiên thần cũng đã khẳng định với ông Giuse : “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Sự việc này còn là một ứng nghiệm, một thực hiện lời Thiên Chúa đã hứa xưa “Này đây một Trinh nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh hạ một con trai”
(Is 7,11). Mẹ Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nghĩa là Mẹ đồng trinh. Công đồng Vat. II năm 1962-1965 đã tuyên xưng : “Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa con đầu lòng của mình, mà khi sinh ra đời không làm giảm bớt nhưng còn thánh hiến sự tinh khiết toàn vẹn của Người” (Hc.HT 57).
Hơn nữa, Chúa Giêsu là con duy nhất của Mẹ Maria, Mẹ không sinh một người con nào khác nữa nên phụng vụ tôn xưng Mẹ Maria là “Đấng trọn đời đồng trinh” (Hc.HT 52).
d) Ơn hồn xác lên trời :
Lời chào của sứ thần và tên mới của Mẹ “đầy ân sủng” còn giúp chúng ta khám phá một hồng ân to lớn khác của Mẹ : ơn được đưa về trời cả hồn và xác. Với những ân sủng vô cùng to lớn như thế mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, Mẹ đã trở thành “Mẹ kẻ sống” (thánh Epiphaniô x. HcHT 56). “Bởi Evà, đã có sự chết, thì nhờ Maria, lại được sống” (thánh Hiêrônimô x. Hc.HT 56).
Đàng khác, khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt con người vào tình trạng hạnh phúc, được tham dự vào sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chỉ khi Ađam - Evà phạm tội, con người mới phải chết (x. St 2,17 ; Rm 5,12). Nay Mẹ Maria nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, Con Mẹ, do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Mẹ đã luôn trong sạch không vướng một tội nào của bản thân suốt cuộc đời, nên Mẹ không phải tiêu tan. Sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn và xác, tham dự vào sự phục sinh của Con mình và thực hiện trước việc sống lại của các Kitô hữu khác. Đức Thánh Cha Piô 12 đã công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 1.11.1950 (x. Dz 2333 và Hc.HT 59).
Tóm lại, Thiên Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a những đặc ân này :
- Một là ơn Vô nhiễm Nguyên tội.
- Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
- Ba là ơn Đồng Trinh trọn đời.
- Bốn là ơn Hồn Xác lên Trời.
2. Vị trí của Mẹ Maria trong công trình cứu độ và trong Hội thánh.
Et-te, một cô gái kiều diễm thuộc dân tộc Do thái sống lưu vong tại thành Susa, đã được chọn vào cung vua và trở thành Hoàng hậu. Chính Et-te đã cứu dân tộc Do thái trong toàn đế quốc thoát khỏi nạn diệt chủng do mưu kế thâm độc của Aman. Nhờ thế, Et-te đã có vị trí to lớn trong lịch sử dân tộc Do thái ! Còn Đức Maria có vị trí nào trong công trình cứu độ và trong Hội thánh ? Thánh Luca giúp chúng ta khám phá chân lý này, mời các em đứng nghe Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 1,39-40.46-49)
“Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét... Bấy giờ bà Maria nói : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chính Mẹ Maria đã cảm nhận rõ : Dù Người chỉ là phận nữ tỳ hèn mọn nhưng đã được Thiên Chúa đoái thương chiếu cố, đã làm cho Người biết bao điều cao cả, hết mọi đời sẽ khen Mẹ diễm phúc.
a) Vị trí của Mẹ trong công trình cứu độ :
Nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta khám phá ra vai trò của Mẹ :
- Mẹ muốn ở độc thân (x. Lc 1,34), nhưng Mẹ lại “xin vâng” cưu mang sinh hạ Đấng cứu thế (x. Lc 1,34.38) ;
- Mẹ đã cưu mang Chúa Kitô trong tâm hồn trước khi cưu mang trong thân xác (x. Mt 12,46-50) ;
- Ai cũng muốn sống yên ổn, nhưng Mẹ lại trở về nguyên quán Belem và sinh hạ Chúa Giêsu nơi hang súc vật (x. Lc 2,1-14) ;
- Niềm vui của ngày Giáng sinh chưa trọn thì Mẹ lại phải bồng bế con yêu dấu trốn sang Ai cập (x. Mt 2,13-23) rồi từ Ai cập trở lại đất Israel (x. Mt 2,19-23) ;
- Năm Chúa Giêsu lên 12 tuổi, Mẹ Maria đau xót lạc mất con (x. Lc 2,41-50) ;
- Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ vẫn luôn liên kết với Chúa (x. Ga 2,1-12 ; Mt 12,46-47) ;
- Nhất là dưới chân thánh giá, Mẹ đã đứng đó (x. Ga 19,25-27).
Như vậy, trong từng ngày sống, từng biến cố cuộc đời của Con mình, Mẹ Maria luôn kết hợp mật thiết và cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng cứu thế nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Mẹ thật là Mẹ Đấng cứu thế, là cộng tác viên quảng đại cách đặc biệt hơn mọi người khác, và là tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa (x. Hc.HT 61).
b) Vị trí của Mẹ Maria trong Hội thánh :
Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ Maria biết bao điều cao cả (x. Lc 1,49) nên Mẹ không chỉ có vị trí quan trọng trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, mà còn có vị trí vừa cao cả vừa rõ rệt trong mầu nhiệm Hội thánh :
- Trước tiên, vì thuộc dòng dõi Ađam, Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi. Hơn nữa, được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Mẹ Maria được chào kính như chi thể cao cả nhất của Hội thánh, như mẫu mực và gương sáng phi thường cho Hội thánh trên phương diện đức tin và đức ái (x. Hc.HT 53).
- Đồng thời, Mẹ đã sinh ra Chúa Kitô là Đầu nên Mẹ cũng sinh ra toàn thân là Hội thánh, nghĩa là trên bình diện ân sủng, Đức Maria thật là mẹ chúng ta. Hơn nữa, dưới chân thánh giá, Mẹ đã được Chúa Giêsu ban cho người môn đệ với những lời : “Hỡi bà, này là con bà” (Ga 19,26). Với tình hiền mẫu này, Mẹ đã hiện diện với Hội thánh ngay từ những ngày đầu sau khi Chúa về trời (x. Cv 1,14) và Mẹ vẫn hằng chăm sóc Hội thánh và các tín hữu trong Hội thánh bằng những lời chuyển cầu liên tiếp của Mẹ.
- Không những là chi thể trổi vượt của Hội thánh, là Mẹ của Hội thánh, Đức Maria còn là mẫu gương sáng ngời cho Hội thánh : thái độ “xin vâng” của Mẹ trong ngày truyền tin và suốt cả cuộc đời (x. Lc 1,38) ; thái độ “ghi nhớ và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19.51) ; thái độ “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21 ; 11,28)... là mẫu gương sáng ngời của Mẹ đáng được con cái Mẹ noi theo trong cuộc sống thường ngày.
Tóm lại, Đức Ma-ri-a là chi thể trổi vượt và là gương mẫu sáng ngời của Hội thánh, vì Người đã là Mẹ của Đầu là Chúa Ki-tô thì cũng là Mẹ của toàn thân là Hội thánh.
3. Lòng tôn kính đối với Đức Mẹ.
Tại Lýt-ra khi thấy thánh Phaolô chữa lành một người bại 2 chân, đám đông hô lên : “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta”. Thế là thầy tư tế đền thờ thần Dớt đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành và cùng với đám đông muốn dâng tế lễ cho Phaolô (x. Cv 14,8-13). Phải chăng đây cũng là lối tôn kính mà chúng ta dành cho Đức Trinh Nữ Maria ? Chúa Giêsu đã chỉ dạy cho chúng ta cách thức tôn kính Đức Mẹ Maria, Mẹ Người và Mẹ chúng ta. Mời các em đứng lắng nghe :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 11,27-28)
“Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thấy Chúa Giêsu giảng hay, có sức lôi cuốn quần chúng ; Hơn nữa, lại thấy Chúa Giêsu làm bao phép lạ tỏ tường, chị thiếu phụ đã thốt lên : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Từ nhận xét thực tế về Chúa Giêsu, thiếu phụ đã tìm về nguồn ngọn phúc đức là Mẹ Người. Thiếu phụ đã làm điều Chúa Giêsu nói sau này : xem quả biết cây (x. Mt 7,16) : Chúa Giêsu là quả, Mẹ Maria là cây. Quả Giêsu là “con lòng bà gồm phước lạ”, thì cây Maria là “người có phước hơn mọi người nữ” (x. Lc 1,42).
Chúa Giêsu không phủ nhận sự thực của lời tán dương này. Nhưng Chúa Giêsu còn hướng chúng ta đi xa hơn : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Mẹ Maria đáng khen ngợi không chỉ vì tình mẫu tử huyết nhục (sinh và bú mớm tự nhiên), nhưng Mẹ Maria đáng được khen ngợi, tôn kính vì Mẹ đã là người lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa (x. Lc 8,21).
Đây là cách thức tôn kính mà Chúa Giêsu muốn chúng ta phải có đối với Đức Mẹ, Mẹ của Người và Mẹ của chúng ta : chiêm ngắm để khám phá ra đời sống thánh thiện, nhân đức, gương mẫu của Mẹ Maria mà noi theo bắt chước. Cố gắng đi theo con đường Mẹ đã đi : ghi nhớ, suy niệm trong lòng (x. Lc 1,19.51) và đem ra thực hành (x. Lc 8,21 ; 11,28).
Vì thế, “Hội thánh hết sức khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ, nhất là trong Phụng vụ, một lòng sùng kính không dựa trên tình cảm hay tính dễ tin “nhưng phát sinh từ một Đức tin chân thật... thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ” ( Hc.HT 67). Chúng ta tỏ bày lòng tôn kính và yêu mến Mẹ bằng thái độ lắng nghe và thực hành Lời Chúa, noi theo gương mẫu thánh thiện của đời sống Mẹ, sốt sắng tham dự các ngày lễ kính Mẹ và thường xuyên lần hạt kinh Mân côi, là kinh “tóm tắt Phúc âm”.
Tóm lại, chúng ta phải đặc biệt tôn kính, mến yêu, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ. Nhất là chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi để được đến nơi Mẹ đã đến.
D. Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria, Mẹ chí ái của chúng con, Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc cứu chuộc nhân loại bằng thái độ vâng phục Chúa một cách mau mắn. Xin giúp chúng con cũng biết mau mắn vâng theo Thánh ý Chúa với lòng yêu mến.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28).
67. H. Thiên Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a những đặc ân nào ?
# (GLCG. 165)
T. Thiên Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a những đặc ân này :
- Một là ơn Vô nhiễm Nguyên tội.
- Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
- Ba là ơn Đồng Trinh trọn đời.
- Bốn là ơn Hồn Xác lên Trời.
68. H. Đức Ma-ri-a đã cộng tác thế nào trong công trình cứu độ ? (GLCG. 166)
T. “Đức Ma-ri-a đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu thế nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn” (HT. 61).
69. H. Đức Ma-ri-a có vị trí nào trong Hội thánh ? # (GLCG. 167)
T. Đức Ma-ri-a là chi thể trổi vượt và là gương mẫu sáng ngời của Hội thánh, vì Người đã là Mẹ của Đầu là Chúa Ki-tô thì cũng là Mẹ của toàn thân là Hội thánh.
70. H. Chúng ta phải tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thế nào ? # (GLCG. 168)
T. Chúng ta phải đặc biệt tôn kính, mến yêu, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ. Nhất là chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi để được đến nơi Mẹ đã đến.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : Tìm trong tập Sinh hoạt và hát giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Chúa Giêsu và Mẹ Maria được mời dự tiệc cưới tại Cana. Nửa tiệc, hết rượu, Mẹ Maria nói với những người giúp việc : Chúa Giêsu bảo gì, các anh cứ việc làm theo. Những người giúp việc đã vâng lời Chúa, đổ nước đầy 6 chum và cả 6 chum đều hóa thành rượu ngon (x. Ga 2,1-10).
Ngày nay, Mẹ vẫn đang nhắn nhủ chúng ta luôn mau mắn vâng lời cha mẹ là những người thay mặt Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Quét dọn và trang trí lại bàn thờ gia đình cho xứng hợp.
V. KẾT THÚC.
Trong giờ giáo lý hôm nay, chúng ta đã có dịp hiểu biết nhiều hơn về người mẹ chung của chúng ta : Đức Maria. Không ai chết trong tội nếu người đó biết chạy đến cùng Mẹ. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời là Đức Maria, Đấng luôn luôn có mặt ở bên để yêu thương, chăm sóc chúng ta.
Sáng Danh...
Bài 16
ƠN PHỤC SINH VÀ ĐỜI SỐNG VĨNH CỬU
Lời Chúa : “Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó : ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29)
Ý chính : 1. Mọi người sẽ sống lại (Ga 5,21-22.24-25.28-29).
2. Ý nghĩa sự chết (Dt 9,24.27-28).
3. Phán xét chung (Mt 25,31-34.41).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 988-1065
Tâm tình : Vững vàng trông cậy vào Chúa và cố gắng sống thánh chờ ngày sống lại.
Chuẩn bị : Tranh 20 ĐBTT cũ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như các bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, sự Phục sinh của Chúa là một lời mời gọi chúng con đổi mới cuộc sống, để biết sống tận tình hơn với Chúa và với anh em. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa Phục sinh, gieo rắc sự bình an và niềm vui, để ai gặp chúng con, cũng gặp thấy sức sống mãnh liệt của Chúa.
3. Giới thiệu bài mới :
(Tùy hoàn cảnh mà vào đề, thí dụ :)
Thứ hai vừa qua, chúng ta đã cử hành lễ an táng cho em X chết vì tai nạn giao thông. Rồi lần lượt đến chúng ta, chị và cả các em nữa. Số phận chúng ta sẽ ra sao sau cái chết ? Đó là nội dung bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Đaminh Saviô là một cậu bé rất dễ thương vì em tốt lành, luôn vâng lời cha mẹ và giúp đỡ bạn bè. Nhà nghèo, phải đi học xa, nên em thường đi bộ đến trường với đôi giầy đeo trên vai (em sợ đi nhiều sẽ mòn giầy). Một hôm trên đường đến trường, em gặp một người lạ đi cùng đường, người lạ bắt chuyện với em và hỏi thăm, em cho biết là mỗi ngày phải đi về tới 16 cây số. Nghe thế, người lạ hỏi : “Hằng ngày đi về con đường dài như vậy em có thấy mệt không ?” Em trả
lời : “Làm sao người ta có thể thấy mệt khi được trả công rất hậu”. Nghe thế, người lạ hỏi : “Em đi làm công cho ai ?” Saviô trả lời : “Em đi làm công cho Chúa, và Chúa sẽ trả công rất hậu cho những ai làm việc vì lòng yêu mến Người”.
Điều mà Đaminh Saviô tin và sống đó có đúng không ? Chúng ta lắng nghe chính Chúa dạy về sự thật này (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gio-an
(Ga 5,21-22.24-25.28-29)
“Chúa Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý. Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử... Thật, tôi bảo thật các ông : Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Thật, tôi bảo thật các ông : giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa ; ai nghe thì sẽ được sống... Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó : ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Mọi người sẽ sống lại.
Qua Lời Chúa trên đây, chúng ta khám phá được những điều này :
- Chúa Cha, Đấng quyền năng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại thì Người cũng có dư quyền phép làm cho kẻ chết sống lại vì Người là Chúa sự sống (x. Mc 12,27 ; Rm 8,11).
- Chúa Giêsu Kitô đã sống lại (x. Lc 24,34 ; b.7 GL cấp II) sẽ làm cho những ai tin vào Người được sống lại (x. Ga 5,24.40).
- Chúa Thánh Thần là Thần Khí làm cho sống mà Lời Chúa là Thần Khí và là Sự Sống (x. Ga 7,63).
Niềm tin thân xác sẽ sống lại đã có từ thời Cựu ước (x. 2 Mcb 7,9-38 ; 12,43-45), được Chúa Giêsu tái xác nhận và củng cố (x. Mt 22,23-33).
Ngày nay Hội thánh vẫn tuyên xưng “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (kinh Tin kính) nghĩa là thân xác con người sau khi chết dù hư nát, nhưng sẽ được Thiên Chúa cho sống lại trong ngày tận thế” (câu GL 71 cấp II). Sở dĩ chúng ta tuyên xưng và sống niềm tin này vì chúng ta tin vào Thiên Chúa là Chúa kẻ sống, tin vào Chúa Ki-tô đã sống lại từ cõi chết và tin vào lời Người hứa ban sự sống lại cho những ai thuộc về Người.
2. Ý nghĩa sự chết.
Vua Antiôkhô ra lệnh cho toàn dân phải thờ thần ngoại giáo. Ai bất tuân sẽ phải chết. Có bà mẹ anh dũng cùng với 7 con mình đã sẵn sàng chịu chết để trung thành với Thiên Chúa. Sau 6 người anh hiên ngang chịu chết vì lề luật của Thiên Chúa, Antiôkhô đã ra lời phủ dụ cậu Út, thề thốt sẽ ban cho của cải, làm cho hạnh phúc, đươc nên thân hữu của vua, trao cho chức tước, nếu cậu từ bỏ lề luật tổ tiên tôn thờ Thiên Chúa. Cậu Út đã dõng dạc nói với các thuộc hạ của vua : “Các ngươi còn đợi gì ? Ta không vâng theo lệnh truyền của vua, nhưng ta vâng theo lệnh truyền của lề luật đã ban xuống cho tổ tiên chúng ta ngang qua Môsê ! Vua tức uất người lên và đã xử với cậu một cách độc ác hơn các anh cậu (x. 2 Mcb 7,1-42).
Ai chẳng sợ chết ? Vậy mà 7 anh em cùng với bà mẹ dòng dõi Mac-ca-bê-ô này lại tự nguyện chịu chết. Ý nghĩa và sức mạnh nào đã làm cho họ can đảm như thế ? Tác giả thư gửi tín hữu Do thái sẽ cho thấy một ý nghĩa chủ yếu của sự chết, mời các em lắng nghe - mời đứng :
Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9,24.27-28)
“Đức Kitô đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta... Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa trên đây trước tiên cho chúng ta thấy một sự thật hiển nhiên : con người ai cũng phải chết, không ai thoát khỏi và chối cãi : chết là chấm dứt cuộc sống ở trần gian, xác là vật chất nên hư nát (x. St 3,19), hồn là thiêng liêng nên không chết (x. Dz 1440). Như thế, chết là linh hồn lìa khỏi xác.
Con người được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh Người” (x. St 1,26-27) được tham dự vào sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa (x. St 2,17) nhưng ông bà nguyên tổ đã phạm tội nên con người phải chết (x. Rm 5,12). Như vậy chết là hậu quả của tội.
Tuy nhiên, bằng mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa sự chết. Do đó, ai tin Chúa Kitô thì :
- Chết là một mối lợi vì được ở với Chúa Kitô (x. Pl 1,21).
- Chết là đi về cùng Cha (x. Ga 14,3 ; 17,24). Niềm tin này rất gần với niềm tin của người Việt Nam : sống gửi - chết về (sinh ký - tử qui).
- Chết là sự sống được biến đổi (x. 1 Tx 4,17) : biến đổi từ cuộc sống trần gian bước vào cuộc sống mới vĩnh hằng, nhờ Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 5,19-21).
3. Phán xét chung.
(GLV tùy nơi kể chuyện về tòa án, hoặc vụ xử án nào mà các em đều biết, thí dụ :)
Mấy tháng trước, bà con ta đã kéo đến dốc Tân Phong xem hành quyết 2 tội nhân đã bị tòa án tuyên án tử hình. Hai phạm nhân đã cướp của giết người, bị cơ quan an ninh thộp cổ và tòa án đã xét xử.
Đấy là cách xử lý của trần thế, còn Nước Thiên Chúa có tòa án không ? Các em nghe chính Chúa Giêsu dạy về vấn đề này :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 25,31-34.41)
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên phải rằng : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa... Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
(GLV phấn khích các em khám phá ra nội dung giáo lý sau :)
Khi con người chết, như các em đã biết, chỉ có xác chết mà thôi, còn linh hồn thiêng liêng sẽ đến trước tòa Chúa Kitô để chịu phán xét riêng về quãng đời đã sống ở trần gian (x. b.13 ĐBTT). Đấy là phán xét riêng.
Rồi đến ngày tận thế, các em cũng đã biết, con người sống lại sẽ đến trước tòa Chúa một lần nữa. Lần này :
- Chung với tất cả mọi người : “Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Vua”.
- Chúa Giêsu (Con Người) đến trong vinh quang, có tất cả các thiên sứ theo hầu, ngự lên ngai vinh hiển mà xét xử toàn dân : người lành ở bên phải, kẻ dữ ở bên trái.
- Chúa Giêsu trong uy quyền, vinh quang nói với những người bên phải : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (c.34), rồi phán với những người bên trái : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các sứ thần của nó” (c.41).
Như vậy, ngày phán xét chung là ngày Chúa Ki-tô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước toà Chúa Ki-tô để trả lẽ về các hành vi của mình.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Chúa chịu chết và sống lại mà loài người chúng con được hy vọng bước vào đời sống mới sau khi qua đời. Xin giúp chúng con sống tốt lành để mai sau được hạnh phúc muôn đời.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó : ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29)
71. H. Khi tuyên xưng : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, ta phải hiểu thế nào ? # (GLCG. 173)
T. Ta phải hiểu là thân xác con người sau khi chết sẽ hư nát, nhưng Thiên Chúa sẽ cho thân xác ấy được sống lại trong ngày tận thế.
72. H. Tại sao chúng ta tin xác loài người sống lại ? (GLCG. 174)
T. Vì chúng ta tin vào Thiên Chúa là Chúa kẻ sống, tin vào Chúa Ki-tô đã sống lại từ cõi chết và tin vào lời Người hứa ban sự sống lại cho những ai thuộc về Người.
73. H. Theo Ki-tô giáo, sự chết có ý nghĩa gì ? (GLCG. 175)
T. Theo Ki-tô giáo, chết là kết thúc cuộc sống trần gian, là hậu quả của tội lỗi và là một biến đổi đi vào cuộc sống mới.
74. H. Có phán xét chung nữa không ? # (GLCG. 180)
T. Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Ki-tô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước toà Chúa Ki-tô để trả lẽ về các hành vi của mình.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Sinh hoạt và Hát Giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Hoàng đế Frédérick vĩ đại của nước Phổ đang đi bộ dọc theo một con đường ở vùng ngoại ô Berlin thì tình cờ gặp một ông lão rất già. “Ông là ai ?”, Frédérick hỏi với một chút tò mò khi hai người tạm dừng chân.
- “Tôi là một ông vua”, ông lão trả lời.
- “Một ông vua ?”, Frédérick lặp lại, “Ông cai trị trên lãnh địa nào ?”.
- “Trên chính mình”, ông lão trả lời một cách tự hào. “Tôi cai trị chính mình, vì tôi có quyền điều khiển mình. Tôi là vua của chính tôi”.
Tất cả chúng ta đều có thể là vua theo ý nghĩa của cụ già này : chúng ta là vua để điều khiển con người chúng ta phục vụ Thiên Chúa và anh em mình. Nếu chúng ta biết điều khiển chính mình luôn sống theo luật Chúa, thì trong ngày tận thế, chính Thiên Chúa sẽ ban thưởng cho tất cả những việc tốt lành ta đã làm.
Thực hành : Mỗi ngày em làm một việc giúp bạn vì giúp bạn là giúp Chúa. Em sẽ được Chúa thưởng công sau này.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ hình mình đang đội mũ triều thiên.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến, qua bài học hôm nay, chúng ta đã biết được Chúa Giêsu yêu thương chúng ta biết bao : Người đã đến và cứu độ chúng ta, làm cho chúng ta được sống lại với Người. Nhưng chúng ta chỉ thực sự được thông chia sự sống lại của Chúa khi chúng ta biết sống tốt lành như Chúa dạy.
Sáng Danh...
PHẦN II
SỐNG TRONG CHÚA KITÔ
Bài 17
TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
Lời Chúa : “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do”.(2 Cr 3,17)
Ý chính : 1. Tự do là gì ? (1 Cr 6,12-14.19-20).
2. Giá trị và trách nhiệm mỗi người (1 Pr 2,16)
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 1730-1748
Tâm tình : Sung sướng cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban tự do cho con người.
Chuẩn bị : Tấm hình Chúa đang gõ cửa, hay hình một cánh chim đang bay lượn giữa bầu trời.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
(GLV vui vẻ niềm nở đón tiếp các em bằng một tình yêu chân thành, cởi mở nhưng đứng đắn. Vào thời điểm này GLV có thể phân công cho các em dọn lớp và góp phần với GLV chuẩn bị bài mới ).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, sau khi sáng tạo muôn loài muôn vật, Chúa đã thực hiện công việc quan trọng nhất, là dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa. Xin Chúa giúp chúng con trong giờ này, học biết cách làm đẹp lòng Chúa thật nhiều.
3. Giới thiệu tổng quát phần II và dẫn vào bài mới :
Trong 16 bài trên đây, chúng ta đã tuyên xưng đức tin về những chân lý căn bản của đạo Công giáo :
- Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất mà Người có Ba Ngôi :
+ Chúa Cha sáng tạo muôn loài.
+ Chúa Con cứu chuộc.
+ Chúa Thánh Thần thánh hóa.
- Chúng ta tin Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh công giáo và hằng ở cùng Hội thánh cho đến tận thế.
- Chúng ta tôn kính đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta.
- Chúng ta tin ơn sống lại và đời sống vĩnh cửu.
Niềm tin của chúng ta không chỉ là một nhận thức của trí khôn, cũng không chỉ là lời nói dù chân thành của miệng lưỡi, nhưng còn và nhất là còn tuyên xưng bằng chính đời sống thường ngày của chúng ta.
Vì thế, trong phần II này, chúng ta sẽ lắng nghe Chúa dạy cách sống phù hợp với Đức tin để biến đổi đời sống hàng ngày chúng ta thành lời tuyên xưng đích thực.
Mời các em bắt đầu bằng việc tìm hiểu món quà quí báu Chúa tặng ban cho con người, đó là tự do.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trong đời sống, chúng ta thỉnh thoảng thấy chiếc xe ngựa đi qua. Các em để ý quan sát con ngựa : người ta cột một cái ách lên vai ngựa, ách này nối với càng xe. Và như thế khi con ngựa bước đi thì nó sẽ kéo chiếc xe đi, ngựa đi nhanh thì xe đi nhanh, ngựa đi chậm thì xe đi chậm. Nhưng các em chú ý trên đầu ngựa, 2 bên mắt có cái gì không ? Người ta đã che 2 bên mắt ngựa, đố các em biết tại sao ? Để nó chỉ nhìn về phía trước, không nhìn 2 bên được, cụ thể không nhìn thấy cỏ 2 bên đường để dừng lại mà ăn, nghĩa là người ta đã khống chế ngựa, bắt ngựa phải đi về phía trước, không để ngựa sợ sệt hoặc dừng lại gặm cỏ bên đường : người ta đã không cho ngựa được tự do !
Con người chúng ta có bị bịt mắt như thế không ? Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi tín hữu Corintô đã cho ta thấy một món quà quí báu của con người, các em hãy lắng nghe (mời đứng).
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Corintô
(1 Cr 6,12-14.19-20).
“Tôi được phép làm mọi sự” ; nhưng không phải mọi sự đều có ích. “Tôi được phép làm mọi sự” ; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi. Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại ; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại... Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao ? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Tự do là gì ?
Thánh Phaolô cho ta thấy, con người chúng ta khác với loài vật, “được phép làm mọi sự” nhưng đồng thời cũng biết rằng “không phải mọi sự đều có ích” ; “được phép làm mọi sự” nhưng đồng thời cũng có khả năng “không để sự gì làm chủ được tôi”, con người được gọi để hưởng tự do, có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt (x. Gl 5,13), nghĩa là con người có khả năng nhận biết việc tốt, việc xấu và có trách nhiệm chọn điều tốt và bỏ điều xấu. Làm khác đi là sai, là tội. Khả năng nhận biết, cân nhắc điều tốt, điều xấu rồi quyết định làm hay từ chối và do đó chịu trách nhiệm về các hành vi của mình, đó là tự do.
Con người tự bản chất là tốt (“nhân chi sơ tính bản thiện”) nhưng tội lỗi đã làm cho con người ra yếu đuối, hướng về điều xấu hơn điều tốt (x. Rm 7,15). Vì thế, muốn có được tự do đích thực, con người phải đón nhận Thần Khí Thiên Chúa : “Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17). Nhờ Thần Khí Chúa, chúng ta vừa được ơn soi sáng để biết đâu là tốt, đâu là xấu, đâu là điều có ích lợi thực sự, đâu chỉ là hư ảo..., chúng ta vừa được ơn can đảm để chọn và thực hiện điều tốt, điều mang lại ích lợi thực sự... Nhà em Trung có nuôi một con chim cu gáy từ lâu lắm rồi. Hằng ngày ba của Trung đều chăm sóc nó rất cẩn thận, không bao giờ để thiếu thức ăn, nước uống. Trung cũng thích nó lắm ; một hôm, Trung mở cửa lồng định bắt chim ra chơi một chút, không ngờ chim dãy dụa dữ dội, tuột khỏi tay Trung và bay đi, không thấy đâu nữa !!
Các em thấy đó : bản tính của chim cu gáy là muốn bay, muốn sống trong trời đất bao la nên dù được chăm sóc tốt bao nhiêu năm, khi đã thoát ra được khỏi lồng là nó không bao giờ quay lại. Lồng đẹp, thức ăn dồi dào không thể làm thỏa mãn nó.
Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người nên ước muốn sâu xa nhất của con người là luôn hướng về Thiên Chúa, Người là sự thiện trên hết. Và con người chỉ thực sự cảm thấy được thỏa mãn, được tự do, thoải mái khi sống trong điều thiện. Như thế, con người chỉ thực sự có tự do khi làm điều thiện và khi qui hướng về Thiên Chúa. Con người chỉ được tự do đích thực khi con người biết dùng tự do để phục vụ điều thiện. Tự do ấy đạt tới mức hoàn hảo khi qui hướng về Chúa là Sự Thiện tuyệt đối (câu GL 76).
2. Giá trị và trách nhiệm của tự do.
Tự do làm cho hành vi của ta trở nên đáng thưởng hay đáng phạt. Phương Thủy đang làm bài thi, bài toán khó quá mà em chưa biết cách giải, bạn em ngồi bên đưa bài của nó cho em xem. Xem bài của bạn là một việc xấu, nhưng nếu xem thì em sẽ được điểm cao. Em phải làm gì đây ? Xem bài của bạn hay tự làm bài ? Sau cùng, Thủy quyết định tự mình làm bài. Bài của em được ít điểm, nhưng Thủy thấy vui. Tại sao bài làm bị điểm kém mà lại vui ? Phương Thủy bất bình thường (điên) ? Thánh Phêrô giúp chúng ta nhận định về thái độ của Phương Thủy như sau (mời đứng) :
Lời Chúa trong thư thánh Phêrô tông đồ (1 Pr 2,16)
“Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa này soi sáng cho ta khám phá ra rằng :
Mỗi người được Chúa ban cho quyền tự do nghĩa là khả năng nhận biết, chọn lựa để quyết định, nhưng phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa này. Phương Thủy có tự do. Phương Thủy có khả năng nhận định cóp bài là xấu, không cóp bài là tốt. Phương Thủy đã chọn không cóp bài và làm theo sự chọn lựa đúng đắn. Phương Thủy không lấy tự do làm nền cho sự gian dối cóp bài. Vì thế, hành vi của Phương Thủy là hành vi tốt. Lương tâm không khiển trách Thủy nên Thủy vui. Như thế, tự do làm cho hành vi của ta trở nên đáng thưởng hay đáng phạt.
Một thí dụ khác, tối thứ bảy, Mai nói với má trước khi đi ngủ : “Chúc má ngủ ngon, sáng mai má nhớ gọi con đi lễ Chúa nhật nhé !”. Má âu yếm nói : “Chúc con ngủ ngon ! yên trí, má sẽ gọi”. Đêm đó mát trời cả gia đình ngủ ngon. Khi thức giấc thì đã 8g00. Hết lễ và chẳng còn lễ ở đâu trong vùng đó ! Mai không có lỗi và má Mai cũng chẳng có lỗi. Như vậy mọi hành vi không có tự do, nghĩa là không biết và không được chọn lựa và làm theo sự chọn lựa thì không có lỗi, không có tội, cũng chẳng có công.
- Một thí dụ khác : Trời mưa to, Tuấn đến nhà Tài, rủ Tài đi tắm mưa. Mới đầu Tài không muốn đi vì phải ôn thi, nhưng sau lại theo Tuấn đi dầm mưa suốt buổi chiều. Hôm sau đến trường, Tài không làm được bài thi, phải chịu điểm kém mà không dám than thở, vì biết đó là lỗi tại mình : mình làm mình chịu. Tài quyết tâm không dám nghe bạn đi dầm mưa nữa.
Như thế, mọi người phải chịu trách nhiệm về các việc làm tự do của mình. Con người có thể lạm dụng tự do để chối bỏ điều thiện và khi đó trở thành nô lệ tội lỗi. Vậy, mọi người phải chịu trách nhiệm về các việc làm tự do của mình.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa thật nhiều, vì Chúa đã cho chúng con được tự do để có thể yêu mến Chúa. Ước gì chúng con không bao giờ lạm dụng tự do để làm phiền lòng Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17).
75. H. Tự do là gì ? (GLCG. 293)
T. Tự do là khả năng chọn lựa, nhờ đó mà con người có thể cân nhắc, quyết định và chịu trách nhiệm về các hành vi của mình.
76. H. Khi nào con người được tự do đích thực ? (GLCG. 294)
T. Là khi con người biết dùng tự do để phục vụ điều thiện. Tự do ấy đạt tới mức hoàn hảo khi qui hướng về Chúa là Sự Thiện Tuyệt Đối.
77. H. Tự do quan trọng thế nào ? (GLCG. 295)
T. Tự do đem lại giá trị luân lý cho các hành vi của con người. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về những gì mình làm một cách cố ý, tức là có ý thức và tự do.
78. H. Con người có thể lạm dụng tự do của mình để làm điều xấu không ? (GLCG. 296)
T. Con người có thể lạm dụng tự do để chối bỏ tình yêu Thiên Chúa và khi đó trở thành nô lệ tội lỗi.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Trong bức tranh nổi tiếng “Ánh sáng thế gian”, Holman Hunt đã vẽ Đức Kitô đang đứng trong một khu vườn lúc đêm khuya, tay trái cầm một cái đèn lồng, còn tay phải đang gõ lên một cánh cửa làm bằng những miếng gỗ dầy nặng nề.
Khi bức tranh được đưa ra trưng bày, một nhà phê bình đã góp ý với họa sĩ : “Thưa họa sĩ, tác phẩm của ông chưa hoàn tất : trên cánh cửa không có tay nắm”.
- “Đó là cánh cửa vào lòng con người”, Hunt trả lời, “Nó chỉ có thể mở ra từ bên trong”.
Thiên Chúa không áp đặt lề luật của Người trên chúng ta : chúng ta được tự do để mở ra hay đóng cánh cửa tâm hồn lại với Chúa. Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta là Người yêu mến chúng ta và muốn đến với chúng ta.
Thực hành : Em quyết tâm chỉ làm những điều đẹp lòng Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ hình người con hoang đàng lúc về đến nhà.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến, qua bài học hôm nay chúng ta đã biết được Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết bao khi Người ban cho chúng ta hồng ân lớn lao là sự tự do : chúng ta có thể tin yêu Chúa hay từ chối Chúa. Nhưng chúng ta chỉ có tự do thực sự khi chúng ta sống hướng thiện, làm sáng danh Chúa mà thôi.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1,26).
Ý chính : 1. Định nghĩa và phân loại (Gc 1,22-26).
2. Các nhân đức đối thần (1Tx 1,3).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 1803-1811, 1833-1839.
Tâm tình : Khao khát trở nên người tốt nhờ tập luyện nhân đức.
Chuẩn bị : Tranh ảnh về luyện tập thể thao.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng và cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Ơn gọi làm người, làm Kitô hữu.
Xin Chúa giúp chúng con luôn chăm chỉ học hành, rèn luyện tư cách, trau dồi tinh thần bằng những đức tính tốt, để chúng con trở nên những người con ngoan của gia đình, của Hội Thánh và của xã hội.
3. Giới thiệu bài mới :
Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhờ đó, chúng ta biết chọn lựa và quyết chí làm theo điều tốt. Công việc này không phải dễ, chúng ta phải kiên quyết tập luyện để thành người có nhân đức. Đây là nội dung của bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức bên nước Pháp, chị Bec-na-đet-ta đã xin vào tu tại một tu viện thuộc dòng kín ở Nêvơ. Vào một ngày Chúa nhật năm 1876, một chị bạn đưa cho Bec-na-đet-ta xem một bức hình của chị mà người ta đã chụp được ở hang Lộ Đức trước đây để xem phản ứng của chị thế nào. Đang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên Bec-na-đet-ta hỏi :
- Người ta dùng chổi để làm gì hả chị ?
- Để quét nhà.
- Quét xong, họ để chổi ở đâu ?
- Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ “cư trú” thường lệ của nó.
- Đời em cũng thế, chị ạ ! Đức Mẹ đã dùng em rồi đặt em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm và muốn ở yên trong chỗ đó mãi. Khi nào cần, Ngài lại lấy em ra dùng. Lúc nào em cũng muốn ở phận hèn này để yêu mến Thiên Chúa”.
Các em thân mến, chị Bec-na-đet-ta đã có thái độ khiêm tốn và đức mến Chúa trong mọi hoàn cảnh như vậy đó. Làm sao mà chị có được đức tính này ? Thánh Giacôbê tông đồ sẽ giúp chúng ta khám phá ra bí quyết của chị Bec-na-đet-ta. Các em lắng nghe Lời Chúa, mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư thánh Giacôbê Tông đồ (Gc 1,22-26)
“Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo - luật mang lại tự do - ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm. Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Định nghĩa và phân loại.
(GLV khích lệ các em khám phá nơi Lời Chúa vừa nghe những yếu tố làm nên nhân đức, tương tự như sau :)
Thánh Giacôbê đã sử dụng những từ ngữ diễn tả thái độ sống :
- Hãy đem Lời Chúa ra thực hành ... ai không thực hành, giống như người soi gương.
- Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật Chúa...
- Ai thi hành luật Chúa, thì...
- Ai không kiềm chế miệng lưỡi... chỉ là đạo đức giả.
Những lối diễn tả này cho thấy muốn nên tốt thì phải tập luyện, phải làm điều tốt không chỉ một lần, tập luyện một ngày, một tháng, nhưng phải thiết tha và trung thành tuân giữ, nghĩa là làm nhiều lần, phải tập luyện mãi cho đến khi thuần thục, lúc đó mới có hạnh phúc, mới là đạo đức, nghĩa là mới có nhân đức.
Để có lòng khiêm nhường như trên đây, chắc chắn chị Bec-na-đet-ta đã phải tập luyện lâu năm. Nhìn vào thiên nhiên, cây giống khi được trồng xuống đất, phải được che nắng, tưới nước để tập làm quen với mưa nắng, phải được chăm bón tốt mới sống, lớn lên và có ngày đơm bông kết trái. Con người, sau khi được cha mẹ sinh ra, cũng phải tập lẫy - tập bò - tập đi - tập ăn... theo từng giai đoạn, mới có thể trở nên một người khỏe mạnh. Cũng thế, đời sống con người cũng phải tập luyện đức tính trong gia đình và xã hội. Như vậy, ta phải :
- Tập luyện làm điều tốt.
- Việc tốt đó trở thành thói quen ứng xử, trở thành thái độ sống bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào. Thí dụ : Anh A luôn vui vẻ với mọi người mọi nơi. Anh A có mặt ở đâu, nơi đó có niềm vui.
- Việc tốt đó được làm một cách dễ dàng, không mấy khó khăn. Thí dụ : một lực sĩ cử tạ, anh có thể nâng cao một đồ vật cách dễ dàng. Trong khi phải 2,3 người mới xách được một vật nào đó, còn anh lực sĩ, một mình nâng cao, bước đi dễ dàng.
- Làm được điều tốt nhưng nếu đó là vật chất, thí dụ anh B nâng cao được một bao gạo 100 kg. Ta không nói anh B có nhân đức mà chỉ nói anh B khỏe. Anh B là lực sĩ...
Điều tốt đây là một thái độ, như can đảm, vui vẻ, sẵn sàng giúp mọi người... (GLV có thể phấn khích các em cho nhiều thí dụ trong cuộc sống để hiểu thế nào là nhân đức).
Tóm lại, nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn.
Có những nhân đức thuộc về con người, nghĩa là đã là người thì có thể tập luyện được những thói quen tốt, phải có những đức tính tốt căn bản, xứng đáng phẩm giá con người. Những thói quen tốt này gọi là nhân đức nhân bản. Bốn nhân đức nhân bản chủ lực là :
- Đức khôn ngoan : giúp ta nhận rõ điều tốt cần làm và những phương tiện chính đáng để làm tốt điều ấy.
- Đức công bằng : giúp ta luôn biết tôn trọng quyền lợi, tài sản của người khác và trả cho người khác những gì thuộc về họ.
- Đức dũng cảm : giúp ta bền lòng, bền chí theo đuổi điều thiện dù gặp gian nan thử thách.
- Đức tiết độ : giúp ta biết tự chủ trước sức quyến rũ của các thú vui trần gian và giữ được chừng mực khi hưởng dùng mọi sự ở đời này.
Có những nhân đức qui chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và đối tượng, giúp ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Những nhân đức này gọi là nhân đức đối thần. Đó là các nhân đức Tin - Cậy và Mến.
2. Các nhân đức đối thần.
Trên màn ảnh truyền hình, nhiều lần chúng ta thích thú xem những màn biểu diễn của đoàn xiệc Trung Quốc. Các diễn viên rất mềm mại đến mức độ toàn thân như là cọng bún, muốn xếp thế nào cũng được. Những màn biểu diễn của các diễn viên như là những phép lạ, mặc dù họ cũng chỉ là người như chúng ta ! Về phương diện biểu diễn tài nghệ đó thì chúng ta thua nhưng chúng ta quên mất một “tài năng”, một “hồng ân” mà Thiên Chúa đã ban cho những người đã Rửa tội, một khả năng phi thường có sức dời núi chuyển non (x. Mc 11,23) trong chính đời sống hàng ngày. Thánh Phaolô tông đồ đã tuyên dương những hồng ân này nơi cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, mời các em lắng nghe (mời đứng).
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (1 Tx 1,3)
“Trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô nói tới bộ 3 nhân đức đối thần : đức tin - đức cậy - đức mến. Chính nhờ 3 nhân đức cột trụ này mà cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đã được thánh Phaolô tuyên dương. Thực vậy, đức tin chiêm ngắm thập giá là nguyên lý đời sống mới, đức cậy hướng chúng ta về ngày hoàn tất ơn cứu chuộc, đức mến là nguyên tắc hành động. Thánh Thần là bảo chứng cho tự do của tín hữu (x. Gl 5,5-6).
a) Đức tin :
[GLV lần lượt đọc hoặc kể lại các đoạn Lời Chúa Mt 13,16-17 (Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Kitô, Con Thiên Chúa) ; Mc 9,14-29 (Chúa Giêsu chữa người động kinh) ; Lc 7,1-10 (Chúa Giêsu chữa người nô lệ của một viên chức) ; Rm 4,18-22 (lòng tin của Abraham) để nêu bật hồng ân đức tin và thái độ của người có lòng tin. Từ đó đưa đến câu giáo lý 83 đức tin là gì].
b) Đức cậy :
[GLV lược kể câu chuyện Abraham lãnh lời hứa về đứa con thừa tự (x. St 15,5 ; 16,17 ; 18,14 ; Rm 4,18-22), đặc biệt lời hứa ban ơn cứu độ (x. St 3,15) đã được thực hiện (Rm 4,21) : “Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4,21)... Lời hứa và thực hiện ban Thánh Thần (x. Ga 15,26 ; 16,7 và Ga 20,22 ; 1,1-12) dẫn đến câu Giáo lý 84 đức cậy là gì]. Sau đó có thể thêm :
Ngày nay với các phương tiện khoa học kỹ thuật tiến bộ, người ta thường dễ có thái độ tự tin thái quá, dựa vào năng lực của con người mà thiếu tin cậy vào Thiên Chúa. Họ quên mất rằng, không có ơn Chúa thì con người không thể làm được điều gì ; và nếu không được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn, con người sẽ bị lầm lạc, chẳng biết đường, biết hướng về đâu...
c) Đức mến :
[GLV lược kể lòng mến của Phêrô : lòng mến tự nhiên (x. Mt 26,33.35) nhưng rồi phản bội chối Chúa (x. Mt 26,69-75). Chỉ nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Phêrô mới có lòng mến vững vàng (x.Cv 4,19-20) đến mức độ “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu” (Cv 5,41) ; cũng có thể biểu dương lòng mến đến sẵn sàng chịu chết của các thánh tông đồ, lòng mến của Mẹ Têrêsa Calculta. Từ đó dẫn đến câu Giáo lý 85].
Tuy nhiên, để ơn Chúa Thánh Thần mà ta đã lãnh nhận trong ngày Rửa tội và Thêm sức, giúp ta đạt được các nhân đức : nhân đức nhân bản, đặc biệt nhân đức đối thần, cần có sự cộng tác của ta trong việc luyện tập thành thói quen. Theo thánh Giacôbê, công việc luyện tập đầu tiên cần thiết và cụ thể nhất là kiềm chế miệng lưỡi, bởi vì “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2) và “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1,26).
Muốn hoàn thiện, ta phải làm chủ bản thân. Muốn nên người nhân đức, ta phải kiềm giữ miệng lưỡi. Và khi ta kiên trì thi hành những điều thiện, ta sẽ xứng đáng là con cái Chúa và đáng hưởng hạnh phúc đời đời.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là nguồn mạch mọi điều thiện hảo. Xin thôi thúc con biết khao khát các nhân đức, là những ân huệ của Chúa Thánh Thần, để con xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1,26).
79. H. Nhân đức là gì ? # (GLCG. 308)
T. Nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn.
80. H. Có mấy thứ nhân đức ? (GLCG. 309)
T. Có hai thứ :
- Một là các nhân đức nhân bản giúp ta hoàn thiện chính mình và sống tốt với mọi người.
- Hai là các nhân đức đối thần, trực tiếp qui về Thiên Chúa, giúp ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời.
81. H. Có mấy nhân đức nhân bản ? (GLCG. 310)
T. Có nhiều nhân đức nhân bản, trong đó bốn nhân đức chính là : khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ.
82. H. Có mấy nhân đức đối thần ? (GLCG. 316)
T. Có ba nhân đức đối thần là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
83. H. Đức Tin là gì ? # (GLCG. 317)
T. Đức Tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội thánh truyền lại cho ta.
84. H. Đức Cậy là gì ? # (GLCG. 318)
T. Đức Cậy là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta dựa vào sức mạnh Chúa Thánh Thần mà vững lòng mong đợi hạnh phúc Nước Trời Chúa Giê-su đã hứa ban.
85. H. Đức Mến là gì ? # (GLCG. 319)
T. Đức Mến là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và lại vì Chúa mà yêu thương mọi người như chính bản thân.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Từ nhỏ, chị Têrêsa đã quyết tâm nên thánh. Chị muốn sớm được sống cuộc đời tận hiến nên khi mới 15 tuổi, chị đã xin vào dòng Kín. Vì chưa đủ tuổi nên chị bị từ chối. Nhưng Têrêsa vẫn kiên trì cầu nguyện và tìm đủ mọi cách xin được chuẩn tuổi. Thế rồi sau đó ít lâu chị được Đức Giáo Hoàng cho phép nhập dòng.
Khi vừa vào tu, Têrêsa bị Bề trên hiểu lầm nên chị bị đối xử rất nghiêm khắc, chị phải chịu nhiều hy sinh liên tục, bị trách mắng bất công, bị thử thách nhiều cách nhưng chị chỉ đáp lại bằng nụ cười. Nhờ đức tin, cậy, mến cao độ, chị Têrêsa đã vượt qua mọi khó khăn để trở thành vị thánh. Têrêsa qua đời ngày 30.09.1897, được Hội thánh tôn lên bậc Hiển thánh và được tôn phong là bổn mạng các xứ Truyền giáo.
Noi gương chị thánh Têrêsa, em quyết tâm không nói chuyện, quay ngang, quay ngửa... khi bước vào Nhà thờ.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ ô tập bài làm và ghi kiểm điểm hàng ngày trong tuần này về việc tập luyện một nhân đức em muốn.
V. KẾT THÚC.
Luyện tập nhân đức là luyện tập làm con Chúa. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã giúp chúng ta hiểu được điều này. Xin Chúa luôn giúp chúng ta kiên trì cầu nguyện và tập luyện để xứng đáng làm con Chúa.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ” (Mt 23,25).
Ý chính : 1. Tội là gì ? (Mt 23,25-28).
2. Phân loại và hậu quả của tội (1 Ga 5,16-17).
3. Bảy mối tội đầu (Mt 15, 19-20).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 1846-1876.
Tâm tình : Gớm ghét tội và xa tránh dịp tội để được làm con Chúa.
Chuẩn bị : Tranh Ađam - Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước)
2. Thánh hóa :
Các em thân mến, tội lỗi vẫn luôn tạo nên những vực thẳm làm chúng ta xa cách Chúa.
Chúng ta hãy nài xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn để nhận ra mình lầm lỗi - luôn thành thật để không tự dối mình và luôn say yêu học hỏi chân lý, để chân lý giải thoát chúng ta.
3. Giới thiệu bài mới :
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Người và hưởng hạnh phúc với Người, nhưng con người đã sa ngã phạm tội. Không những tổ tông phạm tội mà cả chúng ta cũng đã phạm tội. Chúng ta đã học đề tài này ở cấp I (b.17 ĐBTT). Tuy nhiên, tội lỗi vẫn cứ đeo đuổi chúng ta. Chúng ta cần phát hiện và hiểu biết kỹ hơn để gớm ghiếc, xa tránh. Đó là nội dung bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lần kia, mấy môn đệ của Chúa chưa rửa tay mà đã vào bàn ăn. Các Pharisiêu thấy vậy, liền bắt bẻ, mắng vốn các môn đệ với Chúa Giêsu : “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ?” Các em biết Chúa Giêsu nói sao không ? Chúa đã vạch trần những tội lỗi và tính cách giả hình của họ bằng việc lặp lại lời ngôn sứ Isaia : “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thơ phượng Ta thì cũng vô ích vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,1-7), lần khác Chúa còn nặng lời với họ hơn nữa, mời các em lắng nghe (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 23,25-28)
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén dĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúa Giêsu đã nặng lời với các kinh sư và Pha-ri-sêu như thế đó. Tại sao vậy ? Vì họ chỉ chú trọng tới hình thức bên ngoài, coi thường Điều Răn của Chúa, cặn kẽ tuân giữ truyền thống tiền nhân, quên lãng cái cốt lõi của lề luật. Họ cố chấp và chai lỳ trong tội, nhưng lại cho mình là công chính. Lời Chúa nói về các kinh sư và Pharisêu cũng chính là lời cảnh tỉnh chúng ta trong nếp sống đạo hôm nay (mời các em ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Tội là gì ?
Các môn đệ chưa rửa tay đã vào bàn ăn. Những người Do thái cho đó là ô uế, là tội. Còn Chúa Giêsu lại không khiển trách gì. Ngược lại, các kinh sư và Pha-ri-sêu đi đứng đàng hoàng, cặn kẽ giữ những tập tục cha ông thì lại bị Chúa Giêsu nặng lời chỉ trích. Vậy tội là gì ? (Bằng những thí dụ rút từ Thánh Kinh, GLV giúp cho các em nhận định ra tội :)
- Chúa cho Ađam - Evà hưởng dùng mọi trái cây, nhưng cấm ăn trái cây biết lành dữ. Ađam - Evà đã không nghe theo Lời Chúa : Ađam - Evà đã phạm tội (x. St 3,1-24).
- Cain thấy của lễ của Abel, em ông, được Chúa thương nhận, còn của ông thì không. Cain ghen với em, rủ em ra đồng và giết em ! Cain đã phạm tội giết người (x. St 4,1-8).
- Cả làng Sô-đô-ma và Gô-mô-ra không tìm được 10 người lành thánh ! nghĩa là cả làng đã phạm tội (x. St 18,12).
- Các anh của Giuse thấy Giuse được cha yêu thương, sinh lòng ghen ghét nên đã bán Giuse cho người Ismael : những người anh này đã phạm tôi bán em (x. St 37,28).
- Dân Do thái đã hò nhau đúc tượng bò vàng và thờ lạy bò vàng. Họ đã phạm tội thờ tà thần xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát họ (x. Xh 32,1-6).
- Người đàn bà bị bắt quả tang tằng tịu với người đàn ông : chị đã phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-4).
- Giuđa, một môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, đã bán Chúa Giêsu cho các thượng tế Do thái với gía 30 đồng bạc : Giuđa đã phạm tội phản bội (x. Mt 26,14-16).
- Và đến chúng ta, nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương mọi người như Chúa và Hội Thánh dạy, chúng ta cũng chẳng khác gì những con người trên đây (GLV có thể kể ra những tội thuộc lứa tuổi các em thường phạm...).
Tóm lại, tội là lời nói, việc làm hoặc ước muốn nghịch với Luật Chúa, luật Hội Thánh. Tội xúc phạm đến tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ và gây tổn thương cho bản thân cũng như cho tình liên đới với tha nhân.
2. Phân loại và hậu quả của tội.
Thứ năm tuần vừa rồi, Tuấn bỏ lễ đi chơi với bạn. Má tìm về nhắc nhở Tuấn phải siêng năng dự lễ để cầu nguyện cho bà nội đang đau nặng. Ba hôm sau, Tuấn tới gần cổng nhà thờ thì gặp Thanh và Trí, 2 đứa bạn. Chúng rủ Tuấn đi tắm, Tuấn ngần ngừ rồi từ chối. Thanh bảo : “Tụi mình đi tắm ở hồ bơi mới, đi đi Tuấn”. Thế là Tuấn ung dung ngồi lên xe của Thanh và 3 đứa thỏa thích bơi lội... Chợt bóng má Tuấn xuất hiện, nét mặt không vui ! Tuấn vội lấy áo rồi ngồi lên xe má, buồn thiu...Về đến nhà, Ba đang ngồi với cây roi trên bàn. Thế là Tuấn lãnh đủ 3 roi quắn mông !
Hai lần cùng bỏ lễ đi chơi mà sao thái độ ba má Tuấn khác vậy ? Có phải chỉ vì Tuấn tái phạm hay còn lý do gì khác ? Thánh Gioan Tông đồ hé mở cho chúng ta một tia sáng để nhận định 2 tội bỏ lễ của Tuấn. Mời các em lắng nghe (mời đứng).
Lời Chúa trong thư thánh Gioan tông đồ (1 Ga 5,16-17)
“Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy ; đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết. Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy. Mọi điều bất chính đều là tội nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a) Phân loại :
Thánh Gioan cho ta biết mọi điều bất chính là tội. Ham chơi bỏ lễ là điều bất chính, là tội. Hai lần Tuấn bỏ lễ là 2 ngày khác nhau :
- Lần đầu là thứ năm, không phải ngày buộc dự lễ. Tuấn ham chơi mà bỏ lễ. Tuấn phạm tội, nhưng chỉ là tội nhẹ.
- Lần sau, 3 ngày sau thứ năm tức Chúa nhật, có luật buộc dự lễ. Vậy mà Tuấn bỏ lễ Chúa nhật vì ham chơi. Tuấn phạm tội và là tội trọng. (GLV có thể vận dụng nhiều thí dụ cụ thể khác để giúp các em phân biệt tội trọng, tội nhẹ) (1).
Một lỗi phạm là tội trọng khi có đủ 3 yếu tố :
- Vi phạm luật Chúa và Hội thánh trong những điều quan trọng.
- Hoàn toàn ý thức đầy đủ khi hành động.
- Cố tình duy trì ước muốn, chờ cơ hội thực hiện hoặc đã thực hiện.
Một lỗi phạm là tội nhẹ khi thiếu một trong ba yếu tố trên.
Sự phân biệt này rất quan trọng không chỉ khi dọn mình xưng tội mà còn chính trong từng giây phút cuộc đời vì hậu quả khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ.
b) Hậu quả của tội :
- Tội trọng : Phân tích trường hợp của Giuđa cho dễ hiểu - Vì Giuđa đã bán nộp Chúa Giêsu như chúng ta đã nêu trên, chúng ta thấy tội của Giuđa :
+ Cắt đứt tình nghĩa với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa : Chúa Giêsu đau xót trước lỗi phạm của Giuđa (x. Ga 13,21-30 ; Mt 26,24 ; Lc 22,48). Người có tội trọng vì cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa nên không được Rước lễ khi tham dự Thánh lễ.
+ Phá hủy sự sống và phẩm giá cao quí của con người, của người môn đệ Chúa : từ khi trao nộp Chúa tại vườn cây Dầu, Giuđa không còn dám ngó mặt các môn đệ khác, tách biệt với cả những người mà Giuđa liên hiệp để phạm tội (x. Mt 27,3-5).
Vì sự sống bị phá hủy (chết về phần linh hồn), vì phẩm giá làm người, nhất là phẩm giá làm con Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, bị phá hủy nên mọi công việc hằng ngày không còn giá trị trước mặt Chúa, không tạo nên một công nghiệp đời sau.
+ Và vì không hối cải, tội trọng làm ta xa cách Chúa đời đời (x. Mt 25,5 ; 1 Ga 5,16).
Nhận biết những hậu quả tai hại của tội trọng như thế, chúng ta phải có thái độ dứt khoát không những với tội mà còn với cả những dịp tội đưa ta tới chỗ phạm tội (x. Mt 18,8-9). Hơn nữa, khi đã lỡ phạm tội trọng, chúng ta phải thật lòng thống hối, lo liệu đi xưng tội ngay và dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa.
- Tội nhẹ :
Tội nhẹ không gây hậu quả trầm trọng như tội trọng, nhưng cũng tác hại nhiều mặt :
+ Vết lọ mực trên áo sạch, trên khuôn mặt làm giảm vẻ đẹp thế nào thì tội nhẹ cũng làm cho linh hồn mất vẻ đẹp như thế.
+ Lòng yêu mến đòi hỏi thái độ hoàn hảo : càng yêu thương nhau, người ta càng cố gắng làm vừa lòng nhau. Một lỗi nhỏ đối với người chúng ta quí mến, làm đau lòng người đó nhiều. Tội nhẹ cũng vậy, làm phiền lòng Chúa là Đấng yêu thương ta nhiều và ta cũng muốn yêu thương Chúa nhiều. Tội nhẹ tác hại mối tương quan tình yêu này (GLV vận dụng những thí dụ trong tương quan tình bạn, tình cha mẹ...).
+ Tội nhẹ làm giảm bớt lòng yêu mến Chúa nên dễ hướng chiều về điều xấu và do đó dễ phạm tội trọng hơn.
Các em thân mến, việc phân loại và hiểu biết hậu quả của “tội trọng, tội nhẹ” không phải để các em chỉ cố gắng tránh xa tội trọng mà coi thường tội nhẹ. Người ta nói : “Cái sẩy làm nảy cái ung” : Từ một vết thương nhỏ, nếu không ý tứ sẽ thành ung nhọt khó chữa. Cũng thế, nếu các em coi thường tội nhẹ, sẽ dễ dàng sa vào tội trọng, và có thể kéo theo nhiều lầm lỗi khác. Ước chi các em biết và cảm thấy mình được Chúa yêu thương để luôn tìm cách suy nghĩ và hành động tốt nhé.
3. Bảy mối tội đầu.
Trong Do thái giáo, người ta dễ bị mắc ô uế : đụng vào xác chết là ô uế, gặp người phong cùi là ô uế, vào nhà dân ngoại là ô uế, chưa rửa tay mà ăn cũng là ô uế !... Chúa Giêsu đã kịch liệt phản đối quan niệm hẹp hòi, hình thức, bên ngoài này. Theo Chúa Giêsu, cái gì mới làm cho người ta ô uế ? Các em lắng nghe chính Người dạy (mời đứng).
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 15,19-20)
“Tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế ; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúa Giêsu cho thấy không phải cái bên ngoài làm cho người ta ra ô uế, nhưng những suy nghĩ xấu từ trong tâm hồn làm cho người ta phạm tội, những tội này lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen xấu, gọi là nết xấu. Có những nết xấu lại gây thêm những nết xấu khác nên gọi là nết xấu làm đầu hay mối tội đầu.
Sách Sáng thế kể rằng Ađam - Evà có 2 người con là Cain và Abel. Cain làm nghề nông, Abel làm nghề chăn nuôi. Cả 2 anh em cùng dâng lễ vật nhưng Thiên Chúa từ chối lễ vật của Cain, vì Cain ăn ở không tốt lành. Không những không biết lỗi để sửa, Cain lại ghen với Abel. Cain rủ Abel ra đồng chơi. Khi ở ngoài đồng, Cain đã xông vào giết Abel. Sau đó, Chúa hỏi : “Cain, em ngươi đâu ?” Cain lại nói láo : “Tôi không biết”. Các em thấy, khởi từ lòng ghen mà Cain đã phạm vào tội giết người, giết em, nói láo... Ghen ghét là nết xấu lớn dễ phát sinh các tội khác nên gọi là “mối tội đầu”. Người ta phát hiện 7 mối tội đầu. Đó là :
- Một là kiêu ngạo,
- Hai là hà tiện,
- Ba là dâm ô,
- Bốn là hờn giận,
- Năm là mê ăn uống,
- Sáu là ghen ghét,
- Bảy là lười biếng.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Phạm tội là từ chối tình yêu của Chúa, sẽ phải sống xa cách Chúa. Xin giúp chúng con tránh xa dịp tội để khỏi phạm tội làm mất lòng Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ” (Mt 23,25).
86. H. Tội là gì ? # (GLCG. 321)
T. Tội là lời nói, việc làm hoặc ước muốn nghịch với Luật Chúa. Tội xúc phạm đến Thiên Chúa, gây tổn thương cho bản thân và cho tình liên đới với tha nhân.
87. H. Thế nào là tội trọng ? # (GLCG. 322)
T. Tội trọng là cố tình phạm luật Thiên Chúa trong những điều quan trọng mà ta kịp suy biết.
88. H. Tội trọng làm hại ta thế nào ? # (GLCG. 323)
T. Tội trọng phá hủy sự sống và phẩm giá cao qúy của con người ; đồng thời cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa, và nếu không hối cải, thì sẽ phải xa cách Người đời đời.
89. H. Khi lỡ phạm tội trọng thì phải làm gì ? # (GLCG. 324)
T. Phải thực lòng thống hối và lo liệu đi xưng tội ngay, đồng thời dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa.
90. H. Thế nào là tội nhẹ ? # (GLCG. 325)
T. Tội nhẹ là khi lỗi phạm một điều luật nhẹ hoặc một điều luật nặng nhưng chưa kịp suy biết đầy đủ hoặc chưa hoàn toàn ưng theo.
91. H. Tội nhẹ làm hại ta thế nào ? # (GLCG. 326)
T. Tội nhẹ khiến ta giảm bớt lòng mến Chúa, dễ hướng chiều về điều xấu và dễ phạm tội trọng hơn.
92. H. Các tội ta phạm thường do những nết xấu nào ? # (GLCG. 327)
T. Thường do bảy nết xấu này, quen gọi là bảy mối tội đầu :
- Một là kiêu ngạo,
- Hai là hà tiện,
- Ba là dâm ô,
- Bốn là hờn giận,
- Năm là mê ăn uống,
- Sáu là ghen ghét,
- Bảy là lười biếng.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Vua thánh Louis có một bà mẹ rất thánh thiện, luôn nêu gương sáng cho con cái. Tối nào bà cũng đưa Louis vào giường ngủ, dịu dàng hôn lên trán con và nói : “Con ơi, mẹ thương con lắm nhưng thà mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con cố tình phạm tội trọng làm mất lòng Chúa”. Thế là, nhờ mẹ, Louis đã giữ được tâm hồn trong trắng suốt đời, xứng đáng là người con ngoan của Chúa.
Các em hãy bắt chước Louis, mỗi tối trước khi ngủ, em xét mình và sám hối lỗi lầm.
3. Bài làm ở nhà :
Em viết vào vở và đọc mỗi ngày, nhất là buổi sáng vừa khi thức dậy : “Lạy Chúa Giêsu, con thà chết còn hơn phạm tội trọng làm mất lòng Chúa”.
V. KẾT THÚC.
Chúa rất yêu thương chúng ta, Người biết chúng ta yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội nên Người sai Chúa Thánh Thần đến giữ gìn, nâng đỡ và thêm sức mạnh để chúng ta chiến thắng cám dỗ và tội lỗi. Vậy chúng ta hãy sống trong tâm tình cảm tạ và cầu xin Chúa Thánh Thần đến giúp ta.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5,17)
Ý chính : 1. Định nghĩa và phân loại (Rm 5,15.17)
2. Ơn Chúa hoạt động nơi ta (2 Cr 9,8.10).
3. Cộng tác với ơn Chúa.
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 1987-2029.
Tâm tình : Khao khát lãnh nhận và cộng tác với ơn Chúa.
Chuẩn bị : Bình hoa tươi, giá sách, cuốn Kinh thánh.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Hát bài “Hồng ân Thiên Chúa bao la” hoặc bài thích hợp.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong bài tội lỗi, chúng ta đã thấy phần nào những hậu quả khốc hại của tội là làm cho chúng ta phải xa cách Thiên Chúa đời đời. Hôm nay, qua bài ơn Chúa, các em sẽ hiểu sức mạnh quyền năng của ơn Chúa nâng đỡ và cứu chuộc chúng ta thế nào.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lần kia, Chúa Giêsu và các môn đệ vừa từ bờ hồ lên, người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt : “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi !” Lập tức người bại liệt đứng dậy, đi về nhà (x. Mt 9,1-7).
Câu chuyện này cho ta thấy người bại liệt hoàn toàn bất lực, không thể đi lại được. Nhưng lời nói đầy quyền năng của Chúa Giêsu đã biến đổi tình trạng bệnh nhân : anh đứng dậy đi về nhà ! Tự sức mình, bệnh nhân không làm gì được ; Chúa phán một lời, anh liền đứng dậy và đi về nhà. Đây là hình ảnh rõ ràng về ơn Chúa mà chúng ta muốn học hôm nay. Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa soi sáng : (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma
(Rm 5,15.17)
“Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi tóm lược :)
Con người, vì tội nguyên tổ và tội riêng, đã trở nên yếu đuối : “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm ; nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Quả thực, nếu không có ơn Chúa, chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15,5). (mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Định nghĩa và phân loại.
Người bất toại không tự sức làm được gì, ngay cả việc đi lại. Nay Chúa phán một lời “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi”, anh liền đứng lên được, đi được. Rõ rệt đây là sự trợ giúp của Chúa Giêsu - Sự trợ giúp của người khác dành cho mình thì gọi là ơn (GLV có thể phấn khích các em phát hiện ra các ơn người khác làm cho các em, rồi đúc kết :) Sự trợ giúp của Chúa thì gọi là ơn Chúa. Vì tội, chúng ta không còn khả năng sống tốt, sống thánh. Chính nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần tác động, chúng ta có thể sống xứng đáng là con Chúa và được dự phần vào sự sống thâm sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa :
- Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban cho ta sự sống mới, sự sống làm con Chúa. Thần Khí làm cho chúng ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Ap-ba ! Cha ơi” mà đã là con, thì cũng là thừa kế, đồng thừa kế với Chúa Kitô (x. Rm 8,14-17). Ơn này Chúa chỉ ban cho mỗi người một lần có tính lâu dài trong suốt cuộc đời. Trong chuyên môn gọi là ƠN THÁNH HÓA.
- Trong suốt cuộc đời Kitô hữu, Thiên Chúa còn “tài trợ” chúng ta bằng những ơn sủng của từng trường hợp, từng thời gian. Thí dụ : ơn thông minh khi học bài, ơn can đảm khi gặp khó khăn ; hoặc cho người này ơn tiên tri, người khác ơn chữa bệnh v.v... (x. 1 Cr 12,4-11).
Trong chuyên môn gọi là ƠN TRỢ GIÚP.
2. Ơn Chúa hoạt động nơi ta.
Kyrô, vua Ba tư, đã ra sắc chỉ cho dân Israel được hồi cư trở về quê cha đất tổ, tái thiết thành thánh và đền thờ Giêrusalem. Ông còn ra lệnh mở kho tàng nhà vua, trả lại tất cả những đồ vật và tài sản của Đền thờ, lại còn cho phép xử dụng tất cả kho tàng toàn địa hạt Babel để tái thiết thành thánh và đền thờ... Toàn dân đã phấn khởi trở về và bắt tay vào việc. Nhờ vậy, thành thánh và đền thờ Giêrusalem đã được tái thiết (x. sách Ezra, Nehemia và Is 44,28).
Đây chính là hình ảnh của ơn Chúa trợ giúp để mỗi người chúng ta tái thiết đền thờ Thiên Chúa nơi chính bản thân mình đã bị tội lỗi phá hủy. Không có trợ giúp của nhà vua, dân Do thái không thể tái thiết Đền thờ. Không có ơn Chúa, chúng ta không thể xây dựng đền thờ Thiên Chúa nơi con người chúng ta. Thánh Phaolô đã cho biết ơn Chúa hoạt động nơi ta thế nào, mời các em lắng nghe (mời đứng).
Lời Chúa trong thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô (2 Cr 9,8.10).
“Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện... Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Qua đoạn thư này, thánh Phaolô cho thấy :
- Thiên Chúa đủ quyền năng để tuôn đổ ân sủng Người cho chúng ta.
- Ân sủng là một sáng kiến của Thiên Chúa muốn trao ban cho con người để họ được đủ điều kiện mà sống thánh, và sinh hoa kết quả dồi dào.
Như vậy, ân sủng cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ con người, nhờ đó họ xứng đáng đón nhận ơn công chính, ơn thánh hóa và khi đã đón nhận, con người còn được nâng đỡ bằng các ân sủng khác để con người biết cộng tác mà làm cho ơn công chính biến đổi ta nên con người mới. Đồng thời, Thiên Chúa luôn hỗ trợ để ta biết duy trì, phát triển ơn công chính đó trong suốt cuộc đời trần thế. Đối chiếu, theo một nghĩa tương tự, biến cố hồi hương của dân Do thái trong câu chuyện dẫn nhập trên, ta thấy ơn công chính hóa tương tự như sắc chỉ giải phóng dân Do thái khỏi cảnh lưu đầy, được trở về quê cha đất tổ, ơn này đi theo người Do thái trong suốt những ngày sống tại Giêrusalem. Còn ơn trợ giúp tương tự như những vật tư, những kho tàng, những điều kiện thuận lợi mà nhà vua trao cho dân Do thái để xây dựng thành thánh và Đền thờ.
3. Cộng tác với ơn Chúa.
Cũng qua câu chuyện này, chúng ta thấy ân sủng cần thiết nhưng không thay thế nỗ lực bản thân mỗi người vì sự tự do của con người : đã có sắc chỉ của nhà vua, nhưng nếu người Do thái không hồi cư, họ vẫn cứ phải sống ở nơi đất khách quê người, không được sống nơi thành thánh và đền thờ. Những vật tư không giúp họ được gì. Cũng tương tự như vậy : Thiên Chúa sẵn sàng trao ban ân sủng, nhưng con người có nhận và có sử dụng không, thì điều đó còn tùy thuộc mỗi người. Bằng chứng : ơn cứu độ sẵn sàng và trao ban cho mọi người, nhưng nhiều người chưa đón nhận. Cả những người đã đón nhận, nhưng chưa nỗ lực cộng tác, phát huy ân sủng của Chúa nên vẫn chưa sống tốt, sống thánh.
Vậy thái độ của ta phải có là :
- Quí trọng hồng ân Bí tích Rửa tội : chính nhờ Bí tích Rửa tội mà ta lãnh nhận được ơn thánh hóa. Ơn này biến đổi chúng ta thành con Chúa và biến đổi mọi công ăn việc làm của ta trở thành những việc làm của người con, có “công nghiệp” trong nhà Chúa. Tuy nhiên, tội trọng làm tê liệt và vô hiệu tất cả. Vì thế, phải hết sức xa tránh tội, nhất là tội trọng và nếu lỡ phạm thì kíp thời phải đi xưng tội ngay để lấy lại tình trạng thánh thiện của người con Chúa.
- Luôn cầu xin Chúa Thánh Thần vì Người là Thầy nội tâm, Người chuẩn bị và giúp ta có điều kiện tốt nhất để lãnh nhận ân sủng, tác động và tăng trưởng những hiệu quả của ân sủng. Vì thế, ta luôn tỉnh thức để mau mắn đón nhận và nỗ lực cộng tác với ơn Chúa ban. Cụ thể, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích, tham dự các buổi cử hành Phụng vụ.
- Cầu xin và giúp mọi người chung quanh biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Đức bác ái và sứ mệnh truyền giáo của mỗi Kitô hữu thôi thúc chúng ta phải đến với anh em gần bên, giúp họ lãnh nhận và cộng tác tích cực với ơn Chúa.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, không có ơn Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ chẳng làm được gì tốt đẹp. Xin cho chúng con biết trông cậy và cộng tác với ơn Chúa trong mọi nơi mọi lúc, để chúng con luôn sống xứng đáng là người con của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5,17).
93. H. Bởi sức tự nhiên ta có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa không ? # (GLCG. 354)
T. Nếu không có ơn Chúa giúp thì chẳng được, như lời Chúa Giê-su phán rằng : “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5).
94. H. Ơn Chúa là gì ? # (GLCG. 355)
T. Ơn Chúa là sự trợ giúp Thiên Chúa ban, để ta sống xứng đáng là con cái Người và được dự phần vào sự sống thâm sâu của Ba Ngôi.
95. H. Có mấy thứ ơn Chúa ? # (GLCG. 356)
T. Có hai thứ :
- Một là ơn thánh hóa có tính cách thường xuyên,
- Hai là ơn trợ giúp tùy hoàn cảnh.
96. H. Ơn Chúa hoạt động nơi ta như thế nào ? (GLCG. 357)
T. Ơn Chúa thúc giục ta tin vào Chúa Ki-tô, rồi khi chịu phép Rửa tội ta được công chính hoá, tức là được tha tội, được thánh hóa và trở nên con người mới.
97. H. Ta phải cộng tác với ơn Chúa thế nào ? # (GLCG. 359)
T. Ta phải tỉnh thức để mau mắn đón nhận và nỗ lực cộng tác với ơn Thiên Chúa ban.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Lan và các bạn đi tham quan trại cùi. Vào trong trại, thấy cảnh tượng những người xấu số, ai cũng khiếp sợ. Nhưng Lan lại rất cảm động khi thấy những nữ tu dịu dàng với nét mặt tươi vui đang chăm sóc người bệnh. Lan và các bạn thắc mắc hỏi một dì :
- Làm sao dì có thể sống ở đây và hy sinh để làm những việc anh hùng như vậy ?
Dì tươi cười đáp :
- Chúa Giêsu đã yêu thương những người đau khổ này và Chúa Thánh Thần đã ban cho dì một tình yêu, một khả năng phục vụ những người đau khổ theo gương Chúa Giêsu. Cũng chính Chúa Thánh Thần là nguồn sống và là sự an ủi đối với những người trong trại cùi này.
Vậy chúng ta hãy luôn cố gắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần và mở rộng tâm hồn đón nhận ân huệ của Người. Cụ thể, trong mọi công việc, em luôn cầu xin và trông cậy ơn Chúa trợ giúp.
3. Bài làm ở nhà :
Em nhớ lại và viết vào vở ngày em lãnh nhận Bí tích Rửa tội và ngày Xưng tội Rước lễ lần đầu.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến,
Chúng ta sống, chúng ta hiện hữu tới hôm nay : Tất cả là nhờ ơn Chúa. Xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn sống trong tâm tình tạ ơn và nỗ lực cộng tác với ơn Chúa để sinh ích cho mình và cho mọi người.
Sáng Danh...
Bài 21 : Điều răn 1
THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5)
Ý chính : 1.Vị thế đặc biệt của Thiên Chúa (Đnl 6,4-5.9.13 ; Mt 22,37).
2. Lòng tin, cậy, mến (Rm 5,2-5).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 2084-2141.
Tâm tình : Luôn vui tươi vì có Chúa là Cha.
Chuẩn bị : Tranh con bò vàng ở Sinai.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Nhắc các em thinh lặng, tập trung hướng về Chúa, làm dấu thánh giá.
- Cầu nguyện hướng ý : Lạy Chúa, nhờ học giáo lý, chúng con biết Chúa là Cha nhân ái, toàn năng, cao cả. Xin Chúa ban ơn giúp chúng con thờ phượng kính mến Chúa trên hết mọi sự, từ bây giờ và trong suốt cuộc đời chúng con. Với tâm tình đó, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học này.
- Lạy Cha chúng con ở trên trời...
3. Giới thiệu bài mới :
Giới thiệu tổng quát 10 điều răn và đặc biệt Điều răn 1 :
Sống hạnh phúc và hạnh phúc đời đời vẫn là khát vọng thâm sâu của mọi người. Vì thế, con người luôn tìm kiếm những gì làm cho mình được hạnh phúc. Từ ngày tạo dựng, Thiên Chúa đã muốn làm cho con người được hạnh phúc (x. St 1,1-2,25). Nhưng tội lỗi đã làm mất hạnh phúc. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ký một giao ước (hợp đồng) tình yêu, qua Mô-sê, với dân Do thái dẫn đưa họ vào “đất hứa” và làm cho họ được hạnh phúc. Để giúp dân biết trung thành với giao ước đó, Thiên Chúa đã ban cho họ 10 Điều luật (x. Xh 19). Chúa Giêsu đã tái khẳng định và làm cho hoàn thiện, kiện toàn (x. Mt 5,17). Thực vậy, 10 điều răn chỉ có ý nghĩa đầy đủ ở trong Giao ước và là một khối duy nhất không thể tách rời nhau. Mỗi điều răn đều qui chiếu về tất cả các điều khác, các điều răn đều chi phối lẫn nhau (x. Jc 2,10). 10 điều răn nói lên những bổn phận căn bản của con người đối với Thiên Chúa (3 điều răn đầu tiên) và đối với tha nhân (7 điều răn sau). Vì thế, 10 điều răn có tính bắt buộc trong mọi thời đại và ở mọi nơi. Không có thẩm quyền nào được chuẩn miễn cho ai, 10 điều răn đã được Thiên Chúa ghi tạc vào lòng con người.
Giờ đây, chúng ta bắt đầu tìm hiểu giáo lý của mỗi điều răn mà điều răn 1 là Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trong một phiên tòa năm 1836, trước người tù trẻ 18 xuân xanh với dáng dấp thư sinh nho nhã, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, hứa hẹn một tương lai sán lạn, viên quan án khuyến dụ sẽ cho làm quan nếu bỏ đạo.
Chàng thanh niên trẻ tuổi ấy, chú Tôma Trần Văn Thiện, đã thẳng thắn trả lời : “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng chi danh vọng trần thế”.
Danh vọng không làm xiêu lòng ; đòn vọt, gông cùm không gây khiếp đảm, một trung kiên tôn thờ Thiên Chúa, Tôma Thiện đã được diễm phúc tử đạo ngày 21.09.1838.
Trước danh vọng ai không ham ; tù đày, đòn vọt.... ai không
sợ !? Vậy mà Tôma Thiện coi thường danh vọng, chấp nhận gian khổ. Tại sao ?
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật cho ta câu trả lời thích đáng - mời các em lắng nghe (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 6,4-5.9.13 ; x. Mt 22,37)
“Khi ấy, ông Môsê nói cùng dân chúng rằng : “Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em ... và phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em là Đấng anh em phải phụng thờ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Bài trích sách Đệ nhị luật các em vừa nghe chính là Giới răn hay Điều răn I Chúa dạy, để giúp Israel trung thành tôn thờ một mình Thiên Chúa. Không được thờ thần linh nào khác.
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu Giới răn quan trọng nhất này, vì đó là nghĩa vụ hàng đầu của con người, mọi nghĩa vụ khác đều phát xuất từ đó.
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Vị thế tuyệt đối của Thiên Chúa :
Tại sao Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự ? (GLV phấn khích các em đóng góp ý kiến - ghi lên bảng, nếu có, đặc biệt những ý tưởng sau :)
- Khi tạo dựng, Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc. Con người chỉ có hạnh phúc đích thực khi biết sống liên kết với Người (để sinh động, GLV có thể dựa vào giáo án bài 1,2 ĐBTT, b.1,2 LL.T.CTT giúp các em “khám phá” tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người).
- Khi tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa không loại bỏ nhưng đã hứa ban ơn cứu độ (x. St 3,15). Người đã chọn gọi Abraham để thiết lập một dân mới : chọn gọi Môsê giải thoát dân riêng khỏi ách nô lệ Ai cập. Thiên Chúa hằng dẫn dắt dân riêng qua các tổ phụ, các ngôn sứ... và cuối cùng sai Con Một của Người là Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm người để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa về làm con Thiên Chúa.
- Nhìn vào chính mình và mọi người, chúng ta khám phá ra tình yêu thương vô cùng của Thiên Chúa : Người đã ban cho ta sự sống, tài năng... để kiến tạo hạnh phúc. Thiên Chúa hằng mời gọi mọi người đón nhận ơn cứu độ để thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Như vậy, chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Người vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành và yêu thương ta.
Đàng khác, học về lịch sử Cựu ước, chúng ta đã thấy những người không thành tâm tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa đều gặp nhiều tại họa như lụt Hồng thủy (x. St 6,5-8-14), thành Sôđôma và Gômôra bị tiêu diệt (x. St 19,1-24) : chỉ những người tôn thờ Thiên Chúa mới được thoát nạn. Trong suốt dòng lịch sử dân riêng Do thái : khi họ trung thành với Thiên Chúa, họ được thịnh vượng, bình an ; ngược lại, khi bỏ Thiên Chúa mà thờ các thần khác, họ bị cảnh cáo và nếu chai lì, không trở với Thiên Chúa sẽ mất hạnh phúc, gặp tai họa về vật chất và tinh thần...
Tất cả những sự kiện ấy đều cho ta thấy vị thế tuyệt đối của Thiên Chúa trong tâm hồn và đời sống của từng người cũng như của cả tập thể, xưa nơi dân riêng Do thái, nay nơi dân mới là Hội thánh : Thiên Chúa là Đấng duy nhất phải tôn thờ - ngoài Thiên Chúa ra không có thần linh nào khác (x. 1 V 8,60). Chúa Giêsu đã tái khẳng định vị thế tuyệt đối này khi chống trả với Satan : “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10), Việc tôn thờ này không chỉ bằng môi miệng (x. Mt 15,8), cũng không chỉ trong tâm trí (x. Ga 2,17) nhưng phải bằng tất cả con người : suy nghĩ, lời nói, đời sống. Không những thế, việc tôn thờ này cần phải đặt lên trên mọi sự : không được làm tôi hai chủ (x. Mt 6,24), trên cả cha mẹ, vợ con, ruộng vườn... (x. Mt 11,37-39) và trên cả chính mạng sống mình (x. Lc 9,23-26).
Tóm lại, điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.
2. Lòng tin, cậy, mến đối với Thiên Chúa :
Ngày kia, Chúa Giêsu gọi các tông đồ lại và bảo các ông rằng: chim không gieo, không gặt, không có kho lẫm, thế mà không con nào bị bỏ chết đói. Người còn nói : bông huệ ngoài đồng, không kéo sợi, không dệt vải, thế mà dầu sang trọng như vua Sa-lô-môn cũng không có được một chiếc áo đẹp như thế, rồi Chúa kết luận : “Vậy hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho” (x. Lc 12,22-32). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn về lòng tin, cậy, mến phải có đối với Thiên Chúa. Mời các em lắng nghe (mời đứng) :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma
(Rm 5,2-5).
“Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay, chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế ; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng : ai gặp gian truân thì quen chịu đựng ; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên ; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
a) Lòng tin :
Đời sống luân lý của ta bắt nguồn nơi niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng đã dạy cho ta biết tình yêu của Người dành cho chúng ta. Đây là một sự vâng phục của niềm tin : tin tất cả những gì Thiên Chúa và Hội thánh dạy phải tin, một niềm tin chân thành, tín thác vì Thiên Chúa không bao giờ lừa dối ai ; một niềm tin không bao giờ nghi ngờ hoặc chối bỏ những gì Thiên Chúa đã mạc khải và Hội thánh dạy về chân lý đức tin và luân lý.
b) Lòng cậy :
Lịch sử cứu rỗi đã cho thấy Thiên Chúa là Đấng Trung thành (x. Lc 1,45) không bao giờ Người lừa dối ai và cũng chẳng để cho ai lừa dối Người. Chúa Giêsu đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của Thiên Chúa (x. St 3,15 và Ga 3,16). Vì thế chúng ta luôn phải phó thác mọi sự trong tay Chúa, nhất là trong những lúc gian truân, thử thách. Niềm trông cậy trung kiên này sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc.
Câu chuyện minh hoạ : Một ngày nọ, có con tàu chở hành khách đang căng buồm lướt sóng trên biển cả, thì bỗng trời nổi cơn giông tố. Trong khi con tàu chao đảo, các thủy thủ vội vã hạ buồm, chuẩn bị phao cấp cứu đề phòng bất trắc xảy ra, mọi hành khách trên tàu đều lo lắng, sợ hãi thì duy nhất có một cậu bé 12 tuổi vẫn thản nhiên đứng trên boong tàu. Bấy giờ một ông khách trên tàu lấy làm lạ, đã hỏi em:
- Cháu không sợ à ?
- Không, ba cháu là thuyền trưởng mà !...
Các em thân mến, thái độ thản nhiên của cậu bé 12 tuổi trên đây thật đáng ta suy nghĩ : em đã xem thường những nguy hiểm của giông tố chỉ vì em tin cậy vào ba em là thuyền trưởng, người đang điều khiển con tàu...
Cũng vậy, nếu chúng ta vững tin vào Thiên Chúa là Đấng Quyền năng luôn quan phòng và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, thì chúng ta đang chứng tỏ mình có một lòng trông cậy vững vàng đó.
c) Lòng mến :
Niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa bao hàm tiếng gọi và nghĩa vụ phải đáp lại tình yêu của Chúa bằng một lòng yêu mến chân thành. Điều răn 1 dạy ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự và mau mắn làm theo ý Chúa để đáp lại tình Chúa thương ta. Tình yêu này phải giúp ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ về tiền bạc, của cải, ham vui... Hơn thế nữa, vì yêu Chúa chân thành và trên hết mọi sự, nên chúng ta biết noi gương Chúa Kitô luôn vâng lời Chúa Cha, cụ thể biết vâng lời cha mẹ, thầy cô trong những điều phải đạo, biết tôn kính và vâng lời các Linh mục, GLV là những người thay mặt Chúa chăm sóc đời sống tôn giáo của chúng ta.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận biết và thờ phượng kính mến Chúa trên hết mọi sự, vì Chúa là Cha toàn năng toàn ái, và vì thờ phượng Chúa là một việc chính đáng và phải đạo.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5)
98. H. Điều răn thứ nhất dạy ta những gì ? # (GLCG. 369)
T. Điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.
99. H. Phải tin kính Thiên Chúa như thế nào ? (GLCG. 371)
T. Phải tin kính Thiên Chúa với tất cả lòng thành, không bao giờ nghi ngờ hoặc chối bỏ những gì Thiên Chúa đã mặc khải và Hội thánh dạy phải tin.
100.H.Phải trông cậy Thiên Chúa như thế nào ? (GLCG. 374)
T. Phải trông cậy vững vàng, luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa và mong chờ phúc lành Chúa ban đời này cũng như đời sau.
101.H.Ta phải yêu mến Thiên Chúa như thế nào ? (GLCG. 376)
T. Ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự và mau mắn làm theo ý Chúa để đáp lại tình Chúa thương ta.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Hoàng đã từng chứng kiến những thành tích vẻ vang của ba trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Vì thế, Hoàng hoàn toàn tín thác vào ba. Khi dự tính làm gì, Hoàng luôn lãnh ý ba. Khi ba không có mặt mà phải quyết định, bao giờ Hoàng cũng đặt câu hỏi : ba có muốn tôi làm việc này không ? Nếu Hoàng thấy việc đó đẹp lòng ba, khó mấy Hoàng cũng làm. Nếu việc đó không đẹp lòng ba, thích mấy Hoàng cũng không làm.
Noi gương Hoàng, trước khi định làm việc gì, em tự hỏi : Chúa có muốn tôi làm việc này không ?
3. Bài làm ở nhà :
Em quét dọn và trang trí lại bàn thờ tại gia đình cho đúng niềm tin Kitô giáo.
V. KẾT THÚC.
Học giáo lý để biết thực thi những gì Chúa muốn, đó là cách tôn thờ đẹp lòng Thiên Chúa, đồng thời cũng để tránh xa những lầm lạc, em quyết không xem những sách báo xấu, những phim ảnh nguy hại đến đức tin, làm chúng ta xa cách Chúa.Chúng ta tạ ơn Chúa.
Sáng Danh...
Bài 22 : Điều răn 2
TÔN KÍNH DANH THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Chúc tụng Danh Thánh Chúa,
tự giờ đây cho đến mãi muôn đời !
Ca ngợi Danh Thánh Chúa !
Từ rạng đông tới lúc chiều tà !” (Tv 112,2-3).
Ý chính : 1. Tôn kính Danh Thiên Chúa (Tv 112,2-3).
2. Tội nghịch Điều răn 2 (Lv 19,12)
3. Lời thề (1 V 20,12-13).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 2142-2167.
Tâm tình : Tin kính Danh Thiên Chúa.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (Tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, nhờ hồng ân Bí tích Rửa tội, chúng con được mang danh Kitô hữu. Xin cho chúng con luôn biết kính tôn Danh Chúa, và cảm thấy niềm vui vì được mang tên là Kitô hữu và là sự hiện diện của Chúa giữa trần gian.
3. Giới thiệu bài mới :
Tôn thờ Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi tôn kính Danh Thiên Chúa. Đây là nội dung bài Giáo lý hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Có lần trông thấy hai em bé trai đang đánh nhau, tôi đến can chúng ra và hỏi đầu đuôi câu chuyện, một em liền trả lời : “Tại nó chửi bố em...”
Các em thấy đó, không ai chịu nổi khi kẻ khác chửi tên cha mẹ mình. Cha mẹ chúng ta chỉ là người phàm mà chúng ta còn biết tôn kính tên của các ngài. Còn Danh Thiên Chúa thì sao ? Tác giả Thánh vịnh đã nói lên tâm tình phải có đối với Danh Thiên Chúa, mời các em hợp lòng cùng tác giả chúc tụng Danh thánh Chúa - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Thánh vịnh (Tv 112,2-3).
“Chúc tụng Danh Thánh Chúa,
Tự bây giờ cho đến mãi muôn đời !
Ca ngợi Danh Thánh Chúa,
Từ rạng đông cho đến buổi chiều tà !”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (Thinh lặng giây lát rồi mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Tôn kính Danh Thiên Chúa.
Trong 4 dòng thơ vắn gọn, tác giả thánh vịnh đã 2 lần nói tới “Danh Thánh Chúa” với tâm hồn chúc tụng, ca ngợi. Phần còn lại của lời thơ nói tới thời gian từng ngày và suốt cuộc đời chúc tụng, ca ngợi. Tất cả đều bộc lộ tâm tình tôn kính Danh Thiên Chúa.
Tâm tình này rất thích hợp với nền văn hóa dân tộc Việt Nam : từ ngàn xưa và tới nay, dân tộc ta vẫn tỏ lòng tôn kính tên gọi của mỗi người. Trong dân gian, người Việt Nam thường gọi nhau theo số thứ tự bắt đầu từ số 2 : Anh Hai - chị Ba - cô Tư... Có nơi gọi tên cha bằng tên người con trưởng (con cả). Khi đặt tên cho em bé mới sinh, cha mẹ phải hết sức tránh tên của một người nào trong bậc cha chú, kể cả tên của các bậc cha chú hàng xóm, láng giềng. Trong văn chương thi cử, một trong những lỗi các thí sinh phải hết sức tránh là tội phạm húy, nghĩa là trong bài làm tại trường thi, nếu có chữ nào nói tới tên của nhà vua (tên gọi, tên khai sinh, biệt hiệu.v.v...) thì không những bị loại tức khắc mà còn bị xử lý cấm thi một hoặc nhiều năm !
Với tâm tình văn hóa dân tộc này, người Kitô hữu Việt Nam dễ dàng đón nhận giáo huấn của Điều răn 2 : Tôn kính Danh Thiên Chúa. Tại núi Co-rép (Khoreb), Thiên Chúa mạc khải tên của Người cho Môsê : Tên Người là “Đấng Tự Hữu” (Xh 3,14). Cho biết tên của mình là điều thuộc về lãnh vực tâm sự và thân mật. “Thiên Chúa là Thánh” (Lv 11,44). Tên Người cao cả và đáng sợ (x. Tv 99,3). Danh Người thật chí thánh, chí tôn (Lc 1,49). Bởi vậy, con người không được lạm dụng Danh Thánh Thiên Chúa ; trái lại, chỉ nói đến Thánh Danh Thiên Chúa để chúc tụng, ngợi khen và tôn vinh.
Tóm lại, Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, vì Danh Người là Thánh.
2. Tội nghịch Điều răn 2.
Trong lịch sử các vua Do thái có truyện sau : Vua Sao-ul (Saul) khi nhìn thấy trại quân Philitin thì phát sợ và run hãi quá đỗi ! Sao-ul thỉnh vấn Giavê nhưng Giavê không đáp lại, vì Sao-ul ăn ở bất chính, mất nghĩa cùng Giavê ! Quá hoảng sợ, Sao-ul tìm đến một bà đồng bóng tại En-Đor. Bà này sợ chết không dám chiêu hồn, nên Sao-ul mới lấy Giavê mà thề với bà rằng : “Giavê hằng sống, bà sẽ không mắc vạ về chuyện này”. An tâm về lời thề của vua Sao-ul, bà lên đồng và điều trước tiên bà phát hiện là sự phỉnh gạt của Sao-ul, vì Sao-ul đã trá hình là người dân thường. Sau đó với lời của Samuel hiện về, Sao-ul đã ngã lăn sõng sượt trên đất (x. 1 Sm 28,3-10).
Các em thấy Sao-ul đã lấy danh Thiên Chúa mà thề nên ông đã gặp nguy cơ cho cả sinh mạng của ông. Ông đã phạm vào điều răn thứ 2 như Lời Chúa đã ngăn cấm : (mời đứng).
Lời Chúa trong sách Lêvi (Lv 19,12)
“Các ngươi không được lấy Danh Ta mà thề gian : làm thế là các ngươi xúc phạm đến Danh Thiên Chúa của các ngươi. Ta là Đức Chúa”.
- Đó là Lời Chúa.
+Tạ ơn Chúa. (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Việc làm của vua Sao-ul xưa và Lời Chúa trên đây cho ta biết phải tôn kính Danh Thiên Chúa bằng cách không được lạm dụng Danh Chúa, không được sử dụng cách bất xứng thánh Danh Thiên Chúa. Thí dụ : bất cứ việc nào, dù chỉ là việc nhỏ, cũng lấy danh Chúa mà thề : “Có Chúa làm chứng, tao thề...”
Việc chửi thề có nhắc tới Danh Chúa là tội nghịch Điều răn 2.
Cũng vậy, Điều răn 2 cấm sử dụng cách bất xứng Danh Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh.
Ngược lại, vì lòng tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, chúng ta buộc phải thực hiện những gì đã hứa nhân danh Chúa. Trong cuộc sống xã hội, con người đã không chấp nhận thái độ “hứa cuội”, “hứa hão”, “cho nhau leo cây”, “hứa lèo”,v.v.... phương chi nhân danh Chúa để hứa, nghĩa là đã nại đến vinh dự, sự trung thành, sự chân thật và uy quyền của Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành (x. Tv 144,13-18) mà quyết tâm làm điều gì vì lòng tôn kính Danh Chúa, chúng ta buộc phải thực hiện (x. Đnl 23,22-24).
Cũng lỗi Điều răn 2 khi nói phạm đến Hội thánh vì Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh. Điều cấm này khác với thái độ Đức tin kêu cầu Danh Chúa. Thí dụ : khi gặp tai nạn bất ưng, chúng ta kêu “Giêsu”. Đây là tiếng kêu của niềm tin, đây là lời cầu, xin Chúa phù trợ trong lúc nguy khốn. Tuy nhiên, cũng đừng kêu Danh Chúa một cách bừa bãi, thiếu ý thức.
Tóm lại, có những tội sau đây nghịch cùng điều răn 2 : (Câu GL 103)
- Một là sử dụng cách bất xứng Danh Thánh Thiên Chúa, Chúa Giê-su, Đức Mẹ và các Thánh,
- Hai là không giữ những điều đã thề hứa nhân danh Thiên Chúa,
- Ba là nói phạm đến Thiên Chúa và Hội thánh,
- Bốn là thề gian.
3. Lời thề.
Chúng ta còn nhớ tình bạn thân thiết giữa Đavit và Gio-na-than, con vua Sao-ul. Khi Đavit báo cho Gio-na-than biết vua Sao-ul có ý định giết mình, Gio-na-than đã có thái độ nào ? Mời các em lắng nghe chính lời Gio-na-than (mời đứng :)
Lời Chúa trong sách Các Vua (1 V 20,12-13)
“Gio-na-than nói với Đavit : Nhân danh Giavê, Thiên Chúa của Israel, ngay ngày mai và mốt nữa, tôi sẽ dò ý cha tôi và nếu tôi không tỏ cho anh biết ý cha tôi, thì xin Giavê xử với Gio-na-than như thế và còn khốn hơn thế”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Trên đây là lời của Gio-na-than nói với Đavít. Ông đã lấy danh Giavê để bảo chứng cho lời ông nói. Đó là lời thề.
Thề là lấy Danh Thiên Chúa làm chứng cho sự khẳng định của mình, nghĩa là lấy sự chân thật của Thiên Chúa để bảo chứng cho lòng chân thật của mình. Danh Thiên Chúa là Thánh. Vì thế, chỉ trong những việc thật hệ trọng như phải làm chứng cho sự thật trước tòa án, trước các vị lãnh đạo tôn giáo có thẩm quyền biết sự thật, ta mới được thề. Trong cuộc sống xã hội, ta buộc phải tôn trọng sự thật, có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là do ác quỉ (x.
Mt 5,33-37), cần chi phải thề thốt.
Nếu mỗi chút mỗi thề là điều không nên, thì việc thề gian, thề dối lại càng là điều xúc phạm đến Danh Thiên Chúa. Thề gian có nghĩa là lấy Danh Chúa làm chứng cho điều không có thật ; thề dối là giả vờ thề để đánh lạc hướng hoặc để che đậy một sự thật. Tất cả đều là tội nghịch với điều răn thứ 2.
Riêng với lứa tuổi các em, các em hãy nhớ Lời Chúa dạy : “Thầy bảo cho anh em biết : đừng thề chi cả. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ” (Mt 5,34.37). Hãy sống đơn sơ, chân thật trong lời nói cũng như trong hành động. Ca dao Việt Nam đã ca tụng tính ngay thật của trẻ em : “Trẻ ngay, già thật” hay “Ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ”.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, sứ mệnh của người tông đồ là làm cho mọi người nhận biết và tôn thờ Danh Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết sống yêu thương theo gương Chúa, để qua đời sống chúng con, mọi người nhận biết và ngợi khen Danh Cha trên trời.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chúc tụng danh thánh Chúa,
Tự giờ đây cho đến mãi muôn đời !
Ca ngợi danh thánh Chúa !
Từ rạng đông tới lúc chiều tà !” (Tv 112,2-3).
102. H. Điều răn thứ hai dạy ta sự gì ? # (GLCG. 383)
T. Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, vì Danh Người là Thánh
103. H. Có những tội nào nghịch điều răn thứ hai ? (GLCG. 384)
T. Có những tội này :
- Một là sử dụng cách bất xứng Danh Thánh Thiên Chúa, Chúa Giê-su, Đức Mẹ và các Thánh,
- Hai là không giữ những điều đã thề hứa nhân danh Thiên Chúa,
- Ba là nói phạm đến Thiên Chúa và Hội thánh,
- Bốn là thề gian.
104. H. Khi nào mới được lấy danh Thiên Chúa mà thề ? (GLCG. 385)
T. Chỉ khi có việc thật hệ trọng hoặc bề trên đòi buộc thì ta mới được lấy Danh Thiên Chúa mà thề. Khi đó, ta buộc phải giữ đúng lời thề để tôn trọng danh dự và uy quyền của Thiên Chúa.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Một em bé bệnh rất nguy hiểm, bác sĩ bảo em : “Này, ta có một điều muốn cho con biết, nhưng con phải tỏ ra anh hùng ! (ngừng một chút, bác sĩ tiếp :) - Con bị ung thư lưỡi, chắc chắn con phải giải phẫu. Kết quả là con sẽ không nói được nữa”. Em bé cúi đầu, khóc òa...
Bác sĩ rất thương em nên khi sắp mổ, ông ghé vào tai em trước khi gây mê và nói : “Con ơi, đây là lần cuối con có thể nói, vậy con muốn nói gì, hãy nói đi !”.
Em bé ngước nhìn lên và chỉ lặp đi lặp lại một tiếng với thái độ đầy cung kính : “Giêsu, Giêsu...” và em cứ nói thế đến khi thuốc mê làm em không biết nói gì nữa.
Noi gương em bé này, chúng ta sẽ làm gì để tôn kính Danh Chúa ?
Thực hành : Khi nghe Thánh Danh Giêsu, em nghiêm trang kính cẩn.
3. Bài làm ở nhà :
Viết tên thánh em vào các sách của em.
V. KẾT THÚC.
Để thể hiện lòng tôn kính Danh Chúa, các em cùng đứng lên dâng lời ca tụng Thiên Chúa.
Sáng Danh...
Bài 23 : Điều răn 3
THÁNH HOÁ NGÀY CHÚA NHẬT
Lời Chúa : “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, ... Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).
Ý chính : 1. Nguồn gốc ngày Chúa nhật (Xh 31,15-17).
2. Ý nghĩa ngày Chúa nhật (Ga 20,19-22).
3. Thánh hóa ngày Chúa nhật (Lc 2,41 ; Cv 2,42 ; Hc.PVT 14).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 2168-2159.
Tâm tình : Hân hoan vì được Chúa Giêsu giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ sự chết và sống lại của Người. Ta hãy sống ngày Chúa nhật trong tâm tình mến Chúa và yêu thương anh em.
Chuẩn bị : Tranh vẽ : Linh mục đang dâng thánh lễ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần. Xin cho chúng con biết tham dự tích cực, ý thức, sinh động và đầy đủ Thánh lễ ngày Chúa nhật và tận tình giúp đỡ mọi người cùng tham dự Thánh lễ như thế.
3. Giới thiệu bài mới :
Tôn thờ Thiên Chúa còn được biểu lộ trong thái độ và hành động của chúng ta đối với ngày Chúa nhật. Đây là nội dung bài giáo lý hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, thời An-ti-ô-cô, đã xảy ra một vụ giết người tập thể như sau :
Vua An-ti-ô-cô ban sắc chỉ trong toàn đế quốc, truyền mọi người phải bỏ các thần linh của mình để thờ thần Ba-al do nhà vua chỉ định. Dân Do thái bị bắt buộc phải bãi bỏ các lễ nghi nơi thánh điện và các truyền thống Do thái giáo, đốt phá sách giao ước. Ai bất tuân sẽ bị án tử hình. Nhiều người Do thái đã yếu lòng nên tuân theo lệnh nhà vua. Tuy nhiên, một số khác quyết tâm thờ Thiên Chúa và tuân giữ lề luật giao ước. Những người này ẩn trốn vào rừng núi, sa mạc. Các viên chức nhà vua đuổi theo và bắt gặp họ trong hang ẩn trú. Hôm đó, lại là ngày Hưu lễ (Sa-bat). Quân lính tấn công, những người Do thái trung thành với đạo không đánh trả lại, không ném một hòn đá, dù có tới ngàn người với đầy đủ vũ khí, dư sức chống trả quân lính. Thế là cả ngàn người đó bị giết vì tuân giữ luật ngày Hưu lễ (x. 1 Mcb 2,29-38).
Hưu lễ là ngày gì mà những người Do thái trung thành với lề luật đã đành chịu chết hơn là chiến đấu chống cự lại để được sống ? Sách Xuất hành cho ta biết lý do, chúng ta hãy lắng nghe - mời đứng:
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Xuất hành (Xh 31,15-17)
“Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày Sabát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Đức Chúa : kẻ nào làm việc trong ngày Sabát sẽ bị xử tử. Con cái Israel sẽ giữ ngày Sabát, nghĩa là nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ : đó là một giao ước vĩnh viễn. Đó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Israel ; vì trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ xả hơi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Nguồn gốc ngày Chúa nhật.
Trong luật cũ, Thiên Chúa đã truyền cho dân riêng, dân Do thái, phải dành ngày thứ bảy làm ngày lễ nghỉ (Hưu lễ) để tôn thờ Thiên Chúa và nghỉ ngơi thể xác. Luật này nghiêm cấm tất cả mọi sinh hoạt lao động, không được đốt lửa (x. Lv 35,3), mót củi (x. Ds 15,32-36), bứt bông lúa ăn (x. Lc 6,2) v.v... Ngày Hưu lễ được cử hành như một ngày tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai cập, mà Thiên Chúa đã thực hiện dưới sự lãnh đạo của Môsê. Việc tuân giữ luật Hưu lễ được coi như một trong những điều khoản quan trọng nhất trong Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân Do thái. Chính vì luật này mà những người Do thái trong câu chuyện trên đã không chống cự lại quân lính của nhà vua. Họ đành chịu chết để trung thành với đạo hơn là được sống mà vi phạm luật Chúa. Như vậy, giữ luật Hữu lễ là một việc tôn thờ Thiên Chúa. Tuân giữ ngày Hưu lễ là làm theo ý Chúa. Đó là cách tôn thờ đẹp lòng Chúa nhất (x. Ga 4,23).
Chúa Kitô đã chọn lễ Vượt Qua vào khoảng năm 30 để chịu chết và sống lại làm giá cứu chuộc muôn loài. Người đã biến đổi Hy lễ chiên bò xưa thành giao ước mới và vì vậy lễ Phục sinh trở thành lễVượt Qua mới, ngày Hưu lễ mới, tức ngày Chúa nhật. Và vì thế, ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc trở thành ngày Hưu lễ mới, mang ý nghĩa của ngày Hưu lễ cũ và được hoàn hảo nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Ngày nay, trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới, tên gọi của ngày này gắn liền với tên Chúa, như các em thường nói : “Ngày Chúa nhật”.
2. Ý nghĩa ngày Chúa nhật.
Tại một vùng truyền giáo nọ, người ta thấy có một người cụt 2 chân đến dự Thánh lễ 1 lần mỗi tháng. Một lần nọ, sau thánh lễ chiều, vị linh mục truyền giáo đến hỏi thăm anh què : - “Anh ở đâu đến ?” Anh đáp :
- Con ở cách đây khoảng 40 cây số đường rừng !
- Anh đi bằng cách nào ?
- Bằng cách này. Nói rồi anh biểu diễn cách đi của anh bằng 2 tay chống xuống đất và lê mông đi !
- Anh đi từ mấy giờ ?
- Từ sáng sớm, khi trời chưa sáng !
- Khi nào thì về đến nhà ?
- Nắng ráo thì sáng mai, trời mưa thì phải chiều thứ hai !
Có người giáo dân đứng bên chen vào :
- Cần gì đi vất vả vậy, ở nhà đọc kinh cũng đủ mà !
- Đành rằng thế, anh què đáp lại, nhưng con chấp nhận tất cả để ít nhất con được một thánh lễ mỗi tháng. Con còn muốn đi mỗi ngày Chúa nhật, nhưng vì con nghèo và què, nên đành phải chịu 1 tháng 1 lần !
Thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa nhật, có ý nghĩa gì mà người tín hữu tàn tật này thực hiện 1 việc quá sức của mình như thế ? Thánh Gioan cho ta thấy phần nào ý nghĩa khi thuật lại việc Chúa Giêsu sống lại - mời các em lắng nghe - mời đứng :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 20,19-22)
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện đến với các tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần. Người ban bình an cho các ông, Người “thổi hơi” vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Về phần các tông đồ, các ông được gặp Chúa Giêsu Phục sinh, được nhận ơn bình an, và được đón nhận “hơi thở mới” là Chúa Thánh Thần, các ông vui mừng.
Đoạn TM rất ngắn nhưng thật xúc tích, ẩn chứa nhiều ý nghĩa :
a) Cuộc sáng tạo mới :
- Ngày xưa, Thiên Chúa đã khởi công sáng tạo trời đất muôn loài, muôn vật vào “ngày thứ nhất” trong tuần (x. St 1,1-5) ; ngày nay Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết vào “ngày thứ nhất” trong tuần (x. Ga 20,19).
- Ngày xưa, Thiên Chúa đã “thổi hơi” trên xác thể con người vừa được tạo thành (x. St 2,7) làm cho con người có sinh khí, có sự sống ; ngày nay Chúa Giêsu Phục sinh “thổi hơi” và ban Thánh Thần cho các tông đồ (x. Ga 20,22) làm cho các ông được bình an, được vui mừng và ra đi loan báo Tin mừng cho muôn người.
Chúa Kitô Phục sinh đã biến đổi nỗi buồn, lo sợ của các tông đồ trở thành niềm vui, trở thành sức sống mới “những gì tai đã nghe, mắt đã thấy không thể không nói ra” (Cv 4,20) dù bị ngăn cản, tù đầy... Như vậy, ngày Chúa sống lại trở thành ngày sáng tạo mới, ngày thứ nhất của mọi ngày : mọi sự được đổi mới trong Chúa Kitô (x. Ep 4,23-24 ; 2 Cr 5,15.17).
b) Ngày lễ nghỉ mới :
- Ngày xưa, dân Israel được mời gọi cử hành ngày Hưu lễ vào ngày thứ bảy (sabát) noi gương Thiên Chúa, Đấng đã nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, sau 6 ngày làm việc tạo dựng trời đất muôn vật (x.
St 2,2-3 ; Xh 20,8-11) ; ngày nay, Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh vào ngày thứ nhất trong tuần, sau ngày Hưu lễ. Như vậy, ngày Chúa nhật dù bắt nguồn từ ngày Hưu lễ của Cựu ước, nhưng lại vượt khỏi ngày Hưu lễ để bước sang một ngày Hưu lễ mới : ngày Chúa Phục sinh. Đây là ngày đại lễ của các ngày lễ, ngày của Chúa, ngày Chúa nhật.
Hơn nữa, Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất, sau khi “an nghỉ” trong mồ ngày Hưu lễ (sabát), Chúa đã khai mạc “ngày mà Chúa đã làm nên” (x. St 1,5 ; Tv 117,24). Bữa ăn của Chúa là trung tâm điểm của ngày này vì đây là lúc mà toàn thể cộng đoàn tín hữu gặp Chúa Phục sinh của mình, Đấng mời gọi họ đến dự tiệc với Người (x. Ga 21,12), Đấng Phục sinh mà họ nhận ra trong khung cảnh của bữa ăn (x. Lc 24,30). Như vậy, ngày Chúa nhật hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ Do thái và hướng tới sự nghỉ ngơi muôn đời của con người nơi Thiên Chúa.
3. Thánh hóa ngày Chúa nhật.
a) Tham dự Thánh lễ :
Câu chuyện người cụt 2 chân trên kia cho chúng ta thấy việc đầu tiên phải làm trong ngày Chúa nhật là tham dự Thánh lễ. Truyền thống này đã có từ thời Cựu ước : trong ngày Hưu lễ, dân Do thái đã đến đền thờ Giêrusalem hoặc các Hội đường để đọc Sách Thánh và hát Thánh Vịnh. Vào ngày Đại lễ Vượt Qua, toàn dân Do thái đều Hành hương về Giêrusalem để tham dự các nghi lễ. Chính Chúa Giêsu và cha mẹ Người đã cùng cộng đoàn Do thái tuân giữ cặn kẽ các ngày Hưu lễ và Đại lễ Vượt Qua (x. Lc 2,41).
Cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ đã có thói quen cử hành và tham dự “nghi lễ bẻ bánh”(Thánh lễ)(x. Cv 2,42).
Do đó, việc đầu tiên người tín hữu phải làm trong ngày Chúa nhật là tham dự Thánh lễ. Việc tham dự này phải là sự tham dự tích cực, ý thức, sinh động và đầy đủ (x. HcPVT số 14).
b) Nghỉ việc phần xác :
Cũng như Thiên Chúa “đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy sau tất cả các công việc Người đã làm” (St 2,2), cuộc sống của con người cũng cần có những thì giờ nghỉ ngơi. Ngày Chúa nhật được đặt ra giúp mọi người được nghỉ ngơi và rảnh rang vun trồng đời sống gia đình, sinh hoạt văn hóa, xã hội và tôn giáo.
c) Làm việc thiện :
Vào một ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu vào Hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Chúa Giêsu bảo người bại tay : “Anh chỗi dậy, ra giữa đây.” Rồi Chúa Giêsu hỏi những người hiện diện : “Ngày Sabát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?” Mọi người làm thinh. Chúa Giêsu bảo anh bại tay : “Anh giơ tay ra”. Người ấy giơ ra và tay liền được chữa khỏi” (Mc 3,1-5). Câu chuyện này cho thấy rõ ý muốn của Chúa Giêsu về ngày Chúa nhật : Người muốn chúng ta làm việc thiện, bác ái.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhật là ngày Hội thánh mừng kính mầu nhiệm Phục sinh đem lại sự sống mới cho chúng con. Xin giúp chúng con biết thánh hóa ngày Chúa nhật để tôn thờ Chúa bằng việc dự lễ và làm những việc bác ái.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, ... Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20).
105. H. Điều răn thứ ba dạy ta những gì ? # (GLCG. 388)
T. Điều răn thứ ba dạy ta thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.
106. H. Ngày Chúa nhật có những ý nghĩa nào ? (GLCG. 389)
T. Có những ý nghĩa này :
- Một là nhắc nhớ việc sáng tạo mới, được thực hiện nhờ cuộc Phục sinh của Chúa Ki-tô vào ngày “thứ nhất trong tuần”,
- Hai là hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ Do thái và hướng tới sự nghỉ ngơi muôn đời nơi Thiên Chúa.
107. H. Ta phải làm gì để thánh hóa những ngày ấy ? # (GLCG. 390)
T. Ta phải dự thánh lễ, nghỉ việc xác và nên làm thêm các việc lành, như tham dự các giờ kinh chung, làm các việc bác ái và tông đồ.
108. H. Ta phải dự thánh lễ Chúa nhật thế nào cho đúng luật Hội
thánh ? #(GLCG. 391)
T. Phải tích cực tham dự thánh lễ từ đầu đến cuối, trừ khi được miễn chuẩn vì lý do chính đáng. Nếu ai cố tình bỏ lễ thì mắc tội trọng.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Kayak là một thiếu niên chăm học, nhà nghèo và lại là con trai lớn. Em vừa đi học vừa lo làm rẫy để giúp đỡ ba và kiếm miếng cơm manh áo cho gia đình. Bỗng mấy hôm liền, cô giáo không thấy em đến lớp, cô đến thăm, nghe tiếng rên, thì ra ba của Kayak ốm nặng, em phải ở nhà chăm sóc thuốc thang. Nhà có bò, phải bán để trả tiền thuốc. Cô giáo vào thăm người bệnh rồi ra gặp Kayak, em thưa với cô : “Chắc em phải nghỉ học, cô ạ ! Ba em đau, không ai ở nhà làm việc giúp má. Bỏ học, thấy cô buồn, em đau lòng lắm”. Cô giáo động viên : “Em cố gắng đi học lại, học một buổi, ở nhà một buổi. Chúa nhật nghỉ học, em tranh thủ làm thêm”. Kayak trả lời ngay : “Ngày Chúa nhật, mình đi lao động sao được ? Không đi nhà thờ được thì phải ở nhà đọc kinh cầu nguyện chứ cô ! Cô biết không, ngày Chúa nhật nào, gia đình em cũng họp nhau cầu nguyện và đọc Lời Chúa. Thôn em không có nhà thờ nhưng em không bao giờ bỏ cầu nguyện. Ngày Chúa nhật, mình đi lao động sao được cô ?”
Noi gương em Kayak, em luôn tham dự đầy đủ và sốt sắng thánh lễ Chúa nhật.
3. Bài làm ở nhà :
Ngày Chúa nhật tới, em tranh thủ đi thăm một bệnh nhân rồi em ghi vào tập bài làm cảm tưởng của em sau khi thăm bệnh nhân đó.
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở các em về bài học và việc làm thánh hóa ngày Chúa nhật rồi động viên tinh thần tạ ơn về ngày Chúa nhật.
Sáng Danh...
Bài 24 : Điều răn 4
THẢO KÍNH CHA MẸ
Lời Chúa : “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi” (Đnl 5,16)
Ý chính : 1. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam (Đnl 5,16).
2. Lòng hiếu thảo của Tin mừng (St 13,1-12 ; 42,1-45,15).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 2197-2257.
Tâm tình : Sung sướng và tạ ơn vì được sống đầm ấm trong gia đình.
Chuẩn bị : Tranh ảnh về gia đình.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu mến và vâng lời Đức Maria và Thánh Giuse trong suốt cuộc đời. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa để yêu mến và vâng lời cha mẹ chúng con.
3. Giới thiệu bài mới :
Sau ba giới răn về Thiên Chúa, Bản 10 điều răn hướng tới những người chung quanh mà trước tiên là những người sống trong cùng một gia đình. Chúng ta sẽ học về lòng thảo kính cha mẹ.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Thuở nhỏ, Mạnh Tử chơi với chúng bạn, xảy khi nào có điều gì lầm lỗi, thường bị cha mẹ la rầy và có khi sửa phạt, Mạnh Tử đều ngoan ngoãn nhận lỗi và xin lỗi cha mẹ. Một lần nọ, Mạnh Tử có điều lầm lỗi, bị mẹ sửa phạt. Bị phạt xong, Mạnh Tử khóc mãi không nín. Người mẹ lấy làm lạ, hỏi : “Mọi lần mẹ đánh con đau, con cũng không khóc như lần này !?” Ông thưa : “Những lần trước, con không khóc vì biết mẹ còn khỏe mạnh. Lần này, con thấy mẹ đánh không đau, con biết sức khỏe mẹ yếu nên con thương mẹ, con khóc”.
Mạnh Tử đã nói lên lòng hiếu thảo của người Á đông chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Còn đạo Công giáo dạy thế nào ? Chúng ta hãy nghe sách Đệ nhị luật dạy - mời đứng :
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 5,16)
“Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dâ#n giải nội dung giáo lý :
1. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam.
Lời Chúa trên đây đã củng cố cho đạo hiếu của dân tộc Việt Nam :
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam ta đã đề cao đạo hiếu. Chúng ta từng nghe hát : “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu... Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ông cha ta rất coi trọng đạo hiếu, nên tội bất hiếu là tội lớn nhất. Người con bất hiếu sẽ bị làng xóm chê cười, xã hội coi khinh.
Con cái phải biết ơn cha mẹ như câu ca dao Việt Nam : “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Hình ảnh ‘núi Thái Sơn’ to lớn nhắc ta nhớ đến công ơn trời biển của người cha phải vất vả “hai sương một nắng” để nuôi nấng con cái và giáo dục chúng theo đúng đạo làm người và làm con Thiên Chúa. Còn hình ảnh “nước trong nguồn” nói lên tình thương của mẹ bao la. Từ 9 tháng cưu mang, đến 3 năm bú mớm, giúp tập ăn, tập nói, tập đi, tập làm... nhất nhất do tay người mẹ.
Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam dạy ta thảo kính đối với ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi qua đời. Thảo kính không chỉ là kính trọng mà còn là sẵn sàng giúp đỡ ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần lúc các ngài cần đến.
2. Lòng hiếu thảo theo Hội thánh công giáo.
Giáo lý Công giáo đặt giới luật hiếu thảo liền sau 3 giới luật về Chúa và củng cố, kiện toàn đạo hiếu của dân tộc Việt Nam.
a) Bổn phận đối với cha mẹ :
Hội thánh Công giáo dạy tín hữu rất tỉ mĩ về lòng hiếu thảo.
+ Trước hết, ta phải tôn kính cha mẹ vì các ngài được Chúa đặt làm đại diện Chúa để chăm sóc nuôi dưỡng ta.
+ Thứ đến, phải vâng lời cha mẹ. Tại sao phải vâng lời cha mẹ ? Vì cha mẹ giàu kinh nghiệm, các ngài luôn thương yêu và muốn ta nên người tốt, luôn lo lắng cho ta được mọi sự lành. Hơn nữa, đức tin soi sáng cho chúng ta biết cha mẹ thay mặt Chúa để chăm sóc, yêu thương ta.
+ Khi lớn khôn, cùng với tâm tình và thái độ vâng lời cha mẹ, lòng hiếu thảo của chúng ta phải chân thành từ trong tâm hồn, biểu lộ qua lời nói và việc làm : đi thưa về chào, nhiệt tình làm việc chia sẻ gánh nặng với các ngài, quan tâm nhắc nhở anh chị em sống ngoan, bàn bạc và lãnh ý các ngài trong mọi dự tính...
+ Đặc biệt, khi cha mẹ già yếu, đau ốm, chúng ta tận tình chăm sóc cơm nước, thuốc thang và mời linh mục đến để các ngài lo việc linh hồn như xưng tội, rước lễ theo thời điểm thích hợp.
+ Rồi khi Chúa gọi các ngài về, cùng với tinh thần đạo hiếu của dân tộc, chúng ta phải lo liệu việc mai táng cho tươm tất, đúng với nghi thức dân tộc và công giáo, đừng lo lắng quá về cỗ bàn mà xao lãng việc cầu nguyện cho các ngài.
+ Hàng năm, phải nhớ ngày giỗ mà dâng kinh nguyện, xin lễ cầu hồn cùng dâng mọi công phúc hy sinh cầu nguyện cho các ngài.
Lòng hiếu thảo của dân tộc và của Tin mừng còn động viên chúng ta phải luôn sống tốt làm rạng danh các ngài “con giống cha là nhà có phúc”.
b) Bổn phận đối với những người trong gia tộc :
(GLV kể câu chuyện bác cháu Abraham và Lót trong St 13,1-12 rồi dẫn vào tình gia tộc :) Abraham đã biết nhường cho cháu, cháu Lót biết kính trọng bác nên tình nghĩa bác cháu không bị sứt mẻ, trái lại ngày thêm tốt đẹp. Cũng như một cây thường có nhiều cành, và những cành này hỗ trợ cho cành kia để cùng xanh tốt tạo nên sự tốt tươi của cây. Cũng vậy, trong gia tộc ta còn có ông bà, chú bác, cô dì... : những người này cùng chung huyết thống nên rất gần gũi với nhau. Người ta thường nói : “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”. Vì vậy ta có bổn phận phải biết ơn, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ, cầu nguyện cho mọi người trong gia tộc, khi còn sống cũng như khi đã an nghỉ.
c) Bổn phận đối với anh chị em :
(GLV lược kể câu chuyện Giuse và các anh em khi gặp nhau bên Ai cập trong St 42,1-45,15 để nêu bật tình anh em rồi dẫn vào nội dung bài :)
Ca dao Việt Nam có câu : “Anh em như thể tay chân, anh em hòa thuận song thân vui vầy”. Anh chị em cùng chung khúc ruột, cùng chung một bầu sữa mẹ, nên phải biết yêu thương, sống hòa thuận với nhau. Em biết vâng lời, tôn kính anh chị. Anh chị biết thương yêu, chăm sóc các em nhất là khi cha mẹ đã chết, ‘quyền huynh thế phụ’.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, dưới mái nhà Nadarét, Chúa đã nêu cho chúng con gương mẫu lòng hiếu thảo. Xin dạy chúng con biết sống ngoan với ông bà cha mẹ, hòa thuận với anh chị em và nhã nhặn với những người cùng sống với chúng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi” (Đnl 5,16).
109. H. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam dạy ta điều gì ? # (GLCG. 396)
T. Dạy ta thảo kính đối với ông bà cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời.
110. H. Theo Tin Mừng, Hội thánh dạy ta những nghĩa vụ nào để kiện toàn đạo hiếu ? (GLCG. 397)
T. Hội thánh dạy ta những nghĩa vụ này :
- Một là tôn kính, biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng.
- Hai là lo cho cha mẹ khi các ngài còn sống được đầy đủ về phần xác cũng như phần hồn.
- Ba là khi cha mẹ qua đời, phải lo việc an táng, hương khói, làm các việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài.
111. H. Ta có bổn phận nào đối với những người trong gia tộc ? (GLCG. 399)
T. Ta có bổn phận tỏ lòng biết ơn, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ và cầu nguyện cho mọi người trong gia tộc còn sống cũng như qua đời.
112. H. Anh chị em có bổn phận nào đối với nhau ? # (GLCG. 400)
T. Anh chị em trong gia đình phải biết kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Cuối đời Tây Hán, có ông Thái Thuận, tên chữ là Quản Trọng, mồ côi cha từ khi còn trẻ tuổi. Ông tôn kính mẹ rất là hiếu thảo. Thuở ấy trong nước có loạn Vương Màng, mùa màng không cầy cấy được nên gây cảnh đói kém thảm thương, ông Thuận đi kiếm trái dâu để thay vào các bữa ăn cho mẹ. Những trái chín đen thẫm và những trái mới chín đều được phân loại, để riêng ra từng nơi. Một tên tướng giặc là Xích My thấy thế, liền hỏi rằng :
- Vì sao lại còn bày vẽ như vậy ?
- Những trái chín thẫm - Ông Thuận trả lời - để riêng cho mẹ tôi, còn những trái đỏ chua chát kia là phần tôi.
Nghe vậy, bọn giặc cảm động trước lòng chân thành của người con chí hiếu, bèn đem gạo trắng, đùi trâu tặng Thái Thuận đem về nuôi mẹ !
Thái Thuận chỉ là người ngoại giáo mà còn có tâm tình hiếu thảo cao độ như thế, huống chi chúng ta là những Kitô hữu, thấm nhuần đạo lý Chúa Giêsu, không lẽ chúng ta lại thua lòng hiếu thảo của Thái Thuận sao ? Cậy dựa vào Lời Chúa, chúng ta xin Chúa nâng đỡ ban ơn để chúng ta xứng đáng là con cái hiếu thảo đối với các bậc cha mẹ chúng ta.
Noi gương Thái Thuận, em luôn vâng lời cha mẹ và những người trên.
3. Bài làm ở nhà :
- Cắt dán chữ : “Vâng Lời”.
- Một việc làm cụ thể về việc vâng lời cha mẹ.
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở lòng hiếu thảo đối với cha mẹ rồi hát, nếu biết, bài cầu cho cha mẹ, hoặc kinh Sáng Danh...
Bài 25 : Điều răn 5
TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
Lời Chúa : “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,15).
Ý chính : 1. Tôn trọng sự sống (Lv 24,17.19-22).
2. Tội nghịch Điều răn 5 (Mt 5,21-22).
3. Đời sống chung (1 Cr 1,10).
Qui chiếu : sách GLHTCG : các số 2258-2330.
Tâm tình : - Yêu mến, biết ơn Thiên Chúa đã ban sự sống cho ta.
- Biết quí trọng, thương yêu mọi người ; bảo vệ quyền lợi và sự sống của con người.
Chuẩn bị : Tranh em bé.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu sự sống bị mất đi do chiến tranh hận thù, có biết bao mầm sống bị đe dọa vì không được bảo vệ. Xin cho con biết tôn trọng sự sống của chính mình cũng như của anh em, vì chính Chúa đã chết để chúng con được sống và sống dồi dào.
3. Giới thiệu bài mới :
Điều răn 5 dạy ta phải tôn trọng sự sống. Sự tôn trọng này phát xuất từ lòng tôn thờ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Chúng ta cùng chăm chú học hiểu và thực hiện thật tốt.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ngày 04.10.1988, ngày lịch sử của ngành Y học Việt Nam, ngày mang lại sự sống cho hai bạn Việt - Đức. Để đạt được thành quả đó, các bác sĩ đã phải trải qua nhiều suy nghĩ, công sức nghiên cứu và lo lắng. Không riêng gì các bác sĩ, y tá có trách nhiệm trong ca mổ Việt - Đức, mà còn biết bao người theo dõi ca mổ, đều hồi hộp lo lắng cho sinh mạng của hai bạn Việt - Đức. Sau 14 tiếng đồng hồ trên bàn mổ, mũi kim cuối cùng vừa dứt, đôi mắt Đức chớp chớp mở ra,
mọi người đang theo dõi Tivi đều xúc động và thốt ra hai tiếng : “Sống rồi”.
Đây là một trong muôn vàn trường hợp nói lên lòng tôn trọng sự sống, nhất là sự sống con người... Điều này chứng tỏ ngay trong sâu kín của lòng mình, con người đã biết rằng tôn trọng sự sống là một điều tốt. Từ ngàn xưa, lòng tôn trọng sự sống đã trở thành điều luật của Thiên Chúa. Mời các em lắng nghe điều luật đó.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Lêvi (Lv 24,17.19-22)
“Nếu ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử.... Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta : chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng ; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy. Ai đánh chết một con vật, thì phải đền ; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử. Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người bản xứ, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Tôn trọng sự sống.
- Chính Thiên Chúa gieo mầm sống trong vũ trụ và tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa hằng sống. Chính Người thông ban sự sống cho chúng ta. “Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi, bỗng người trở thành một sinh linh” (St 2,7). Trước đây 100 năm, không ai trong chúng ta có mặt trên trái đất, chúng ta chẳng có quyền gì đòi mình phải được sinh ra, sinh ra là nam hay là nữ. Sau đây 100 năm, có lẽ cũng chẳng ai trong chúng ta còn sống. Và ngay bây giờ chúng ta cũng không biết chúng ta sẽ chết lúc nào... tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa : Người cho ai sinh ra tùy ý Người, Người cho ai là nam, là nữ, sinh ra lúc nào, ở đâu... tùy ý Người. Ai chết lúc nào, thế nào... cũng hoàn toàn tùy ý Người, nghĩa là chính Thiên Chúa là chủ sự sống (x. 1 Cr 36,13). Như thế, sự sống là một ân huệ Chúa ban, là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa ban cho con người.
- Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người để loài người được sống dồi dào hơn (x.Ga 10,10).
- Sự sống thuộc về Chúa. Con người sống trong sự quan phòng đầy yêu thương của Người, nên phải ý thức và có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ sự sống của mình và của mọi người.
a) Tôn trọng sự sống tự nhiên :
- Đối với bản thân :
+ Ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt đều đặn.
+ Có bệnh, phải lo chữa trị.
+ Luyện tập thể dục, học hành mở mang trí tuệ.
+ Không được hủy hoại thân thể hay tự sát...
+ Không nghiện ngập xì ke, ma túy, rượu chè say sưa. Nên nhớ: “tôn thờ” thân xác sẽ làm đảo lộn và giảm giá trị sự sống con người. Hơn nữa, sự sống thân xác này có lúc phải nhường chỗ cho những lợi ích cao quí hơn, khi lợi ích quốc gia, dân tộc đòi hỏi, con người phải biết hy sinh mạng sống để bảo vệ, xây dựng công ích.
- Đối với người khác :
+ Tôn trọng sự sống của người khác ngay từ khi hình thành trong lòng mẹ.
+ Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhau, chia cơm sẻ áo cho những ai đói nghèo, cô đơn, dám hiến máu để cứu sống người khác.
+ Không ẩu đả, đánh đập ai.
+ Không giận hờn, ghen ghét, oán thù.
+ Không đầu độc ai.
b) Tôn trọng sự sống siêu nhiên :
Sự sống siêu nhiên là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa thông ban cho ta để ta được nên giống Chúa Kitô, nên con hiếu thảo và đáng được hưởng gia nghiệp với Người trên trời.
Sự sống tự nhiên đã có giá trị như thế thì sự sống tinh thần và siêu nhiên của con người càng cao hơn. Do đó, chúng ta còn có trách nhiệm phát triển và sống xứng đáng nhân phẩm, không buông xuôi, đam mê, thoái hóa. Và nhất là khi cần thiết, người Kitô hữu biết hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin tôn giáo và cho giá trị siêu nhiên như các thánh tử đạo dám hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin ; và đặc biệt như Chúa Kitô, dám chết để chúng ta được sống : “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Các em thân mến, Thiên Chúa là chủ sự sống, và sự sống là ân huệ cao quí Thiên Chúa ban cho nhân loại. Rồi đây, khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta sẽ được Chúa Thánh Thần ban cho mọi ơn cần thiết để giúp ta biết sống xứng đáng phẩm giá loài người và làm con Chúa.
2. Tội nghịch Điều răn 5.
Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu không những nhắc lại giáo huấn của Cựu ước mà Người còn kiện toàn giáo huấn đó, mời các em lắng nghe lời Người - mời đứng :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 5,21-22)
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
- “Chớ giết người” là luật từ ngàn xưa, buộc mọi người phải tôn trọng sự sống, sự sống của mình và của mọi người trong bất cứ thời điểm nào của sự sống từ khi hình thành trong lòng mẹ cho đến khi qua đời. Vì thế, những ai cố ý giết người cách trực tiếp hay gián tiếp đều là tội sát nhân.
+ Trực tiếp như những người dùng khí giới hoặc thuốc độc hoặc cố ý giải phẫu làm chết người khác : đâm, chém, bắn, bỏ thuốc độc.v.v....
+ Gián tiếp : biết người khác bị mưu giết mà làm ngơ. Thấy người khác bị tai nạn, bị đói và mình có thể cứu giúp nhưng lại làm ngơ v.v...
- Cũng phạm tội giết người khi thực hiện hoặc đồng ý làm cho người khác chết êm dịu, chẳng hạn cho bệnh nhân uống hoặc chích thuốc mê, thuốc ngủ quá liều lượng khiến bệnh nhân chết...
- Càng phạm tội lỗi điều răn 5 khi tự sát : loại bỏ một phần cơ thể như chặt chân, chặt tay... hoặc loại bỏ sự sống mình như uống thuốc độc, thắt cổ, nhảy xuống sông tự tử v.v...
- Chúng ta còn phạm tội nghịch điều răn 5 khi phá hoại hoặc gây nguy hiểm cho sức khoẻ của mình và của người khác. Thí dụ : sống vô điều độ, phí phạm sức khỏe vào những việc bất chính
khi hăng say thì làm chết bỏ, khi chán nản thì buông xuôi, lười biếng v.v...
Ngoài những giáo huấn liên quan đến các tội xúc phạm đến chính sự sống tự nhiên trên đây, Chúa Giêsu còn kiện toàn điều răn 5 bằng cách cấm những thái độ giận hờn, mắng chửi, oán ghét, trả thù... Hơn nữa, Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ của Người biết giơ má trái cho kẻ đã vả má phải, trao cả áo ngoài cho kẻ kiện tụng đòi áo trong, đi luôn 2 dặm cho kẻ bắt đi 1 dặm, lấy ơn đền oán, không trả thù (x. Mt 5,21-22.38-48) : tất cả đều là tôn trọng sự sống, phẩm giá con người.
3. Đời sống chung.
Chuyện cổ La tinh có kể lại rằng : hai anh em Raymunđô và Saycunđô luôn chơi thân với nhau, nhưng tính tình nóng nảy nên cũng hay đánh lộn nhau. Dù vậy, chúng không bỏ nhau... Tác giả kết thúc câu chuyện tình bạn đó bằng những lời ngộ nghĩnh này : Raymunđô và Saycunđô lớn lên trong sự đánh nhau.
Các em thân mến, câu chuyện nhỏ trên đây có lẽ rất gần gũi với các em, vì ai trong chúng ta cũng đều thích sống chung với người khác : còn nhỏ, sống trong gia đình với cha mẹ, có anh chị em ; lớn lên sống chung với bạn học, bạn chòm xóm ; khi trưởng thành vào đời, sống chung với bạn đồng nghiệp, đồng chí.... nói chung con người có đời sống xã hội. Đời sống chung là môi trường sống của con người. Thánh Phaolô tông đồ, thay mặt Chúa, đã dạy chúng ta phải làm gì giúp cuộc sống chung, mời các em lắng nghe - mời đứng :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 1,10)
“Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Đời sống chung của cộng đoàn Côrintô có nguy cơ bị phân hóa, chia rẽ, nên thánh Phaolô đã nhắc lại giáo huấn của Chúa Kitô cho họ và cũng là cho chúng ta. Để đời sống chung được tốt đẹp, chúng ta cần :
- Bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù, gây bè phái, chia rẽ...
- Biết nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, sống hòa thuận một lòng một ý với nhau.
Muốn vậy, chúng ta phải luyện tập sự dịu hiền, biết quan tâm đến người khác : thấy ai bất hòa với nhau, hãy mau chóng động viên hòa giải, tha thứ, hết sức loại trừ sự giận hờn, thù oán, chửi nhau, đánh nhau...
Một thái độ vừa tự nhiên vừa đức tin trong đời sống chung là trước bất cứ việc nào, không vội vàng, hấp tấp phản ứng, nhưng biết bình tĩnh, dành giây lát để suy nghĩ, cầu nguyện tìm hiểu ý Chúa, xin ơn Chúa Thánh Thần rồi mới nói, mới hành động. Thái độ bình tĩnh này sẽ giúp chúng ta xây dựng đời sống chung tốt đẹp.
D. Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa là chủ sự sống. Chính Chúa thông ban sự sống cho muôn loài. Xin Chúa dạy chúng con biết tôn trọng sự sống nơi bản thân và nơi người khác vì đó là ý muốn và lệnh truyền của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,15).
113. H. Điều răn thứ năm dạy ta những gì ? # (GLCG. 404)
T. Điều răn thứ năm dạy ta qúy trọng sự sống tự nhiên và siêu nhiên của mình cũng như của người khác, và do đó, cấm mọi hình thức xâm phạm đến sự sống con người.
114. H. Có những tội nào nghịch với điều răn thứ năm ? (GLCG. 406)
T. Có những tội này :
- Một là cố sát, nghĩa là cố ý giết người cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
- Hai là làm chết êm dịu,
- Ba là tự sát,
- Bốn là phá hoại hoặc gây nguy hiểm cho sức khỏe của mình và của người khác,
115. H. Ta phải làm gì để giúp cuộc sống chung tốt đẹp ? # (GLCG. 408)
T. Mỗi người cần phải bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù. Cần luyện tập sự dịu hiền và biết quan tâm đến người khác, đồng thời phải cố gắng hết sức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hòa bình đích thực.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt Giáo Lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Monica khi còn nhỏ được một vú nuôi chăm sóc. Vú nuôi này rất khắt khe : cấm đoán đủ thứ kể cả việc uống nước ngoài bữa ăn. Bị cấm đoán quá đáng, Monica có những phản ứng tiêu cực : lén lút ăn vụng, uống trộm. Khi được sai đi ép rượu, Monica đã lén uống rượu. Ban đầu chỉ vì tò mò, chống đối lệnh khắt khe của vú nuôi, nhưng quen dần thành nghiện.
Một hôm, người đầy tớ phát hiện, đã nhục mạ chế diễu Monica. Monica vừa xấu hổ vừa uất ức nhưng rồi biết phục thiện, quyết bỏ thói xấu vì nghiện rượu là làm hư hại tinh thần và thể xác. Monica cũng biết tha thứ cho người đầy tớ kia. Nhờ thái độ kiên nhẫn bỏ tật xấu và biết tha thứ mà sau này Monica đã biết nhịn chồng, chiều con, đã cải hóa được chồng, cải thiện được con là Augustinô nên Vị thánh lớn trong Hội thánh.
Noi gương thánh Monica, em luôn biết tha thứ chứ không giận hờn, đánh đập người khác.
3. Bài làm ở nhà :
Em tự nguyện quét dọn nhà cửa sạch sẽ để tạo môi trường trong lành và ghi cảm tưởng của em sau khi làm việc đó.
V. KẾT THÚC.
(tương tự các bài trước).
Bài 26 : Điều răn 6+9
SỐNG TRONG SẠCH
Lời Chúa : “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu thì toàn thân sẽ tối”
(Mt 6,22)
Ý chính : 1. Sống trong sạch (Mt 5,27-28).
2. Cách thế giúp sống trong sạch (1 Tm 4,12-13).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 2331-2400 và 2514-2533
Tâm tình : Ước ao sống trong sạch để được xem thấy Chúa.
Chuẩn bị : Tranh phóng lớn của thánh Đaminh Saviô.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Chúa Giêsu đã hứa cho những ai có tâm hồn trong sạch, sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống đơn sơ trong trắng, biết cố gắng tránh cả những lỗi lầm nhỏ mọn, để luôn xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa hằng sống.
3. Dẫn vào bài mới :
Con người không chỉ có sự sống thể xác nhưng còn có tâm hồn. Vì thế, tôn trọng sự sống cũng có nghĩa là tôn trọng sự trong sạch của thể xác và tâm hồn. Đây là nội dung của bài giáo lý hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một lần nọ trong giờ chơi, đang đi giữa sân trường, Đaminh Saviô nghe một đám bạn trong lớp gọi : “Saviô, Saviô”. Thấy các bạn gọi, Saviô vội vã đi tới, một người bạn nói với Saviô : “Này Saviô, chúng mình có cái này hay lắm, cho cậu xem tí nè”. Vừa nhìn thấy bức hình, Saviô liền trả lời : “Không, tôi không muốn nhìn những bức ảnh xấu xa, bậy bạ. Tôi muốn giữ mắt tôi trong sạch, để sau này lên thiên đàng, tôi được nhìn ngắm Chúa Giêsu”. Nói xong, Saviô mạnh mẽ cầm lấy tấm hình và xé nát ra.
Các em thân mến, các em thấy không ? Thánh Saviô đã can đảm chiến thắng cám dỗ, tránh những hình ảnh xấu xa, để giữ con mắt tâm hồn luôn trong sạch, xứng đáng được nhìn thấy Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã dạy - mời các em chú ý lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 5,27-28)
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng : chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Sống trong sạch :
Chúa Giêsu nhắc lại luật xưa : không được sống dâm ô, ngoại tình.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và cho con người được tham dự vào đời sống thánh thiện, trong sáng (x. St 1,26-27). Thế nhưng, tội lỗi đã làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Cũng từ đó, con người lẩn trốn Thiên Chúa, biết xấu hổ, lấy lá che thân (x. St 3,7-9), và tâm hồn hướng về điều xấu. Con người có những ham hố bất chính. Để ngăn ngừa tội lỗi, Thiên Chúa đã ngăn cấm con người suy nghĩ, ước muốn, nói năng và làm những điều dâm ô, ước muốn hoặc lấy vợ chồng người. Những tội này làm hoen ố tâm hồn và thân xác con người. Riêng đối với các Kitô hữu, những tội dâm ô trên đây còn xúc phạm đến Đền thờ Chúa Thánh Thần vì nhờ Bí tích Rửa tội, thân xác và tâm hồn người Kitô hữu đã trở thành Đền thờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát vơi tội dâm ô : thà chột mắt, cụt tay, cụt chân hơn là có tất cả mà phạm tội dâm ô để phải sa hỏa ngục (x. Mt 18,8-9). Thánh Phaolô còn cho biết một lý do khác : mọi tội khác chỉ là những tội bên ngoài, nhưng tội dâm ô, trong tư tưởng hay hành động, đều phạm đến chính thân xác mình (x. 1 Cr 6,18), mà thân xác người Kitô hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, đã trở thành phần thân thể của Chúa Kitô. Chúng ta lại lấy phần thân thể của Chúa Kitô mà phạm tội sao ? (x. 1 Cr 6,15). Chúa Kitô đã chúc phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch vì sẽ được nhìn xem Thiên Chúa (x. Mt 5,8).
2. Cách thế giúp sống trong sạch :
Thái độ mạnh mẽ, dứt khoát của Đaminh Saviô trong câu chuyện dẫn nhập trên cho ta thấy cách thế giúp sống trong sạch. Thánh Phaolô cũng đã dạy Timôthê, người môn đệ, như sau, mời các em lắng nghe - mời đứng :
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê
(1 Tm 4,12-13)
“Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch. Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời khuyên dạy của thánh Phaolô dành cho Timôthê cũng là lời khuyên dạy cho chúng ta. Muốn sống trong sạch, chúng ta phải (GLV, bằng những hiểu biết, kinh nghiệm, trình bày những cách thế sau :)
- Một là chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
- Hai là sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
- Ba là sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.
- Bốn là năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh.
Tuy nhiên, không phải bất cứ hình ảnh, tư tưởng dâm ô nào xuất hiện trong tâm trí cũng đều làm ta phạm tội. Dù con người đã ra yếu đuối sau nguyên tội ; dù tư tưởng con người đã nghiêng chiều về điều xấu ; dù cuộc sống xã hội hưởng thụ và trần tục hôm nay đang ảnh hưởng trên tư tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng, những ý tưởng, hình ảnh dâm ô xuất hiện trong tâm trí ta không đương nhiên làm ta phạm tội. Ta chỉ phạm tội khi hoặc đã làm dịp cho những ý tưởng, hình ảnh ấy xuất hiện, thí dụ xem phim ảnh xấu, đọc sách báo xấu ; hoặc cố tình và nhất là khi nuôi ý muốn thực hiện. Trái lại, khi những ý tưởng, hình ảnh dâm ô xuất hiện mà ta cực lực chống lại, xua trừ thì ta có công phúc chiến đấu và chiến thắng vì vẫn giữ được tâm hồn trong sạch.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã phán : “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Xin giúp chúng con biết kiểm soát tâm trí và ngũ quan để chỉ nghĩ, nói năng, nhìn xem những gì đẹp lòng Chúa hầu có thể giữ tâm hồn trong sạch.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu thì toàn thân sẽ tối” (Mt 6,22).
116. H. Điều răn thứ chín dạy ta sự gì ? (GLCG. 434)
T. Điều răn thứ chín dạy ta phải sống trong sạch từ trong tư tưởng và chống lại những ham muốn xác thịt nghịch đức trong sạch.
117. H. Tại sao phải giữ sự trong sạch trong tâm hồn ? (GLCG. 435)
T. Vì tư tưởng và lòng trí trong sạch giúp ta dễ dàng nhìn mọi sự vật ở đời này theo tinh thần của Thiên Chúa, đồng thời là điều kiện giúp ta chiêm ngắm Thiên Chúa mai sau.
118. H. Muốn giữ tâm hồn trong sạch ta phải làm gì ? # (GLCG. 436)
T. Ta phải giữ những việc này :
- Một là chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
- Hai là sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
- Ba là sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.
- Bốn là năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh.
119. H. Khi có những hình ảnh, tư tưởng dâm ô trong tâm trí, ta phải làm gì ? (GLCG. 437)
T. Ta phải mau mắn loại bỏ và tránh dịp tội, đồng thời cầu xin Chúa và Đức Mẹ giúp ta thắng vượt cám dỗ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Tâm và Tài là đôi bạn thường đi học với nhau. Mọi khi Tài vẫn đến nhà Tâm rồi cùng đi đến trường, quãng đường vừa gần vừa sạch sẽ hơn. Nhưng từ hơn tuần nay, tại một ngã tư trên đường đi có trưng bày một bức tranh quảng cáo thiếu trong sạch. Tâm đề nghị với Tài cứ ở nhà, Tâm sẽ đến nhà Tài đi lối khác đến trường. Noi gương hai bạn Tâm-Tài, em quyết tránh xa dịp tội bằng cách không xem hình ảnh xấu.
3. Bài làm ở nhà :
Tìm đọc một đoạn sách tốt và ghi tóm tắt đoạn sách đó vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
Đáp lại lời mời gọi của Chúa trong thư thánh Phaolô : “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1 Cr 5,7-8). Chúng ta quyết tâm chăm chú học giáo lý và sống giáo lý về đức trong sạch.
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con quả tim trong sạch (Tv 51,12).
Sáng Danh...
Bài 27 : Điều răn 7
GIỮ SỰ CÔNG BẰNG
Lời Chúa : “Ngươi không được trộm cắp...” (Xh 20,15)
Ý chính : 1. Luật công bằng (Xh 20,1-2.15).
2. Tội nghịch Điều răn thứ bảy (Mt 5,15-26).
3. Giá trị thiên nhiên (St 1,11).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 2401 - 2463
Tâm tình : Thanh thoát về của cải.
Chuẩn bị : Tranh bàn cân 2 đĩa.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước)
2. Thánh hóa :
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã tạo dựng thế giới này cho mọi người và mỗi người đều có quyền được chia sẻ những điều tốt của cuộc sống.
Xin Cha cho chúng con luôn biết tôn trọng tài sản của người khác, không làm hại hay lấy đi những gì thuộc về người khác. Nhưng luôn biết chia sẻ cho những anh em nghèo khác để chúng con trở nên con cái Cha trên trời.
3. Dẫn vào bài mới :
Luật yêu thương người khác đòi buộc chúng ta phải tôn trọng của cải của họ. Đó là giữ sự công bằng. Hôm nay, chúng ta học đề tài này.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trong Cựu ước có kể câu chuyện này : Acáp, vua Israel, là con người độc ác, sống bê tha tội lỗi, xa hoa. Bên cạnh cung điện nhà vua có một vườn nho rất đẹp của Nabót. Acáp tham lam muốn chiếm đoạt, nhiều lần ông dạm mua lại, nhưng Nabót không bán vì đó là đất tổ tiên để lại. Acáp tức tối, cau có... Nghe lời vợ, ông cho người vu khống Nabót đã nói phạm thượng đến Thiên Chúa và tuyên án tử hình cho Nabót. Sau khi Nabót chết, vua và hoàng hậu đi chiếm lấy mảnh vườn. Ngôn sứ Êlia đã chặn nhà vua lại và nói : “Bởi vì vua nghe lời vợ làm điều bất chính, không giữ sự công bằng, đã cướp mảnh vườn của Nabót và âm mưu giết người ; nên chó sẽ liếm máu vua trên mảnh vườn này, còn vợ vua thì bị chó ăn thịt trong thành Samari”... Vua Acáp và Hoàng hậu Idabel đều bị chết thảm khốc như lời ngôn sứ tiên báo (x. 1 V 21,1-24). Chúa đã phạt Acáp và Idabel vì họ đã xâm phạm của cải người khác. Vậy chúng ta phải có thái độ nào đối với của cải người khác ? Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Xuất hành (Xh 20,1-2.15)
“Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây : “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ... Ngươi không được trộm cắp.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
1. Luật công bằng.
a) Quyền tư hữu :
- Thiên Chúa đã dựng nên loài người giống hình ảnh Người và ban cho loài người quyền cai quản vũ trụ, được hưởng những điều kiện để sống xứng đáng phẩm giá con người. Thiên Chúa phán : “Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ trên trái đất. Chúng sẽ là của ăn cho các ngươi” (St 1,29). Thiên Chúa cũng đã đặt luật công bằng trong lương tâm con người để họ biết tôn trọng quyền lợi chính đáng của người khác mà sống hạnh phúc với nhau trong tình yêu của Thiên Chúa (x. St 13,1-12).
- Ở núi Sinai, Thiên Chúa đã xác định lại điều luật đó một cách rõ ràng thành văn bản trong Điều răn thứ 7 và thứ 10 của mười điều răn Chúa ban cho dân Do thái (x. Xh 20,1-17).
- Thời Tân ước : Chúa Giêsu tái xác định luật công bằng một cách sâu sắc hơn. “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Con người phải giữ đức công bằng từ trong ý muốn : “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì các ngươi hãy làm cho người ta trước đã” (Mt 7,12).
b) Công bằng là gì ?
Công bằng là trao trả lại cho người khác những gì là của họ và ngược lại có quyền đòi người khác phải trả lại cho ta những gì là của ta (GLV diễn giải hình ảnh cái cân biểu tượng của luật công bình). Tài sản vật chất và tinh thần này bao gồm tất cả những gì có được cách công chính, không do các việc làm bất chính như trộm cắp, cướp giật, chứa của gian, tham ô, gây thiệt hại tài sản chung hay riêng, gây thiệt hại cho thanh danh người khác, phung phí của chung... (x. Lc 12,57-58).
2. Tội nghịch điều răn 7.
Trong bài giảng trên núi (x.Mt 5,1-7,27), thánh Matthêu ghi lại lời dạy của Chúa Giêsu về đức công bình. Chúng ta hãy lắng nghe - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 5,25-26)
“Anh em hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan tòa, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết : anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa. (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúa Giêsu cảnh tỉnh cho ta biết trước chúng ta phải thanh thoả luật công bằng với mọi người, vì chúng ta sẽ không tránh được tòa án chí công của Thiên Chúa ! Vậy có những tội nào lỗi đức công bình ? Thưa có 2 thứ tội này :
a) Tội lấy của người khác cách bất công. Đó là các tội :
- Một là trộm cướp,
- Hai là gian lận,
- Ba là cho vay ăn lời quá đáng,
- Bốn là nhận của hối lộ hoặc thâm lạm của công.
- Năm là đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng.
b) Tội giữ của người khác cách bất công. Đó là các tội :
- Một là không trả nợ,
- Hai là không hoàn lại của đã mượn hay lượm được,
- Ba là không trả tiền công xứng đáng,
- Bốn là trốn thuế,
- Năm là oa trữ của gian.
Khi đã lỗi đức công bằng, Chúa Giêsu dạy ta phải đền trả đến hết “đồng xu cuối cùng”(Mt 5,26), nghĩa là phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt, và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra.
3. Giá trị thiên nhiên.
Trên màn ảnh truyền hình của chương trình “Thế giới đó đây”, chúng ta được tham quan nhiều vùng cực kỳ ngoạn mục : những đồng cỏ xanh tươi bát ngát, những khu rừng trù phú thảo mộc, những thú rừng đông đảo tung tăng, những đàn chim líu lo tung cánh, hoặc những vùng biển bao la với muôn loài cá đủ loại... Thế nhưng chúng ta cũng được báo nguy : bao loài vật đã biến mất, bao khu rừng đã khô trọc... vì con người quên mất hoặc chưa biết đọc đoạn Kinh Thánh sau đây, mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong sách Sáng thế (St 1,11)
“Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống”. Liền có như vậy. Thiên Chúa phán : “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời”. Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh ra các sinh vật tùy theo loại : gia súc, giống vật bò dưới đất và dã thú tùy theo loại. Liền có như vậy.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa trên đây nhắc chúng ta nhớ rằng tài nguyên thiên nhiên đều do Thiên Chúa tạo thành và như thế Thiên Chúa là chủ muôn loài. Người đã thương trao ban cho con người hưởng dùng, nhưng con người không có quyền chiếm đoạt, sử dụng theo lòng tham lam và ích kỷ của mình. Còn muôn thế hệ tiếp theo con người hôm nay cũng có quyền sử dụng những tài sản thiên nhiên đó... Lòng tôn thờ Thiên Chúa là chủ muôn loài và ý thức liên đới, đòi buộc mỗi người phải biết tôn trọng môi sinh, sử dụng đúng đắn các thú vật, cỏ cây và vật chất vô tri giác vì ích lợi toàn diện của mọi người.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, chính Chúa đã ban phát mọi sự cho chúng con. Xin giúp chúng con biết tôn trọng và sử dụng của cải đúng như ý Chúa muốn. Xin giúp chúng con biết tôn trọng của cải của người khác, không tham lam hoặc làm thiệt hại tài sản của ai.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi không được trộm cắp...” (Xh 20,15).
120. H. Điều răn thứ bảy dạy ta những gì ? # (GLCG. 416)
T. Điều răn thứ bảy dạy ta sống công bằng theo hai nghĩa:
- Một là tôn trọng của cải người khác vì mỗi người được quyền có của cải riêng để bảo đảm nhân phẩm và nhu cầu cuộc sống gọi là quyền tư hữu.
- Hai là sử dụng của cải trong tinh thần liên đới và chia sẻ với mọi người, vì tài nguyên trong vũ trụ được Thiên Chúa ban chung cho mọi người.
121. H. Tội lấy của người khác cách bất công là những tội nào ?# (GLCG. 417)
T. Là những tội này :
- Một là trộm cướp,
- Hai là gian lận,
- Ba là cho vay ăn lời quá đáng,
- Bốn là nhận của hối lộ hoặc thâm lạm của công.
- Năm là đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng.
122. H. Tội giữ của người khác cách bất công là những tội nào ? # (GLCG. 418)
T. Là những tội này :
- Một là không trả nợ,
- Hai là không hoàn lại của đã mượn hay lượm được,
- Ba là không trả tiền công xứng đáng,
- Bốn là trốn thuế,
- Năm là oa trữ của gian.
123. H. Kẻ đã lỗi đức công bình thì phải làm thế nào ? # (GLCG. 420)
T. Phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt, và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra.
124. H. Điều răn thứ bảy dạy ta điều gì về giá trị thiên nhiên ? (GLCG. 421)
T. Điều răn thứ bảy còn dạy ta tôn trọng môi sinh, sử dụng đúng đắn các thú vật, cỏ cây và vật chất vô tri giác vì ích lợi toàn diện của mọi người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Ông William Johnston, một người Mỹ da đen thất nghiệp, nhặt được số tiền đánh rơi chẵn 240 đôla, toàn giấy 10 và 20 trên một đường phố tại Los Angeles, bang California. Ông đã trả lại cho người đánh rơi toàn bộ số tiền trên.
Mọi người phải thán phục những ai có tâm hồn lương thiện. Điều quan trọng là trong chính lương tâm sâu kín của người sống lương thiện, công bằng luôn cảm thấy một niềm vui và bình an.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết sống xứng đáng với Đấng chí thánh chí công mà chúng ta tin thờ.
Vậy em quyết tâm không lấy hoặc làm hại đồ vật, tài sản của ai.
3. Bài làm ở nhà :
Em tự vấn và kiểm tra xem còn giữ cái gì của ai, sớm hoàn trả và ghi vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
Trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều dịp để chúng ta thực hành đức công bằng, như chu toàn bổn phận, sống có trách nhiệm, giữ gìn của công... Đó cũng là một cách làm việc tông đồ cho Chúa.
“Lạy Chúa, nhiều khi công việc truyền giáo bị chậm trễ một phần cũng tại nếp sống thiếu công bằng của người Kitô hữu. Xin biến chúng con thành những người luôn sống công bằng trong mọi lúc”.
Sáng Danh...
Bài 28 : Điều răn 8
TÔN TRỌNG SỰ THẬT
Lời Chúa : “Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25).
Ý chính : 1. Tôn trọng sự thật (Ep 4,22-25).
2. Tội nghịch Điều răn thứ tám (Cv 5,1-10).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 2464 - 2513
Tâm tình : yêu mến và tôn trọng sự thật.
Chuẩn bị : - Tranh Chúa Giêsu trước tòa án Philatô.
- Tranh các thánh Tử đạo.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước).
2. Thánh hóa :
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta”Tôn trọng sự thật”. Khi nói dối, nói xấu, chúng ta làm hại chính chúng ta và người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta biết thực hành Lời Chúa : “Có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
3. Dẫn vào bài mới :
Lòng yêu thương người khác đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật. Đây chính là yêu cầu chính đáng và cần thiết cho cuộc sống chung với mọi người. Mời các em bước vào đề tài này.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ngày xưa, tại một nước nọ, có ông vua đã già nhưng không có con nối ngôi. Ông ra thông báo sẽ chọn một em bé nối ngôi với qui định : “Mọi em thiếu nhi đều được trao một ít hạt giống hoa, em nào gieo trồng và chăm sóc được những cây hoa tốt nhất, sẽ được nhận làm con, có quyền nối ngôi vua”. Nghe tin đó, trẻ em khắp nước ùn ùn kéo đến nhận hạt giống mang về nhà trồng. Một em bé nghèo khổ tên là Nia cũng đến nhận hạt giống vua trao. Em bỏ ra nhiều công chăm sóc, vun tưới cho hạt giống. Thời gian mau chóng trôi qua, đã đến ngày các em phải mang chậu hoa của mình đến. Ôi ! một ngàn lẻ một bông hoa tươi sắc rực rỡ. Những chậu hoa kiểng xinh tươi lần lượt được dâng vua. Nhưng nhà vua nhìn những chậu hoa ấy một cách hững hờ, chán nản, lắc đầu... Nia cũng đến, trên tay em chỉ là một chậu đất không có một cây nào mọc lên cả. Nhà vua hỏi : “Hoa của con đâu ?” Nia trả lời trong khi hai dòng nước mắt lăn dài trên má : “Thưa Đức vua, con ra công xới đất, gieo hạt giống do chính Ngài đưa, và tưới nước mỗi ngày, nhưng hạt vẫn không chịu nảy mầm. Con xin chịu tội với Đức vua”. Rồi em xòe hai bàn tay đã chai cứng cho vua coi. Nhà vua ôm lấy Nia và nói : “Đây chính là người mà ta dày công tìm kiếm để nuôi nấng dạy dỗ và mai kia sẽ truyền ngôi cho”. Rồi nhà vua hướng về đám đông đang tụ họp và nói : “Tất cả hạt giống các ngươi nhận được đều đã bị luộc chín cả, làm sao có thể lên bông được ! Chỉ có Nia là thành thật. Lòng thành thật của Nia còn quí hơn ngôi vua. Nia xứng đáng được ta truyền ngôi cho”.
Các em thân mến, lòng thành thật là một trong những điều quí nhất của con người, nó quí trọng hơn cả ngôi vua. Thánh Phaolô tông đồ đã củng cố nhận định này trong thư gửi tín hữu Ephêsô. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa : (Ep 4,22-25)
“Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau.”
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Tôn trọng sự thật :
a) Vì sao ta cần sống thành thật ?
Con người quí trọng sự thật và được mời gọi sống theo sự thật. Lời mời gọi và thái độ này có cơ sở vững chắc :
- Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng chân thật và là chính sự thật.
+ Thiên Chúa không lừa dối ai. Người hứa ban ơn cứu độ cho những ai nhận biết Người : “Sự sống đời đời là họ nhận biết Chúa, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên công bố : “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,5), “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14,
16-17)
+ Chúa Giêsu muốn thánh hiến chúng ta bằng sự thật : “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ, Lời Cha là sự thật” (Ga 17,17), và “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).
+ Chúa Giêsu dùng Thánh Thần chân lý để dạy dỗ ta : “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng hiện giờ anh em không có sức chịu nổi, khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).
- Sự thật làm tăng giá trị con người :
Người sống trong sự thật là người đã được giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ. Chúa Giêsu nói : “Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi ; các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,31b-32). Người sống trong sự thật chứng tỏ mình là con Thiên Chúa, “phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14), và hạnh phúc chỉ được tìm thấy khi sống trong sự thật.
- Sự thành thật rất cần cho đời sống chung : con người luôn sống chung với người khác. Cuộc sống chung này chỉ bền chặt và tốt đẹp khi mọi người tín nhiệm nhau. Muốn tín nhiệm nhau, tạo niềm tin cho nhau và cho cộng đoàn, mọi chuyện phải được diễn ra trong sự thật. Sự gian dối gây ra nghi kỵ, dè bỉu nhau, phá hủy sự hợp nhất của cộng đoàn.
b) Phải làm gì để tôn trọng sự thật ?
- Sống thành thực : Phải sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và thực hành lời Chúa Giêsu dạy : “Hễ có thì phải nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỉ” (Mt 5,33-37), thành thực trong tư tưởng, lời nói, việc làm.
- Can đảm làm chứng cho sự thật : Chúa Giêsu đã khẳng định trước mặt Philatô rằng : “Tôi đến trong thế gian là để làm chứng cho Sự Thật” (Ga 18,37). Trong những tình huống phải chứng tỏ đức tin của mình, người Kitô hữu phải can đảm tuyên xưng đức tin, không úp mở, tránh né. Các Thánh Tử đạo đã anh dũng chết cho lẽ phải, cho chân lý, các ngài là chứng nhân tuyệt hảo biểu lộ tâm hồn yêu mến và tôn trọng sự thật (x.Ga 15,26-27).
- Tôn trọng danh dự mọi người : con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26-27), có nhân phẩm rõ rệt, buộc mọi người phải tôn trọng. Hơn nữa, các Kitô hữu, nhờ Bí tích Rửa tội và ân huệ Chúa Thánh Thần, còn trở nên Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ được sống lại, nên càng phải được tôn trọng hơn. Danh dự là cái linh thánh, cao quí của con người, mọi người phải tôn trọng.
2. Những tội nghịch Điều răn 8.
(GLV lược kể câu chuyện Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra gian lận trong Cv 5,1-10 rồi vào đề :) vợ chồng Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra lăn ra chết tất tưởi vì đã nói dối thánh Phêrô. Đây quả là điều cảnh giác cho những ai sống nghịch cùng điều răn thứ tám : Đó là những tội này :
- Một là làm chứng gian dối và bội thề,
- Hai là làm mất thanh danh người khác như : nói hành, nói xấu, và vu khống, cáo gian.
- Ba là nói dối.
- Bốn là tán dương người khác khi họ làm điều xấu.
- Năm là không làm chứng cho sự thật.
Trong cuộc sống chung xã hội, cần phải sống thành thật, đặc biệt trong những trường hợp cần phải làm chứng công khai trước những người có quyền xét xử, sự thành thật lại càng là yếu tố quyết định để tìm ra sự thât. Thế nên, làm chứng gian nghĩa là nói sai sự thật trong việc hệ trọng thì tội sẽ trở thành nặng hơn. Khi lời nói dối có kèm theo lời thề thì gọi là bội thề hay thề gian (x. b.22).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến dạy dỗ chúng con những điều chân thật. Xin cho chúng con biết luôn sống thành thật trong tư tưởng, lời nói và việc làm, để tôn vinh Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25)
125. H. Điều răn thứ tám dạy ta những gì ? # (GLCG. 425)
T. Điều răn thứ tám dạy ta sống thành thật, làm chứng cho sự thật và tôn trọng danh dự mọi người.
126. H. Vì sao ta cần sống thành thật ? (GLCG. 426)
T. Ta cần sống thành thật vì ba lẽ này :
- Một là vì Thiên Chúa là Đấng Chân thật và là chính sự thật,
- Hai là vì sự thành thật làm tăng giá trị con người,
- Ba là vì sự thành thật rất cần cho đời sống chung.
127. H. Có những tội nào nghịch với điều răn thứ tám ? # (GLCG. 427)
T. Có những tội này :
- Một là làm chứng gian dối và bội thề,
- Hai là làm mất thanh danh người khác như : nói hành, nói xấu, và vu khống, cáo gian.
- Ba là nói dối.
- Bốn là tán dương người khác khi họ làm điều xấu.
- Năm là không làm chứng cho sự thật.
128. H. Làm chứng gian dối và bội thề là gì ? (GLCG. 428)
T. Làm chứng gian dối là nói sai sự thật về người hay việc nào đó cách công khai trước những người có thẩm quyền xét xử. Khi lời nói dối kèm theo lời thề thì gọi là bội thề hay thề gian.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Ông Gandhi, một vĩ nhân, lúc còn nhỏ, có lần trốn học. Về nhà sợ bị quở trách, ông nói dối mẹ. Bà mẹ biết, bèn nhất định không ăn cơm. Ông khóc lạy mẹ, van xin mẹ ăn, nhưng bà mẹ cương quyết không chịu thay đổi ý kiến. Bà nói : “Mẹ thà thấy con chết còn hơn là con nói dối, vì nói dối là tỏ ra mình khiếp nhược. Có con như thế là một cái nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa”. Gandhi bèn đứng lên, đi thẳng lại chỗ nấu ăn, lấy một cục than lửa để trên bàn tay và nói : “Con thề với mẹ rằng : từ rày về sau, con không bao giờ nói dối nữa”. Bà mẹ mừng quá, ôm con vào lòng, khóc mà nói : “Được vậy, thì mẹ mới đủ can đảm sống nữa với con”. Về sau, Gandhi trở thành một người nổi tiếng thành thật : không bao giờ thất hứa hay nói dối ai điều gì. Ông thường bảo người khác : “Cái vết trên bàn tay tôi đây là hình bóng mẹ tôi, không bao giờ rời bỏ tôi. Đây là vị thiên thần phù hộ tôi mãi ở trong vòng sự thật và danh dự”.
Vậy em quyết tâm suy nghĩ và nói đúng sự thật.
3. Bài làm ở nhà :
Viết vào tập bài làm lời nói của mẹ Gandhi “Mẹ thà thấy con chết còn hơn là con nói dối”.
V. KẾT THÚC.
Nhắc nhở nội dung bài, động viên sống thành thật, ngay thẳng rồi kết thúc với kinh Sáng Danh...
Bài 29 : Điều răn X
KHÔNG THAM LAM CỦA NGƯỜI
Lời Chúa : “Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Đnl 5,21).
Ý chính : 1. Không tham lam của người (Đnl 5,6.21).
2. Khắc phục những ham muốn bất chính (Mc 10,42-45).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 2534-2557
Tâm tình : Yêu mến, và mong ước sự lành cho người khác.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự các bài trước)
2. Thánh hóa :
Chính lòng tham lam chiếm đoạt đã làm bùng nổ những cuộc chiến tranh trên thế giới, và gây nên những cuộc ẩu đả, giận hờn trong đời sống thường ngày của chúng ta.
Chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin Thánh Thần của Chúa Giêsu, luôn khơi động trong chúng ta tinh thần ham muốn học hiểu giáo lý của Chúa, để chúng ta biết tiết chế những thèm khát bất chính hầu được hưởng sự an bình trong tâm hồn.
3. Dẫn vào bài mới :
Tình yêu thương đối với người khác phải là mối tình chân thật : vui cùng người vui, khóc cùng người khóc (x.Rm 12,15).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Sách Samuel có kể câu chuyện kỳ thú này : trong thành kia có 2 người, một người giàu, một người nghèo. Người giàu có chiên, dê, bò, vật nhiều lắm. Còn người nghèo chỉ vỏn vẹn có một con chiên cái nhỏ thôi. Ông nuôi nấng nó và nó lớn lên bên ông cùng bên con cái ông, nó ăn miếng bánh ông ăn, nó uống chén ông uống, nó nằm bên lòng ông ; đối với ông, nó không khác gì một đứa con gái của ông. Xảy ra có khách đến thăm ông nhà giàu, nhưng ông này tiếc của không bắt chiên hay bò của mình mà làm thịt đãi khách đến thăm ông ; ông lại bắt con chiên của người nghèo mà làm thịt đãi người đến nhà ông. Nghe thế, nộ khí Đavit bốc lên bừng bừng đối với người ấy; ông nói với Natan : “ Giavê hằng sống, nó đáng chết, con người đã làm điều ấy ! Nó phải hoàn lại gấp bốn con chiên ấy, vì việc làm và vì không biết thương xót !” (2 Sm 12,1-6).
Các em thân mến,
Ông nhà giàu đó có hàng trăm hàng ngàn con chiên, dê, bò... Vậy mà vẫn cứ tham, ích kỷ, ức hiếp người nghèo... ! Truyện này vẫn thường xảy ra trong xã hội loài người và có thể có ở nơi chúng ta. Chúng ta cần nghiêm chỉnh nghe và sống Lời Chúa dạy - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 5,6.21)
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập khỏi cảnh nô lệ... Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Không tham lam của người.
Khi đói ta thèm ăn, khi khát ta thèm uống, khi lạnh ta muốn được sưởi ấm, khi thức khuya ta buồn ngủ, khi mệt mỏi ta mong được nghỉ ngơi v.v... Đó là những ham muốn tự nhiên của con người vì nó giúp bảo vệ sự sống. Và như thế, có thể nói, những ham muốn này, tự nhiên là tốt. Ham muốn là khởi điểm để vươn lên hầu đạt tới những thành quả. Có ham muốn, con người mới phấn đấu để thành công (GLV có thể vận dụng những ham muốn tốt để thuyết phục nhận thức của các học viên). Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy con người không dễ giữ được mức độ hợp lý và công bằng trong những ham muốn đó. Trái lại, con người vẫn thường bị cám dỗ “được voi đòi tiên” (GLV có thể cho thêm những thí dụ cụ thể để giúp các học viên vừa nhận thức những ham muốn tự nhiên, vừa thấy lòng tham của con người, có thể vận dụng lại câu chuyện dẫn nhập trên).
Do đó, từ ngàn xưa, Thiên Chúa, vì lòng yêu thương con người, đã nhắc nhở, đúng hơn, ra lệnh cho con người, phải biết tự chế : không được ham muốn vợ người ta, không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, con bò, xe đạp, tập, viết, giầy dép, nón v.v... của người ta.Vì không tự chế được lòng mình nên sinh ra tham lam và ghen tị.
a) Tham lam :
Tham lam là ham mê của cải và thế lực do của cải đem lại “có tiền mua tiên cũng được” ; từ đó ta có thể làm hại người khác cách bất công về tài sản, đời sống. Câu chuyện người giàu và kẻ nghèo trên đây vẫn thường xảy ra trong cuộc sống ngày nay (GLV có thể vận dụng những ham danh, ham điểm mà gây ra tham lam, chiếm đoạt tình cảm thầy cô, bất chấp bạn bè, chiếm đoạt điểm cao, đồ đạc của bạn bè bằng cách gian lận, trộm cắp v.v...).
Tính tham lam làm cho con người trở thành “trùm sò”, ích kỷ, co cụm vào mình, chai lì trước những cảnh huống thương tâm của người chung quanh. Hơn nữa, tính tham lam còn làm cho con người trở thành nô lệ cho vật chất, nhận định mọi giá trị theo đồng tiền, theo vật chất..., quên mất sĩ diện và có thể làm điều gian ác, lừa thầy phản bạn như Giuđa đã bán Chúa Giêsu vì tham tiền... Tính tham lam khiến lòng ta ra mù quáng, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu và dễ sa ngã phạm tội...
Trong cuộc sống bon chen xô bồ hiện nay, người nào qúa ham mê vật chất, hưởng thụ, tiện nghi... thì lòng tham càng lớn mạnh. Quả thực, ham mê của cải là một tai họa lớn, phải quyết tâm loại trừ, xa tránh.
b) Ghen tị :
Đây là thái độ buồn phiền, tức bực khi thấy người khác có tiền, có của cải, có phương tiện, có uy tín... nên ước ao chiếm đoạt, mưu tính hạ nhục, gây thiệt hại cho người đó. Tính ghen tị này thường thấy xuất hiện giữa anh em trong cùng nhà, các học sinh trong cùng lớp, các bạn trẻ trong cùng nhóm v.v... Đây là nết xấu thứ sáu trong 7 mối tội đầu cần phải xa tránh, loại trừ (x. bài 19).
2. Khắc phục những ham muốn bất chính.
Lần kia, khi nghe Chúa Giêsu loan báo Người sẽ sống lại, 2 ông Giacôbê và Gioan mon men đến gần Chúa Giêsu và thưa : “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Chúa hỏi : “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì ?” Các ông thưa : “Xin cho 2 anh em chúng con, một người được ngồi bên phải, một người ngồi bên trái Thầy khi Thầy được vinh quang”... Chúa Giêsu bảo : chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống ; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu... Nghe vậy, Mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và Gioan (x. Mc 10,35-41).
Các em biết, Chúa Giêsu nói với các môn đệ thế nào không ? Mời các em lắng nghe chính lời Người - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 10,42-45)
“Anh em biết : những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy : ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy ông Giacôbê và Gioan đã có lòng tham lam địa vị, muốn làm lớn. Các em biết kiểu nói : “ngồi bên phải, ngồi bên trái” là cách nói để xin những địa vị to nhất bên cạnh một người có chức vụ cao. Chúa Giêsu vừa loan báo Người sẽ sống lại sau cuộc thương khó, các ông nghĩ ngay đến vinh quang Người sẽ chiếm được sau cuộc thương khó, nên 2 ông xin “ngồi bên phải, ngồi bên trái” nghĩa là xin 2 địa vị cao nhất bên Chúa Giêsu.
Đây không chỉ là lòng tham lam quyền hành của 2 ông, nhưng của cả 10 ông khác nữa nghĩa là của cả chúng ta đó. Lòng tham lam của cải, quyền bính... vẫn ngự trong lòng mỗi người, luôn chờ cơ hội để xuất hiện, để thực hiện... (x. Mc 10,42).
Biết vậy, Chúa Giêsu dạy các môn đệ xưa và chúng ta hôm nay cách thế khắc phục những ham muốn bất chính. Đó là tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và phục vụ. Chúa dạy : “Giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,43-44).
Luyện tập sống tinh thần khiêm tốn, khó nghèo : nghèo theo Tin mừng là giữ lòng siêu thoát đối với của cải, và sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho những người túng thiếu hơn. Sống tinh thần khiêm tốn, nghèo khó là đặt Chúa trên hết mọi sự, cậy trông phó thác nơi Người. Sống an vui mỗi ngày, biết sống vui với kẻ vui, khóc cùng người khóc (x. Rm 12,15), không ham mê của cải trần gian để chiếm đoạt phúc thật Chúa dành cho những người nghèo khó (x. Mt 5,3).
Phải điều chỉnh những ham muốn cho đúng đắn, cảnh giác trước sự quyến rũ và thế lực do tiền của lôi kéo. Và trên hết, luôn cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn những tư tưởng và hành động của ta, vì chính Chúa Thánh Thần mới có thể giúp ta khám phá những mặt tốt đẹp của cuộc đời. Chính Chúa Thánh Thần giúp ta biết cầu xin sự lành cho người khác và biết vui mừng khi người khác được may lành.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, mặc dầu Chúa giầu sang vô cùng, nhưng Chúa đã chấp nhận cuộc sống nghèo khó để nêu gương thanh bần cho chúng con. Xin giúp chúng con biết dẹp bỏ tính tham lam, ích kỷ, và biết vui mừng khi người khác được những điều may mắn.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Đnl 5,21).
129. H. Điều răn thứ mười dạy ta những gì ? # (GLCG. 438)
T. Điều răn thứ mười dạy ta giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, để không tham lam muốn lấy của người khác và không ghen tỵ với người khác.
130. H. Sự tham lam làm hại ta thế nào ? # (GLCG. 439)
T. Sự tham lam khiến lòng ta ra mù tối, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội.
131. H. Muốn chống lại tính ghen tỵ ta cần làm những gì ? (GLCG. 440)
T. Ta cần biết cầu xin sự lành cho người khác và xin ơn biết vui mừng khi họ được may lành.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Cậu Gioan Bosco được Cha xứ nuôi nấng để chuẩn bị vào chủng viện. Ngài rất quí và tín cẩn cậu. Nhưng rủi thay, Cha xứ đỡ đầu cho cậu lại sớm lâm bệnh nặng. Trước khi ly trần, Ngài gọi Gioan đến bên giường và nói : “Cha thương con và quyết lòng đưa con đến bàn thánh, nhưng nay thánh ý Chúa lại khác. Vậy chìa khóa đây, Cha trối lại tất cả gia tài của Cha cho con. Có gì con hãy bán hết mà ăn học để đạt tới mục đích Cha con ta mong ước”. Nói đoạn, Cha Don Cafassô tắt thở. Các Đấng bề trên hay tin đều về để lo việc mai táng. Bấy giờ Gioan Bosco thành thật thuật lại cơn bệnh cũng như lời trăn trối của người Cha khả kính trước lúc lìa trần. Vừa nói xong, cậu bé rút chìa khóa ở túi áo, kính cẩn trao cho Cha bề trên và nói : “Thưa Cha bề trên, con xin trao chìa khóa này cho Cha, con không nhận gì cả. Xin Cha bề trên dành tài sản này cho người nghèo. Trên thiên đàng Cha xứ quá cố của con cầu nguyện cho con là đủ rồi”.
Vậy em bắt chước Gioan Bosco : không tham lam của cải, nhưng dùng của cải cách quảng đại, giúp đỡ các bạn nghèo (trích ĐHV tr. 414).
Thực hành : Em sẵn sàng giúp đỡ các bạn nghèo.
3. Bài làm ở nhà :
Em chia sẻ một đồ vật gì của em cho một người bạn nghèo và ghi việc đó vào vở bài tập.
V. KẾT THÚC.
Noi gương Chúa sống nghèo, chết nghèo, em không vi phạm của cải, danh dự người khác. Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện công bình - bác ái với mọi người và biết mong ước sự lành cho người khác.
Sáng Danh...
PHẦN III
CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO
Lời Chúa : “Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua” (Lc 2,41).
Ý chính : 1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của phụng vụ (Lc 2,41-43.46.48-49)
2. Ngày Chúa nhật.
3. Năm Phụng vụ.
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1066 - 1112
Tâm tình : Khiêm tốn, vui mừng được tham dự Phụng vụ.
Chuẩn bị : Tranh một buổi cử hành Phụng vụ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : GLV niềm nở đón tiếp các em, sắp xếp các em vào ghế, điểm danh và báo cáo các em đau ốm (nếu có), để động viên các em cầu nguyện.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, trong tuổi nhỏ như chúng con, Chúa đã tỏ ra vui vẻ, mau mắn lanh lẹ khi được cùng với cha mẹ lên Đền thờ cầu nguyện và học hỏi, đàm đạo Kinh Thánh.
Xin cho những người trẻ chúng con đây mặc được tinh thần của Chúa, khi tham dự Thánh lễ và các nghi thức Phụng vụ, để tôn thờ, ca ngợi, tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa.
3. Giới thiệu tổng quát phần III và dẫn vào bài 30 :
Mầu nhiệm Kitô giáo là đối tượng của Đức tin (phần I). Mầu nhiệm ấy được tỏ bày trong đời sống mọi ngày của người tín hữu (phần II). Mầu nhiệm ấy được cử hành trong Phụng vụ (phần III). Đây là việc tuyên xưng công khai và chính thức của toàn thể Hội thánh. Nhờ cử hành Phụng vụ, chúng ta đón nhận mọi ân sủng cần thiết, nhất là bảy ơn Chúa Thánh Thần để tưới gội cho đời thường nhiều thách đố, phát sinh hoa trái ; đồng thời nhờ cử hành Phụng vụ, chúng ta tiến sâu vào đời sống với Chúa Ba Ngôi. Vì thế, sau khi đã học phần I (tuyên xưng đức tin) và phần II (sống trong Chúa Kitô), chương trình giáo lý cấp II tiếp tục với phần III (cử hành mầu nhiệm Kitô giáo), đặc biệt về Bí tích Thêm sức mà các em sẽ lãnh nhận vào cuối chương trình giáo lý cấp II. Chúng ta bước vào phần III, trước tiên với bài Phụng vụ (1).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ngày xưa có một tướng quân Aram tên là Na-a-man là người có thế giá trước mặt vua quan, nhưng ông lại mắc chứng phong cùi. Một cô gái Is-ra-el nói với bà vợ của Na-a-man : “Nếu Đức ông tôi được giáp mặt vị tiên tri ở Sa-ma-ri, ắt sẽ được chữa khỏi”. Được tin này, nhà vua bèn ban ngọc thư cùng lễ vật để Na-a-man lên đường tìm đến Êlisê, vị tiên tri xứ Sa-ma-ri. Êlisê sai sứ ra nói với Na-a-man : ông hãy đi tắm 7 lần trong sông Giođan, ông sẽ được khỏi bệnh. Na-a-man tức giận bỏ đi. Ông nói : “Kìa, ta cứ đinh ninh là hắn sẽ trịnh trọng đi ra rồi đứng dừng lại mà kêu khấn Danh Giavê Thiên Chúa của hắn. Đoạn khua tay đúng chỗ mà trừ bệnh phong cùi !” Các đầy tớ của ông khuyên giải, Na-a-man đành xuống sông tắm 7 lần theo lời người Thiên Chúa, da thịt ông trở lại như da thịt một trẻ nhỏ và ông đã được lành bệnh (x. 2 V 5,1-14).
Các em thân mến, người ta cũng thường nghĩ như Na-a-man : phải khua tay, múa chân, phải kêu gào, nhảy nhót... (x. 1 V 18,26-29) với những lễ vật chiên bò... mới là thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô khi đến trần gian đã thiết lập một lễ tế khác, chúng ta hãy dõi theo Lời Người qua trình thuật của thánh Luca - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Lc 2,41-43.46.48-49)
“Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết... Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi... Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người : “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” Người đáp : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi GLV gợi ý :)
Chúa Giêsu đã đến trần gian để thiết lập một thể thức mới về việc tôn thờ Thiên Chúa : Người đã tham dự nghi lễ của Cựu ước nhưng đồng thời đổi mới tâm tình và cách thức của nghi lễ phụng thờ. Người đã đến dâng chính mình “làm theo ý Cha” (Dt 10,9) để tôn thờ Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho muôn loài (mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Phụng vụ và tầm quan trọng của phụng vụ :
Dân tộc nào, thời đại nào, tôn giáo nào cũng có những lễ nghi thờ phượng thần linh. Riêng lễ nghi công giáo, có nguồn gốc từ trong Cựu ước do chính Thiên Chúa truyền dạy (x. Xh 20,22-26 ; Lv 17,1-16 ; v.v...), đã được Chúa Kitô kiện toàn và đổi mới (x. Lc 22,19-20) làm nên Phụng vụ của Hội thánh. Vậy Phụng vụ là những cử hành mà Hội thánh dâng lên Thiên Chúa để thực thi cách hoàn hảo chức vụ tư tế của Chúa Kitô toàn thể ngõ hầu tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người :
+ Chúa Kitô toàn thể : là toàn thể mọi thành phần dân Chúa, trong đó Chúa Kitô là Đầu.
+ Tôn vinh Thiên Chúa : vì Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống.
+ Hoàn hảo : vì qua Phụng vụ, chúng ta cùng với Hội thánh hòa nhập vào Thiên Chúa Ba Ngôi, sống lại mầu nhiệm cứu chuộc, lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin và loan báo Tin Mừng.
+ Cộng đồng dân Chúa : vì Phụng vụ không phải là việc của một cá nhân hay một nhóm người, nhưng là việc của toàn thể Hội thánh. Dù chỉ cử hành một mình, thừa tác viên vẫn nhân danh toàn thể Hội thánh, là cử hành của toàn thể Hội Thánh, sinh hiệu quả cho toàn thể Hội Thánh.
+ Thánh hóa con người : qua Phụng vụ, con người lãnh nhận được nhiều ơn phúc của Thiên Chúa, giúp con người ngày càng nên giống Chúa hơn.
Chính nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, Phụng vụ làm cho chúng ta tham dự vào việc cầu nguyện của Người, hướng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Phụng vụ mang lại cho cuộc sống người tín hữu những hoa trái của cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần, sự dấn thân vào sứ mệnh của Hội thánh và phục vụ cho sự hiệp nhất của Hội thánh. Như thế, Phụng vụ là nguồn mạch sự sống của Hội thánh. Hơn nữa, Phụng vụ đi từ cái hữu hình dẫn đến những thực tại vô hình, từ biểu tượng đến thực tại, từ các dấu chỉ bên ngoài đến các mầu nhiệm, nên Phụng vụ là một “bài giáo lý” đầy chất lượng, thuyết phục con người hoán cải và trở nên tạo vật mới trong Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần.
2. Ngày Chúa nhật : (x. bài 23)
Bài 23 giáo lý cấp II đã cho biết ý nghĩa của ngày Chúa nhật, chúng ta cần đọc lại để xác tín hơn rằng : ngày Chúa nhật rất quan trọng vì là “Ngày của Chúa”, ngày Chúa đã Phục sinh mà mầu nhiệm Phục sinh là nền tảng đức tin Kitô giáo. Nên, ngày Chúa nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm Phụng vụ.
Vì vậy, ngày Chúa nhật “phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc” (PVT 106).
3. Năm Phụng vụ :
Để tránh cái lạnh cắt xương của mùa đông, một người đàn bà xứ Canađa đã tìm đến tiểu bang Flo-ri-da bên Hoa kỳ đầy ánh mặt trời ấm áp. Khi mùa xuân đến, bà ta lại trở về Canađa. Và năm nào bà cũng di chuyển như thế. (GLV cũng có thể vận dụng cảnh vật rừng cao su : hàng năm cứ vào mùa đông (trước tết), lá cao su rụng khiến cây tiêu điều, xờ xạc và người ta không lấy mủ. Khi tiết xuân trở lại, lá non bắt đầu đâm ra và dần dần làm cho cây xanh tươi, người ta lại bắt đầu cạo mủ). Cứ mỗi 365 ngày tình huống này lại xảy ra, ta gọi là NĂM.
(GLV cũng có thể vận dụng thời tiết Xuân - Hạ - Thu - Đông của địa phương để giúp học viên có ý niệm về năm, từ đó dẫn vào năm Phụng vụ).
Trong 365 ngày, thời tiết thay đổi : từ ấm áp sang nóng, tiếp đến ảm đạm, rồi giá lạnh. Sau đó lại trở về ấm áp - nóng - ảm đạm - giá lạnh... Thời gian 365 ngày với những tiết trời như thế gọi là
một NĂM.
Trong Phụng vụ Kitô giáo, mầu nhiệm cứu chuộc cũng được trải dài trên dưới 365 ngày từ mầu nhiệm Nhập thể - sang mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh... gọi là NĂM PHỤNG VỤ, năm Phụng vụ bắt đầu vào chiều thứ bảy trước Chúa nhật I Mùa Vọng và kết thúc vào trưa thứ bảy sau lễ Chúa Kitô Vua.. Vậy năm Phụng vụ là thời gian Hội thánh cử hành các mầu nhiệm Chúa Ki-tô theo chu kỳ hằng năm (PV.103).
Năm Phụng vụ xoay quanh 2 trục chính :
- Mầu nhiệm Nhập thể với thời gian chuẩn bị (Mùa vọng) và mừng kính (Mùa Giáng sinh).
- Mầu nhiệm Khổ nạn - Phục sinh với thời gian chuẩn bị (Mùa chay) và mừng kính (Mùa Phục sinh).
- Các Chúa nhật giữa 2 thời gian trên đây không mừng kính một mầu nhiệm nào rõ rệt của Chúa Kitô và gọi là các CHÚA NHẬT THƯỜNG NIÊN, gồm khoảng 32-34 tuần lễ, cũng quen gọi là mùa Thường Niên hay mùa Quanh năm.
- Trong suốt thời gian mỗi năm, Phụng vụ còn cử hành nhiều thánh lễ mừng kính Đức Trinh Nữ Maria, các thánh (lễ các thánh tử đạo Việt Nam được mừng vào ngày 24.11 hàng năm).
Năm Phụng vụ có mục đích giúp người tín hữu sống mầu nhiệm Chúa Kitô hầu chuẩn bị đón Người trở lại trong vinh quang vào ngày tận thế.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu Linh mục Thượng phẩm, Chúa đã cho chúng con được tham dự vào chức Tư tế của Chúa. Nhờ đó, cuộc sống chúng con và mọi tạo vật được trở nên lễ vật dâng lên Thiên Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa làm thành lễ vật tiến dâng Thiên Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua” (Lc 2,41).
132. H. Phụng vụ là gì ? # (GLCG. 184)
T. Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của toàn thể Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa con người.
133. H. Phụng Vụ có quan trọng không ? (GLCG. 185)
T. Phụng Vụ rất quan trọng vì những lẽ này :
- Một là Phụng Vụ cho ta tham dự vào việc cầu nguyện của Chúa Ki-tô, hướng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
- Hai là Phụng Vụ là nguồn mạch sự sống của Hội Thánh.
- Ba là Phụng Vụ nhằm giáo huấn và hoán cải Dân Chúa.
134. H. Ngày Chúa nhật quan trọng thế nào trong cử hành Phụng vụ ?
(GLCG. 198)
T. Ngày Chúa nhật rất quan trọng vì là “Ngày của Chúa”, ngày Chúa đã Phục sinh. Vì thế, ngày Chúa nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm Phụng vụ.
135. H. Năm Phu#ng vụ là gì ? (GLCG. 199)
T. Năm Phụng vụ là thời gian Hội thánh cử hành các mầu nhiệm Chúa Ki-tô theo chu kỳ hằng năm (PV.103).
136. H. Năm Phụng vụ được tổ chức thế nào ? (GLCG. 200)
T. Năm Phụng vụ được tổ chức thành các mùa, là Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh và mùa thường niên. Hội thánh cử hành năm Phụng vụ để giúp ta sống mầu nhiệm Chúa Ki-tô, hầu chuẩn bị đón Người trở lại vinh quang.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Trong xóm nhà Tâm có Trí, sáng nào cũng đi lễ nhưng đến nhà thờ, Trí thường tìm chỗ tối để ngồi và ngủ. Ngày Chúa nhật Trí thường đi trễ để có lý do ở ngoài nhà thờ... Tâm đến làm quen với Trí và khen Trí : “Trí đạo đức quá, ngày nào cũng đi lễ !”.
Hứng chí, Trí buột miệng : “Không dám đâu ! Tớ không đi là bị ăn đòn chứ có đạo đức gì đâu
- Đã mất công đi như thế, tại sao Trí không dự nghiêm chỉnh ?
- Tớ có hiểu gì đâu !
Thế là từ hôm đó, Tâm và Trí, đôi bạn sánh vai chăm học giáo lý.
Noi gương hai bạn, Em quyết chăm học Giáo lý để biết tham dự mọi cử hành phụng vụ cách tích cực, linh động và hữu hiệu hơn.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ một vòng tròn biểu thị năm Phụng vụ (hình của bài 28 giáo lý cấp I ĐBTT).
V. KẾT THÚC.
(GLV nhắc lại ý chính của bài Phụng vụ và mời gọi các học viên sốt sắng tham dự Phụng vụ nhất là Thánh lễ Chúa nhật.)
Sáng Danh...
Lời Chúa : Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền thờ và lớn tiếng nói rằng : Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống” (Ga 7,37-38)
Ý chính : 1. Chúa Giêsu thiết lập các Bí tích (Ga 7,37-39a).
2. Điều kiện lãnh nhận Bí tích (1 Cr 11,27-29).
3. Bí tích trong đời sống Kitô hữu (Rm 6,3-4).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1113 - 1134
Tâm tình : Sung sướng và ước mong lãnh nhận các Bí tích.
Chuẩn bị : Hình ảnh về việc cử hành một Bí tích nào đó.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trên).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh, Chúa đã trở nên Bí tích cứu độ thế giới.
Xin cho chúng con nhận ra Bí tích là dấu hiệu của tình yêu và là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa chúng con.
3. Dẫn vào bài mới :
Cử hành Phụng vụ gồm có Thánh lễ, các Bí tích và các giờ kinh Phụng vụ. Chúng ta đã học về Thánh lễ ở giáo lý cấp I. Giờ đây chúng ta học tổng quát về các Bí tích.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Dân Do thái ra khỏi cảnh nô lệ Ai cập, được dẫn vào vùng Rơ-phi-dim. Ở đây không có nước uống, họ đã kéo nhau đến kêu trách Môsê : “Tại sao ông đã đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để chúng tôi chết khát, chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật ?” Môsê cầu khẩn cùng Thiên Chúa. Ông kêu các kỳ mục đi với ông đến trước hòn đá ở Kho-rép và Môsê đã giơ tay đập trên đá. Tức thì một dòng nước lênh láng chảy ra cho dân và đoàn súc vật uống thỏa thuê !
Đây chính là hình ảnh báo trước về dòng nước ơn cứu độ mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta qua Hội thánh trong các Bí tích như Chúa Giêsu đã nói trong dịp bế mạc lễ Lều năm xưa - mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 7,37-39a)
“Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng : “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống !” Như Kinh thánh đã nói : Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Chúa Giêsu thiết lập các Bí tích :
Bằng cuộc sống trần thế và nhất là bằng cuộc khổ nạn và Phục sinh, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó. Chúa Kitô đã thiết lập các cách thức và trao cho Hội thánh, để nhờ Chúa Thánh Thần mà ban phát ân sủng cứu độ cho những ai tin vào Người. Đó là các Bí tích.
Khi tham dự bất cứ Bí tích nào, chúng ta đều thấy :
- Những dấu chỉ bên ngoài : nước trong Bí tích Rửa tội, bánh - rượu trong Bí tích Thánh Thể v.v... và Lời đọc : “Tôi rửa anh : nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” trong Bí tích Rửa tội ; “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” trong Bí tích Thêm sức v.v...
- Những dấu chỉ này Hội thánh thực hiện theo lệnh truyền của Chúa Kitô nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Thí dụ :
+ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ...” (Mt 28,19).
+ “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
- Hội thánh cử hành các Bí tích để trao ban ân sủng cứu độ cho những ai tin vào Chúa Kitô. Ân sủng là ơn siêu nhiên trong linh hồn, chúng ta không thể thấy được bằng con mắt hay giác quan tự nhiên. Nhưng đôi khi, chúng ta có thể thấy tác động của ân sủng đó. Thí
dụ : khi Phêrô và Gioan đặt tay trên những tín hữu tại Samari, những người này nhận được Thánh Thần (x. Cv 8,17) ; khi Phaolô đặt tay trên 12 tín hữu ở Êphêsô, Thánh Thần ngự xuống trên họ. Họ nói tiếng lạ và nói tiên tri (x. Cv 19,6).
Như vậy, Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Giê-su thiết lập và được trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho chúng ta.
Tất cả có 7 Bí tích, trong đó ba Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh in vào linh hồn người lãnh nhận dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được nên mỗi người chỉ được lãnh nhận một lần.
2. Điều kiện lãnh nhận Bí tích.
Ông Simon phù thủy, khi thấy các tông đồ Phêrô và Gioan đặt tay trên các tín hữu tại Samari thì Thánh Thần được ban xuống, nên ông đem tiền đến biếu các tông đồ và nói : “Xin cũng ban quyền ấy cho tôi nữa để tôi đặt tay cho ai thì người ấy nhận được Thánh Thần”. Thánh Phêrô đã quở trách Simon : “Anh tưởng có thể lấy tiền mua ân huệ của Thiên Chúa sao ? Chẳng có phần chia cho anh vì lòng anh không ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa” (x. Cv 8,18-21).
Các em thấy đó, tiền bạc chẳng mua được ân sủng của Thiên Chúa ! Thánh Phaolô đã dạy chúng ta phải có thái độ căn bản nào khi đến lãnh nhận Bí tích - mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong thư 1 của thánh Phaolô tông đồ (1 Cr 11,27-29)
“Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Côrintô xưa và chúng ta hôm nay phải dọn mình cho xứng đáng, ít nhất tương đối, trước khi lên lãnh nhận Bí tích. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta 2 điều kiện tối cần :
- Một là : “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống chén án phạt” (c.29) tức là trước khi lãnh nhận Bí tích cần phải học hiểu Giáo lý Lời Chúa. Nhờ học giáo lý Lời Chúa mà biết phân biệt Thân Thể Chúa là gì, ăn và uống gì khi lãnh nhận Thánh Thể Chúa v.v...
- Hai là : “Ai ăn và uống chén của Chúa cách bất xứng thì cũng phạm đến Mình và Máu Thánh Chúa” (c.27) tức là phải có lòng tin và thật lòng ước muốn. Có đức tin, ta mới nhìn thấy được sự hiện diện yêu thương của Chúa Kitô và tác động của Chúa Thánh Thần. Có lòng muốn chân thành, ta mới xứng đáng đón nhận những ân sủng cao trọng của Bí tích. Tiền bạc không mua được ân sủng của Bí tích.
3. Bí tích trong đời sống Kitô hữu.
Ai đi đường bộ từ Xuân Lộc ra Nha Trang sẽ đi qua cánh đồng lúa Hộ Diêm phì nhiêu. Tục truyền rằng, ngày xưa khu vực này là mảnh đất khô cằn, các vị Truyền giáo đã có sáng kiến dẫn nước từ trên núi xuống tưới phủ cho cả khu vực đó làm nên một cánh đồng lúa quanh năm phì nhiêu. Nhờ vậy cảnh vật thiên nhiên được trải một màu xanh mát mắt và dân làng được ấm no.
Đây là hình ảnh của Bí tích trong đời sống người Kitô hữu mà thánh Phaolô đã dạy - mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ (Rm 6,3-4)
“Anh em không biết rằng : khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúng ta là những người đã chết vì tội lỗi, nhưng khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được mai táng với Chúa Kitô để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được sống lại từ cõi chết và được dẫn vào sống một cuộc đời mới. Như vậy, Bí tích Rửa tội là Bí tích đầu đời và cần thiết để biến đổi chúng ta từ cuộc sống nô lệ cho tội lỗi thành cuộc đời làm con Thiên Chúa. Sau đó, chúng ta được tăng cường ân sủng Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thêm sức (mà các em sẽ lãnh nhận vào cuối chương trình giáo lý cấp II này). Chúng ta được nuôi dưỡng linh hồn bằng Bánh trường sinh nhờ Bí tích Thánh Thể. Khi yếu đuối phạm tội, chúng ta có Bí tích Hòa giải (Giải tội). Khi thể xác đau yếu, chúng ta được nâng đỡ nhờ Bí tích Xức dầu Bệnh nhân. Đến tuổi trưởng thành, những ai được Chúa tuyển gọi trong đời sống thánh hiến thừa tác, sẽ lãnh nhận Bí tích Truyền chức thánh. Những ai chọn đời sống hôn nhân gia đình, sẽ đón nhận Bí tích Hôn phối.
Các Bí tích đều nhằm nâng đỡ cuộc sống siêu nhiên của chúng ta, và có thể so sánh Bí tích với cuộc sống tự nhiên của chúng ta trong các giai đoạn của cuộc sống như sau :
Đời sống tự nhiên Đời sống siêu nhiên
Sinh ra Bí tích Rửa tội
Trưởng thành Bí tích Thêm sức
Nuôi dưỡng Bí tích Thánh Thể
Chữa bệnh BT Xức dầu bệnh nhân - BT Hòa giải
Đời sống xã hội BT Truyền chức - Bí tích Hôn phối
Các Bí tích là những phương thế chắc chắn và hữu hiệu nhất, giúp chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Vì thế, chúng ta tin tưởng rằng : tất cả những ai thường xuyên lãnh nhận các Bí tích một cách ý thức và sốt sắng sẽ đạt tới cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lập các bí tích như dấu chỉ rõ rệt nhất và như phương tiện hữu hiệu nhất để chuyển thông ơn thánh cho con. Xin cho con năng lãnh nhận các bí tích để được dồi dào ơn Chúa mà sống đạo tích cực.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền thờ và lớn tiếng nói rằng : Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống” (Ga 7,37-38)
137.H. Bí tích là gì ? # (GLCG. 189)
T. Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Giê-su thiết lập và được trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho chúng ta.
138. H. Những Bí tích nào đuợc lãnh nhận một lần mà thôi ? (GLCG. 191)
T. Có ba Bí tích này, một là Bí tích Rửa tội, hai là Bí tích Thêm sức, ba là Bí tích Truyền chức thánh ; vì ba Bí tích ấy in vào linh hồn dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được.
139. H. Cần có những điều kiện nào để lãnh nhận các Bí tích ?
(GLCG. 194)
T. Cần có những điều kiện này :
- Một là phải đón nhận và học hiểu Lời Chúa.
- Hai là phải có đức tin và thật lòng ước muốn.
140. H. Các Bí tích có cần thiết để được cứu độ không ? (GLCG. 195)
T. Đối với các tín hữu, các Bí tích cần thiết để được ơn cứu độ, vì chính Chúa Ki-tô hành động nơi các Bí tích, và Chúa Thánh Thần làm cho những người lãnh nhận nên giống Con Thiên Chúa.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Sáng nay trong bữa điểm tâm, má bảo cho nhà biết trưa nay Bà nội sẽ về thăm gia đình. Nghe tin này, Lan sung sướng vạch ra một lô những việc phải làm và mau chóng kết thúc miếng bánh mì để bắt tay vào việc chuẩn bị. Trước tiên, Lan dọn lại bàn thờ gia đình, quét dọn, lau bàn ghế phòng khách, trưng bông... rồi ủi đồ cho má, cho em và cho chính Lan... chưa làm xong những việc dự tính mà đã gần trưa rồi ! Miệng Lan luôn hỏi má : mấy giờ Bà tới ? Đã 20 năm Lan chưa gặp Bà nội, đúng hơn Lan chưa biết Bà nội ! Nay Bà về thăm... Lan cố gắng chuẩn bị chu đáo để đón Bà... Cũng vậy, Em quyết tâm chuẩn bị tâm hồn chu đáo mỗi khi lãnh nhận bí tích.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ một dòng suối và ghi dưới hình vẽ đó một câu Kinh thánh nói lên ý nghĩa của bí tích.
V. KẾT THÚC.
(GLV nhắc lại hình ảnh ngày Rước lễ lần đầu để khơi lên tâm hồn khát khao lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thêm sức, để các học viên hăng say học hiểu và sống giáo lý cấp II).
Sáng Danh...
Bài 32
BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
Lời Chúa : “Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa” (Gc 5, 14).
Ý chính : 1. Bí tích xức dầu bệnh nhân là gì ? (Gc 5,14-15).
2. Ơn ích của Bí tích xức dầu bệnh nhân.
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1499 - 1532
Tâm tình : Biết ơn - luôn cảnh giác để giúp mọi người lãnh nhận Bí tích xức dầu bệnh nhân.
Chuẩn bị : Hình ảnh một bệnh nhân đang lãnh nhận Bí tích xức dầu.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Bí tích Xức dầu bệnh nhân là bí tích của sự an ủi, tăng sức mạnh của sự tha thứ và chữa lành tâm hồn và thân xác.
Xin Chúa cho chúng con dù bé nhỏ, cũng biết lưu tâm thăm viếng và giúp đỡ những người đau yếu, vì đó là những việc làm cho chính Chúa.
3. Dẫn vào bài mới :
Con người có lúc sẽ đau ốm và bước vào tuổi già. Trong những tình huống này, cùng với sự chăm sóc chạy chữa tự nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương ban cho chúng ta Bí tích xức dầu bệnh nhân mà hôm nay chúng ta cùng nhau học hỏi.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lần kia khi nghe tin Chúa Giêsu đã trở về miền Capharnaum, ông Gia-ia trưởng hội đường đến sụp lạy dưới chân Chúa van xin : “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài hãy đến đặt tay lên cháu để nó được cứu thoát và được sống”. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi theo ông. Dọc đường, có mấy người từ nhà ông đến báo tin : “Con gái ông chết rồi”. Đến nơi, Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Chúa bước vào nhà và bảo họ : “Đứa bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Mọi người chế nhạo Chúa ! Đuổi họ ra, Chúa dẫn cha mẹ và mấy môn đệ vào bên giường đứa bé. Người cầm tay nó và nói : “Này bé, Thầy truyền cho con : chỗi dậy đi”. Lập tức đứa bé đứng dậy và đi lại được vì nó đã 12 tuổi. (x. Mc 5,22-43).
Đây là hình ảnh rất sống động về tâm tình của Chúa Giêsu đối với các bệnh nhân, đặc biệt đối với thiếu nhi : Chúa thương xót các bệnh nhân và muốn cứu chữa họ. Chính tâm tình này đã làm cơ sở cho lệnh truyền của thánh Giacôbê tông đồ dạy các tín hữu thời sơ khai về việc chăm sóc các bệnh nhân. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư thánh Giacôbê tông đồ (Gc 5,14-15)
“Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh ; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Bí tích xức dầu bệnh nhân là gì ?
Trong lời khuyên cuối cùng của bức thư, thánh Giacôbê tông đồ đã chỉ dạy cho mọi người biết cách sống đẹp lòng Chúa trong mọi tình huống. Đặc biệt đối với những người đau yếu, bệnh tật, thánh nhân đã dạy phải sớm đi mời các “kỳ mục của Hội thánh” (các linh mục) đến cầu nguyện và ban Bí tích xức dầu bệnh nhân cho người bệnh.
Chúa Giêsu, trong thân phận con người, đã cảm thông tất cả những yếu đuối của thân xác, nên trong cuộc sống trần thế, Chúa đã thương xót những người đau yếu, bệnh tật : Chúa đã chữa lành cho biết bao người bị bệnh như bà mẹ vợ ông Phêrô (Mt 8,14-15), người bại liệt (Mt 9,1-7), hay hai người mù (Mt 9,27-30), em bé con ông Gia-ia trên đây v.v... Hơn nữa, Chúa còn lập ra Bí tích xức dầu bệnh nhân để tiếp tục ban ơn nâng đỡ phần hồn cũng như phần xác cho những ai bệnh hoạn, đau yếu.
Trong bức tranh này (nếu có tranh, GLV tiếp :), các em thấy vị linh mục đang ban Bí tích xức dầu cho bệnh nhân, qua đó Thiên Chúa sẽ gia tăng sức mạnh hồn xác và ban ơn giúp bệnh nhân can đảm chấp nhận mọi đau đớn của cơn bệnh.
2. Ơn ích của Bí tích xức dầu bệnh nhân.
Trong phép lạ cứu sống em bé con gái ông Gia-ia, chúng ta thấy những người thân của bệnh nhân lo lắng chạy chữa và cảm thấy bất lực (“em bé đã chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa !”) Còn bệnh nhân thì càng thấy rõ bất lực hơn nữa. Nhưng phép lạ trong câu chuyện dẫn nhập trên đây và nhiều phép lạ khác của Chúa Giêsu cho ta xác tín rằng : ngay cả khi con người bất lực, tuyệt vọng thì Thiên Chúa vẫn có thể cứu vớt được. Đây là niềm xác tín đặc biệt về Bí tích xức dầu bệnh nhân vì Bí tích Xức dầu bệnh nhân ban những ơn này :
- Một là kết hợp bệnh nhân với cuộc khổ nạn của Chúa Ki-tô để sinh ích cho chính mình và cho Hội thánh,
- Hai là ban niềm an ủi và lòng can đảm để biết chịu đựng những đau đớn của bệnh tật hoặc tuổi già theo tinh thần Ki-tô giáo,
- Ba là tha thứ các tội lỗi nếu chưa xưng được,
- Bốn là phục hồi sức khỏe phần xác nếu điều này giúp ích cho ơn cứu độ thiêng liêng,
- Năm là chuẩn bị cho “cuộc vượt qua” sang cõi sống đời đời.
Vì thế, khi người tín hữu lâm cảnh nguy tử vì bệnh nặng hay tuổi già thì nên mời linh mục tới ban Bí tích Xức Dầu cho họ. Các em hãy nhớ những ơn ích và yêu cầu của Bí tích xức dầu bệnh nhân để biết chăm sóc cho các bệnh nhân trong gia đình và khu xóm.
Khi lãnh nhận Bí tích xức dầu bệnh nhân, ngoài việc giao hòa với Chúa, cầu nguyện cho bệnh nhân được những ơn trên, bệnh nhân còn được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể làm lương thực đi đàng giúp họ vững mạnh tiến về đời sau, gọi là của ăn đàng.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tỏ lòng thương xót những người đau khổ và sẵn sàng chữa lành những người bệnh tật. Xin cho chúng con cũng có tâm hồn cảm thông như Chúa để sẵn sàng ủi an, giúp đỡ những người bệnh hoạn, tật nguyền, nhất là giúp họ sốt sắng lãnh nhận bí tích Xức dầu bệnh nhân.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa” (Gc 5, 14).
141. H. Bí tích xức dầu bệnh nhân là gì ? (GLCG. 252)
T. Là bí tích Chúa Giê-su đã lập để ban ơn nâng đỡ bệnh nhân và người già yếu, về phần hồn và phần xác.
142. H. Bí tích xức dầu bệnh nhân ban những ơn nào ? (GLCG. 253)
T. Bí tích xức dầu bệnh nhân ban những ơn này :
- Một là kết hợp bệnh nhân với cuộc khổ nạn của Chúa Ki-tô để sinh ích cho chính mình và cho Hội thánh,
- Hai là ban niềm an ủi và lòng can đảm để biết chịu đựng những đau đớn của bệnh tật hoặc tuổi già theo tinh thần Ki-tô giáo,
- Ba là tha thứ các tội lỗi nếu chưa xưng được,
- Bốn là phục hồi sức khỏe phần xác nếu điều này giúp ích cho ơn cứu độ thiêng liêng,
- Năm là chuẩn bị cho “cuộc vượt qua” sang cõi sống đời đời.
143. H. Khi nào cần lãnh nhận Bí tích Xức dầu? (GLCG. 256)
T. Khi người tín hữu lâm cảnh nguy tử vì bệnh nặng hay tuổi già thì nên mời linh mục tới ban Bí tích Xức Dầu cho họ.
144. H. Của ăn đàng là gì ? (GLCG. 259)
T. Là Thánh Thể Chúa Giê-su được ban cho những người sắp lìa đời, giúp họ vững mạnh tiến về đời sau.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Gần nhà bé Ty có ông Năm, sống cô đơn không người thân. Ông đã ngoài 80 tuổi. Bé Ty hay đến thăm, giúp đỡ và cầu nguyện với ông. Lần kia, ông bị đau nặng : bé Ty ngày ngày đi học về, đều chạy qua thăm chừng ông, mong ông chóng lành bệnh, nhưng vì tuổi già sức yếu nên ông bệnh cứ bệnh. Trước khi kết thúc giờ kinh tối gia đình, Ty dâng một lời cầu nguyện cho ông. Rồi một hôm với giọng yếu ớt, ông Năm nói : “Ty ơi ! cháu thưa ngay với ba mẹ cháu đi mời Cha xứ cho ông nhé !”.
Bé Ty dù chưa hiểu được việc ông Năm xin, nhưng em đã mau mắn chạy về nhà thưa cùng ba mẹ và giục ba mẹ mau mau giúp ông Năm được gặp Cha xứ như ông muốn.
Bắt chước em Ty, Em năng cầu nguyện cho những người già yếu bệnh tật trong xứ.
3. Bài làm ở nhà :
Hãy viết một lời nguyện với ý cầu cho các người bệnh tật.
V. KẾT THÚC.
(Cho các em cầu nguyện tự phát).
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9, 37-38).
Ý chính : 1. Ơn kêu gọi là gì ?(Mt 9,35-38).
2. Dấu hiệu ơn kêu gọi (Is 6,1-8 ; Mt 4,18-22 ; 9,9 ; GL.1024 ; 1029 ; 656)
3. Thái độ người trẻ (Mt 4,20.22 ; 9,9)
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 27. 1533. 1656. 1877. 1461. 2226. 2231-2232. 2253. 2369.
Tâm tình : Mau mắn, sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Chuẩn bị : Hình ảnh linh mục, tu sĩ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Tiếng gọi của Chúa được coi như là một Ơn gọi để chúng ta dùng ơn Chúa và khả năng Chúa ban, xây dựng đời mình và phục vụ tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có thái độ sẵn sàng lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Chúa, theo Thánh ý Người.
3. Dẫn vào bài mới :
Năm tháng, ngày giờ làm cho mọi người khôn lớn và khơi gợi lên trong tâm hồn những suy nghĩ : khi lớn, tôi sẽ làm gì ? Những khát vọng thầm kín này sẽ làm cho mỗi người chọn lựa một nếp sống. Chúng ta tin rằng : chính Chúa mời gọi mỗi người vào một bậc sống khác nhau : Linh mục, tu sĩ, hay giáo dân. Chúng ta nói : đó là ơn gọi. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu đề tài này.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Khi trẻ Samuel dứt sữa, bà Anna dẫn cậu đến nhà Thiên Chúa ở Silô để thi hành lời hứa. Samuel lo việc phụng sự Thiên Chúa dưới sự trông nom của Thầy Êli. Vào một đêm nọ, Samuel đang ngủ say thì nghe có tiếng gọi tên mình : “Samuel”, cậu bừng tỉnh đáp lại : “Này con đây”. Rồi cậu chạy lại bên Êli và thưa : “Này con đây, Thầy gọi con”. Êli đáp : Ta có gọi con đâu, về nằm đi”. Samuel về ngủ. Cậu lại nghe gọi, đây là lần thứ 2 rồi lần thứ 3 : Được Thầy Êli chỉ dẫn, Samuel mau mắn thưa: “Xin Ngài phán dạy, vì tôi tớ Ngài đang nghe”. Thiên Chúa lên tiếng chọn gọi Samuel làm ngôn sứ thay thế Êli. Samuel không để rơi xuống đất một lời nào Thiên Chúa phán với cậu (x. 1 Sm 1,24-28 ; 3,1-21). (cũng có thể kể câu chuyện xức dầu tuyển chọn Đavít trong 1 Sm 16,1-13 ; hoặc ơn gọi Isaia trong Is 6,1-8 ; hoặc ơn gọi Giêrêmia trong Gr 1,4-19).
Thiên Chúa đã chọn gọi Samuel làm ngôn sứ của Người. Chúng ta thấy việc chọn gọi này là một khởi xướng từ Thiên Chúa. Chính vì thế Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến cho đồng lúa của Người. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu (Mt 9,35-38)
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Ơn kêu gọi là gì ?
Nhìn thấy đám đông bơ vơ vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu dạy các môn đệ : Lúa chín đầy đồng mà thợ gặtthì ít. Vậy anh em hãy cầu nguyện, xin Thiên Chúa là chủ mùa gặt, sai thêm thợ gặt là các người tín hữu nhiệt thành, các tu sĩ, linh mục... đến gặt lúa về !
Quả thật, mỗi người chúng ta, nhờ Bí tích Rửa tội đã trở thành người môn đệ của Chúa, được tham dự vào chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Kitô, được Chúa mời gọi sống thánh (x. Mt 5,48). Sống thánh là ơn gọi chung của tất cả mọi người như công đồng Vaticanô II đã dạy (Hc.HT 39). Hơn nữa, trong ơn gọi nên thánh, Chúa còn an bài sắp xếp để mỗi người tự nguyện bước vào bậc sống hôn nhân hay độc thân, nghề này hay nghề kia, linh mục giáo phận hay tu dòng v.v... Vì thế, ơn kêu gọi là lời Thiên Chúa mời gọi mỗi người vào một bậc sống nào đó. Nhưng thông thường thì ơn kêu gọi được hiểu là tiếng Chúa mời gọi một số người dâng mình cho Thiên Chúa trong bậc tu trì hay trong hàng giáo sĩ. Chính vì 2 ý nghĩa này của từ ngữ “ơn kêu gọi” nên bài giáo lý về ơn kêu gọi được đặt trước các bài Bí tích Truyền chức thánh và Bí tích Hôn phối.
2. Dấu hiệu ơn kêu gọi :
Muốn có một bác sĩ, một họa sĩ, cầu thủ bóng đá giỏi... người ta phải tìm kiếm và đào tạo những người:
- Ham thích những nghề đó.
- Có năng khiếu về những nghề đó.
- Được tuyển chọn để huấn luyện chu đáo.
Em sẽ làm nghề gì trong tương lai ? - Em có thể đoán biết được, căn cứ vào những dấu này :
- Em có yêu thích nghề đó không ;
- Em tỏ ra có năng khiếu về nghề đó không ;
- Em có điều kiện để được huấn luyện về nghề đó không.
Đối với ơn kêu gọi cũng thế, Thiên Chúa không kêu gọi ai một cách ngẫu nhiên.
Trở lại câu chuyện ơn gọi của Samuel, hay việc chọn gọi Đavít, Isaia, Giêrêmia... Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã chọn gọi Phêrô, Gioan, Giacôbê, Matthêu v.v... và ngày nay Chúa mời gọi mỗi người chúng ta vào một bậc sống nào, chúng ta đều thấy một dấu hiệu chung, đó là : ơn kêu gọi là một sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là người khởi xướng gọi người này vào ơn gọi này, gọi người kia vào ơn gọi kia v.v...
Tuy nhiên, phần con người, cũng có những dấu hiệu tích cực giúp ta khám phá ra ơn kêu gọi :
- Samuel trước khi được chính thức gọi, cậu đã đơn sơ và vui thích sống trong nhà Chúa tại Silô, bên cạnh thầy cả Êli. Cậu đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, dù là xảy ra trong giấc ngủ. Cậu đã tín nhiệm đến với Thầy cả Êli để tìm ý Chúa và sẵn sàng làm những gì Thầy cả Êli hướng dẫn.
- Trong trường hợp của ngôn sứ Isaia (x. Is 6,1-8), ta lại thấy Isaia có thái độ khiêm tốn : được thấy vinh quang của Thiên Chúa, Isaia đã thốt lên : “Khốn cho tôi ! tôi phải nín thinh vì tôi là người môi nhơ uế” (Is 6,5). Ông sẵn sàng đón nhận việc thanh tẩy của Thiên Chúa và khi Thiên Chúa ngỏ lời : “Ta sẽ sai ai, ai sẽ đi cho chúng ta” thì ông mau mắn, tự nguyện đáp lại : “Này tôi đây, xin Người sai tôi” (Is 6,8).
- Trong Tân ước, trường hợp của các tông đồ, chúng ta đều thấy sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa (x. Mt 4,18-22 ; 9,9).
Ngoài dấu hiệu Thiên Chúa gọi và con người tự nguyện đáp lại như trên, ơn kêu gọi còn có 2 dấu hiệu khách quan nữa :
- Thứ nhất, có đủ điều kiện Hội thánh qui định. Thí dụ : Hội thánh công giáo qui định những người đã Rửa tội và đủ 25 tuổi mới được lãnh nhận thừa tác vụ thánh (x. GL. 1024), chỉ những người đã Rửa tội và đến tuổi trưởng thành mới được khấn dòng (x. GL 656,1) v.v...
- Thứ hai, người đó đã được những người có trách nhiệm tuyển chọn (x. GL 1029 ; 656) : Chủng sinh được Đức Giám mục giáo phận tuyển chọn vào thừa tác vụ chức thánh ; tu sĩ được các Bề trên có thẩm quyền tuyển chọn, v.v...
Tóm lại, có ba dấu hiệu cho biết một người có ơn kêu gọi :
- Một là có ý ngay lành và ước muốn dấn thân phục vụ Chúa,
- Hai là có đủ điều kiện Hội thánh qui định,
- Ba là được những người có trách nhiệm tuyển chọn.
3. Thái độ người trẻ.
Trong câu chuyện ơn gọi Samuel, Isaia, Giêrêmia hay các tông đồ của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá ra thái độ của người trẻ :
- Samuel đã tín thác vào Thầy cả Êli. Thầy bảo gì, cậu sẵn sàng làm theo.
- Isaia, Giêrêmia... sẵn sàng nghe và mau mắn tự nguyện đáp lại tiếng Chúa.
- Các tông đồ Phêrô, Gioan, Giacôbê... sẵn sàng bỏ mọi sự đi theo Chúa (x. Mt 4,20.22 ; 9,9) ; khác với thái độ tháo lui của chàng thanh niên giàu có, không dám dứt bỏ của cải để theo Chúa (x. Mt 19,22).
- Ngày nay, ít ai đón nhận được những ơn gọi rõ ràng như các trường hợp trên đây, vì thế :
+ Cha mẹ và các nhà giáo dục phải biết bén nhạy khám phá ơn kêu gọi nơi con cái và các học viên. Khi khám phá ra ơn gọi nơi con cái, học viên, cha mẹ và những nhà giáo dục phải biết tôn trọng và giúp đỡ người trẻ đi theo tiếng Chúa gọi.
+ Người trẻ biết siêng năng cầu nguyện, suy nghĩ, xin người khôn ngoan chỉ dẫn và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa.
(Nếu có thì giờ, GLV có thể giới thiệu những nét tổng quát về đời sống giáo sĩ giáo phận, đời sống tu dòng của các Hội dòng trong ngoài giáo xứ, giáo phận).
Chúa Thánh Thần luôn tác động và làm phát sinh trong lòng Hội thánh, những cộng đoàn tu trì của từng thời đại theo tinh thần Tin mừng :
- Dòng chiêm niệm : Dòng kín Carmêlô, Dòng nam - nữ Xitô, dòng nữ Clara...
- Dòng hoạt động :
+ Chuyên giáo dục : Don Bosco, Lasan, Giuse v.v...
+ Chuyên giảng thuyết : Đaminh, Chúa Cứu Thế, Dòng Tên...
+ Chuyên từ thiện, bác ái : Gioan Thiên Chúa, Nữ tử Bác ái...
+ Các tu hội đời : Tiểu Đệ - Tiểu muội - Hiện diện và sống - ICM...
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng ơn Chúa Thánh Thần để khơi dậy trong chúng con ngọn lửa mến Chúa. Xin cho chúng con biết quảng đại hiến dâng đời sống theo tiếng Chúa mời gọi để làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9, 37-38)
145. H. Ơn kêu gọi là gì ? (GLCG. 277)
T. Là lời Thiên Chúa mời gọi mỗi người vào một bậc sống nào đó ; nhưng thông thường thì ơn kêu gọi được hiểu là tiếng Chúa mời gọi một số người dâng mình cho Chúa trong bậc tu trì hay trong hàng giáo sĩ.
146. H. Có dấu nào cho biết mình có ơn kêu gọi ? (GLCG. 278)
T. Có ba dấu này :
- Một là có ý ngay lành và ước muốn dấn thân phục vụ Chúa,
- Hai là có đủ điều kiện Hội thánh qui định,
- Ba là được những người có trách nhiệm tuyển chọn.
147. H. Người muốn dâng mình cho Chúa thì phải làm gì? (GLCG. 279)
T. Phải cầu nguyện, suy nghĩ, xin người khôn ngoan chỉ dẫn và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Tháng vừa qua, Giáo xứ tổ chức đi tham quan vùng Truyền giáo Tà-lài, Phương lâm. Hơn 50 người được đến đó sau một hành trình không mấy thoải mái. Đến nơi, đoàn đã được hướng dẫn tới những khu dân cư mà hầu hết là dân tộc thiểu số. Trong khi mọi người thích thú chứng kiến những màn biểu diễn ca múa dân tộc thì Quang tách đoàn bước vào những căn nhà lụp xụp, ngay cả việc bước lên nhà họ cũng khó vì phải leo lên những thang cây đặt hờ hững đầu nhà. Nhìn những khuôn mặt sạm đen ngây thơ, ngửi những mùi tanh hôi như muốn nôn oẹ... Nhưng đồng thời Quang lại thấy gợi lên từ nơi sâu kín tâm hồn niềm trắc ẩn thương xót : họ là người mà cuộc sống chưa phải là người ; họ là con Chúa mà chưa biết Chúa là ai ? Ước chi nơi đây có thêm linh mục, có thêm tu sĩ, có thêm những người phục vụ chân thành và quảng đại... Những ý tưởng này cứ bám sát, xoáy quyện sâu lắng trong tâm hồn Quang !
Trên đường về, Quang đã gặp được sự đồng cảm của một người bạn. Tối hôm đó, 2 anh em đã quì trước Thánh Thể Chúa để cầu nguyện rồi rụt rè vào gõ cửa phòng Cha xứ : Thưa Cha, xin Cha giúp chúng con đi tu !
Vậy, Em luôn cầu nguyện cho có nhiều người dâng mình cho Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Viết tên những người thuộc giáo xứ đang đi tu và cầu nguyện đặc biệt cho những người ấy.
V. KẾT THÚC.
(GLV có thể khơi gợi lên nhu cầu Truyền giáo và ơn gọi Truyền giáo để mời gọi các em cầu nguyện và dấn thân hỗ trợ, hoặc đi theo ơn gọi. Để kết thúc có thể hát bài Lời nguyện Truyền giáo :)
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán...
Bài 34
BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
Lời Chúa : “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5, 1).
Ý chính : 1. Bí tích Truyền chức thánh là gì ?(Dt 4,14-5,4).
2. Chức tư tế (1 Pr 2,4a-5).
3. Thái độ người tín hữu đối với chủ chăn (Cv 2,42).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1533 - 1666
Tâm tình : Kính trọng ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Chuẩn bị : Tranh Chúa Kitô mục tử.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, ý định của Chúa là muốn cho mọi người được cứu rỗi. Chúng con nài xin Chúa ban cho Hội Thánh có nhiều ơn gọi mới sẵn sàng dấn thân phục vụ Dân Chúa, và cho các vị mục tử trong Hội Thánh luôn sống đúng với ơn gọi đã lãnh nhận, để trở thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn.
3. Dẫn vào bài mới :
Tuần trước, chúng ta học bài ơn kêu gọi. Trong đó, chúng ta thấy có những người được Chúa gọi vào đời sống tu dòng, có người được gọi làm giáo sĩ qua Bí tích Truyền chức thánh. Hôm nay chúng ta học về Bí tích Truyền chức thánh.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một phóng viên báo chí Anh quốc, người đã bị bắt giam trong một trại tù ở một quốc gia nọ, kể lại câu chuyện sau :
Đời sống của chúng tôi trong trại giam thật là cơ cực. Chúng tôi phải lao động vất vả, nhiều khi còn bị đánh đập tàn nhẫn. Trong trại có một linh mục tên là Shah, cũng là một tù nhân. Cha Shah là một người giàu lòng bác ái, ngài không phải là người cường tráng, nhưng luôn sẵn sàng lãnh phần nặng hơn trong mọi công việc. Ngài luôn vui vẻ, động viên anh em vui tươi, đoàn kết, yêu thương nhau. Trong trại ai cũng quí mến ngài.
Không hiểu sao cha Shah lại biết tôi là người công giáo. Một hôm, giữa tiết Đông giá rét, vào giờ giải lao, cha Shah đến cầm tay tôi và nói :
- Anh là người công giáo ?
- Phải !
- Anh có biết hôm nay là lễ gì không ?
- Tôi không biết !
- Lễ Giáng sinh ! Hãy đi với tôi, chúng ta cùng dâng Thánh lễ.
Ngài có một sức cuốn hút lạ lùng. Tôi không cưỡng lại được và đã bước theo ngài. Chúng tôi cùng xuống một cái hố sâu. Ngài đặt rượu bánh trên một mô đất, giữa cảnh hoang tàn giá rét. Ngài dâng lễ, đưa Mình Thánh lên cao, nét mặt sáng ngời. Tôi chăm chú nhìn, rồi tự nhiên đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi quỳ, tôi cầu nguyện, tôi ăn năn sám hối. Mắt tôi nhòa lệ. Lòng tôi ấm áp hẳn lên...
Trên đường về chỗ cũ, một tên lính trông thấy chúng tôi. Hắn chặn lại, túm cổ cha Shah và hỏi :
- Mày đi đâu về ?
- Hôm nay là ngày lễ Giáng sinh ; giờ giải lao tôi đi cầu nguyện.
Tên lính đánh ngài một trận chí tử. Hắn dẫn ngài đi.
Từ hôm ấy, tôi không còn gặp cha Shah nữa, nhưng tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm ấy. Cũng từ hôm đó, đức tin đã sống lại trong tôi.
Các linh mục là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn, để qua con người và cuộc sống cụ thể của các ngài, Chúa Giêsu tiếp tục sứ mạng cứu độ của Người, dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội cho muôn người như tác giả thư gửi tín hữu Do thái đã bày tỏ. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 4,14-5.4)
“Chúng ta có một vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần. Quả vậy, thương tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối ; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ tế đền tội cho chính mình như vậy. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Bí tích Truyền chức thánh là gì ?
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái đã cho ta 2 ý tưởng rõ rệt trong đoạn Lời Chúa trên :
- Chúa Giêsu Kitô là vị Thượng tế siêu phàm luôn biết cảm thông những nỗi yếu hèn của mọi người. Vì thế, chúng ta được mời gọi mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp.
- Vị Thượng tế là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị thượng tế luôn cảm thông với những kẻ ngu muội hoặc lầm lạc vì chính người cũng đầy yếu đuối. Người được trở nên Thượng tế không phải do chiếm đoạt nhưng được Thiên Chúa gọi.
Lời Chúa trên đây khá đầy đủ giúp ta tìm hiểu về Bí tích Truyền chức thánh :
Chức tư tế thánh có nguồn gốc từ trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn dành riêng Aharon và dòng họ Lêvi làm tư tế (x. Xh 28,1-3 ; Ds 1,49-53). Tuy nhiên, hàng tư tế của giao ước cũ này vốn bất toàn và chỉ là hình ảnh báo trước chức tư tế thánh trong giao ước mới do Chúa Giêsu thiết lập.
Khi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14). Chúa đã trao cho các ông quyền cử hành Thánh Thể trong bữa Tiệc ly (x. Lc 22,19), ban cho các ông quyền tha tội khi Người từ cõi chết sống lại (x. Ga 20,23) và dạy các ông làm phép rửa cho muôn dân trước khi Người lên trời (x. mt 28,19). Bằng những cử chỉ và lệnh truyền ấy, Chúa Giêsu đã lập ra Bí tích Truyền chức thánh, nhờ đó Người thông ban chức Linh mục thừa tác cho những người tín hữu được tuyển chọn hầu phục vụ dân Chúa bằng việc giảng dạy, tế tự và điều hành mục vụ.
Sau đó, các tông đồ đặt tay ban Thánh Thần cho những người được chọn kế vị các Ngài. Đó là các Giám mục (x. 2 Tm 1,6 ; Tt 1,5), rồi các Giám mục lại đặt tay tuyển chọn một số tín hữu đủ điều kiện vào chức linh mục thừa tác và phó tế.
2. Chức tư tế :
Tại một vùng truyền giáo nọ, vị linh mục dâng lễ đã đến phần chuẩn bị bánh rượu thì 3 em thiếu nhi mới bước vào dự lễ, quần áo vấy máu ! Sau thánh lễ, cha chủ tế đón 3 em hỏi chuyện :
- Sao hôm nay chúng con đến trễ thế ?
3 em nhìn nhau nhường lời, một em 9 tuổi đáp :
- Thưa cha, chúng con gặp trở ngại !
- Trở ngại nào ?
Bé gái 11 tuổi mếu máo thưa :
- Chúng con bị ba đánh.
- Tại sao thế ?
Bây giờ đến lượt anh lớn lên tiếng :
- Ba chúng con cấm đi lễ mà chúng con cứ đi nên bị đánh !
- Những vết máu trên quần áo và trên đầu chúng con là do ba đánh đó hả ?
Cả 3 cùng gật đầu. Vị Linh mục ôn tồn cảm thương :
- Tội nghiệp chúng con. Nhưng nếu ba cấm gắt gao như vậy thì chúng con ở nhà đọc kinh cũng được. Bỏ lễ trong trường hợp này không có tội đâu !
Bé gái 11 tuổi thưa lại :
- Nhưng thưa cha, những giọt máu này chính là lễ vật chúng con muốn dâng lên Chúa trong Thánh lễ của Chúa Kitô như cha đã dạy chúng con !
Vị Linh mục đã dạy gì mà các em này không những sẵn sàng chấp nhận đòn vọt mà còn biến đổi những đau khổ trở nên lễ vật dâng kính tôn thờ Thiên Chúa ? Thánh Phêrô đã giới thiệu cho chúng ta biết phẩm giá cao cả của người Kitô hữu làm nền tảng cho bài giáo lý mà 3 em nhỏ đã học. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phêrô tông đồ (1 Pr 2,4a-5)
“Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được tiến lại gần Đức Kitô, trở thành những viên đá sống động xây nên ngôi Đền Thờ Thiên Chúa. Chúng ta biết nhờ Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa đã đặt chúng ta làm hàng tư tế thánh, có quyền dâng lễ tế đẹp lòng Thiên Chúa. Nói cách khác, nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô, trở thành hàng tư tế, có quyền dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Chức tư tế này được gọi là chức tư tế chung, cũng gọi là chức tư tế phổ quát. Tất cả những ai đã chịu Bí tích Rửa tội đều được tham dự vào chức tư tế chung của Chúa Kitô. Nhờ đó, người giáo dân có quyền hiến dâng bản thân và cuộc đời làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã khuyến khích : “Tôi khuyên anh em hãy lấy bản thân làm lễ vật sống động, thánh thiện và tốt đẹp mà dâng cho Chúa” (Rm 12,1). Như vậy, Phụng vụ và sinh hoạt thường ngày phải ăn khớp với nhau. Thánh lễ và cuộc sống ảnh hưởng vào nhau và hỗ trợ nhau. Kinh nguyện Thánh Thể 3 dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện : “Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha”. Chính Chúa Thánh Thần sẽ nâng đỡ và thúc đẩy người giáo dân sống tinh thần hy tế trong cuộc đời của mình. Chúa Thánh Thần cũng dùng ơn thánh để dần dần biến đổi con người tín hữu và làm cho họ sát nhập vào lễ tế của Chúa Kitô.
3 em nhỏ trên đây đã hiểu được Lời Chúa và bài giáo lý này nên đã biết vượt thắng mọi trở ngại để đến dâng lễ mà của lễ là chính cuộc sống các em kết hợp với của lễ vô giá là Mình và Máu Chúa Kitô. Hôm đó, các em có thêm những giọt máu, những roi đòn là lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa !
Chức tư tế chung hay tư tế phổ quát này khác với chức tư tế do Bí tích Truyền chức thánh trao ban. Một số trong những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội (đã là tư tế chung), được Thiên Chúa tuyển chọn và được Hội thánh trao ban Bí tích Truyền chức thánh, sẽ trở thành các tư tế thừa tác để nhân danh Chúa Kitô và nhân danh tập thể (Hội thánh) mà phục vụ cộng đoàn. Đó là các Giám mục, Linh mục và Phó tế.
3. Thái độ người tín hữu đối với chủ chăn :
Một gia trưởng nọ khi được tin con mình không được Xưng tội Rước lễ lần đầu, đã đập phá và nguyền rủa Cha xứ. Ai cản ngăn cũng không được, ông lại còn lên nhà thờ chửi thẳng mặt Cha và kể lể những khổ cực của ông trong đời sống gia đình... Cha xứ bình tĩnh trình bày cho ông hiểu, nhưng ông chẳng chịu hiểu cho. Nguyền rủa chán, ông bỏ về... Nhưng ngày hôm sau, khi hết cơn say rượu, ông lại đến nhà xứ tìm gặp Cha để xin lỗi. Và từ đó ông trở thành một trong những người cộng tác tích cực với Cha trong việc giáo dục đức tin cho trẻ em. Phải chăng, thái độ của gia trưởng này là tiêu biểu cho thái độ của chúng ta đối với các chủ chăn ? Thánh Luca đã cho ta thấy thái độ đúng đắn, tốt đẹp của các tín hữu thời các tông đồ. Mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong sách Công vụ tông đồ (Cv 2,42)
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Các tín hữu thời các thánh Tông đồ đã nêu bật thái độ sống chân thành đối với các chủ chăn của họ :
- Chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, sống hiệp thông, yêu thương.
- Hoà thuận, siêng năng tham dự thánh lễ (x. Cv 2,42).
- Cầu nguyện cho các chủ chăn (x. Cv 12,12 ; Ep 6,19-20 ; Cl 4,3-4).
- Cộng tác trong công việc tông đồ (x. Cv 16,1-3 ; 18,1-3 ; Rm 16,3-5).
- Trợ giúp về vật chất (x. Pl 4,10-20).
Hôm nay, từng người giáo dân và tất cả cộng đoàn hãy có thái độ chính đáng như trên đây đối với các vị chủ chăn. Riêng với các em giáo lý cấp II, các em hãy luôn biết chăm chỉ học, sống giáo lý, chuẩn bị tốt lãnh nhận Bí tích Thêm sức, siêng năng tham dự Thánh lễ và yêu thương hiệp nhất.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu Linh mục Thượng phẩm, Chúa đã tuyển chọn một số người vào chức Linh mục của Chúa để tiếp tục thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Xin Chúa cho các Ngài luôn sống thánh và chu toàn bổn phận.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5, 1).
148. H. Bí tích Truyền chức thánh là gì ? (GLCG. 261)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để thông ban chức linh mục cho những người được tuyển chọn, hầu phục vụ Dân Chúa bằng việc giảng dạy, tế tự và điều hành mục vụ.
149. H. Chúa Giê-su lập Bí tích Truyền chức thánh khi nào ? (GLCG. 262)
T. Chúa Giê-su đã lập Bí tích này trong bữa tiệc sau hết, khi Người nói với các tông đồ rằng : “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
150. H. Chức tư tế chung là gì ? (GLCG. 263)
T. Là sự tham dự vào chức tư tế của Chúa Ki-tô khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
151. H. Chức Tư tế thừa tác là gì ? (GLCG. 264)
T. Là sự tham dự vào chức tư tế của Chúa Ki-tô qua Bí tích Truyền chức thánh, để phục vụ cộng đoàn nhân danh Chúa Ki-tô.
152. H. Có những cấp bậc nào trong Bí tích Truyền chức thánh ? (GLCG. 265)
T. Từ ban đầu, Bí tích Truyền chức thánh đã bao gồm ba cấp bậc là : Giám mục, Linh mục và Phó tế.
153. H. Người tín hữu có bổn phận nào đối với các vị chủ chăn của mình ? (GLCG. 269)
T. Người tín hữu có bổn phận cầu nguyện, tôn kính, vâng lời các vị chủ chăn trong các điều hợp lẽ đạo, tích cực cộng tác xây dựng Nước Chúa, đồng thời cũng phải giúp đỡ các ngài về tinh thần và vật chất nữa.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Têrêsa Hài đồng có lòng yêu mến các Linh mục, nhất là các Linh mục thừa sai. Người đã dành nhiều hy sinh và lời nguyện cho các Linh mục. Noi gương chị thánh, em dành trọn ngày thứ năm đầu tháng để cầu nguyện cho các Linh mục.
3. Bài làm ở nhà :
Hỏi ba má để viết lại tên các cha đã coi sóc giáo xứ của em.
V. KẾT THÚC.
Chúa Giêsu lập Bí tích Truyền chức thánh, để có người tiếp tục sứ mạng Người đã làm ở trần gian : rao giảng, cai quản và thánh hóa dân của Người. Chúng ta năng tham dự thánh lễ để lấy nguồn sinh lực từ bàn tiệc Lời và Mình Máu Chúa Kitô làm của nuôi linh hồn chúng ta.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Sau đó, Đức Giê-su đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51-52)
Ý chính : 1. Bí tích Hôn phối (Lc 2,51-52).
2. Gia đình (Mc 10,2-8).
3. Gia đình Kitô giáo (Ep 5,21-22.25.32 ; 6,1-4).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1601 - 1666
Tâm tình : Cảm tạ, tri ân Chúa đã ban cho em một cuộc sống hạnh phúc trong gia đình Kitô giáo.
Chuẩn bị : Tranh Thánh gia thất hoặc hình to về gia đình của các em.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước)
2. Thánh hóa :
Thiên Chúa kêu gọi nhiều người chia sẻ cuộc sống với nhau trong bậc Hôn nhân, trong đó có cha mẹ chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các gia đình trở thành Hội Thánh sống động tại gia, để Chúa được vinh hiển và thế giới được an bình.
3. Dẫn vào bài mới :
Các em đang sống trong gia đình có cha, có mẹ, có anh chị em. Cuộc sống này đã được một Bí tích tưới gội hồng ân Chúa. Đó là Bí tích Hôn phối. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ông Piô đã đến tuổi 70, ông không lập gia đình. Vốn là một thủy thủ, suốt cuộc đời, ông say mê lênh đênh trên biển cả, nên đã chẳng có nhà riêng. Cháu trai của ông tên Jack rất thương bác Piô, anh bàn với vợ và 5 đứa con của mình, mời bác Piô về cùng chung sống. Mọi người đồng ý và bác Piô về sống với gia đình Jack. Cuộc sống gia đình đầm ấm, vui vẻ... một chiều kia, bác Piô nằm trên giường bệnh gọi Jack đến cám ơn Jack và trao cho Jack một bì thư với lời nhặn : khi bác chết rồi, cháu mở thư ra mà làm theo. Bác chỉ cho cháu chỗ giấu kho báu đấy. Ít ngày sau bác Piô chết. Sau khi lo liệu an táng cho bác, Jack kêu vợ và các con lại để mở thư di chúc của bác Piô.
Tim Jack đập mạnh, tay run run, đó là một bản đồ với lời ghi : kho báu cất giấu ở điểm A. Jack và gia đình cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng thì Jack xác định được địa điểm : đó chính là căn nhà của chàng, nơi mà chàng và vợ con đang sống !
Bác Piô đã trối lại cho chàng một kho báu : gia đình của chàng là kho báu, vì gia đình Jack luôn nhắc nhở mọi người noi gương gia đình Đức Maria - thánh Giuse và Chúa Giêsu như thánh Luca ghi lại - mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 2,51-52)
“Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
1. Bí tích Hôn phối :
Lời Chúa trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã sống một thời gian dài trong mái ấm gia đình (30 năm) trước khi đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa. Đầu đời công khai, Chúa đã dự tiệc cưới Cana, làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11) ; sau đó, Chúa đã xác định tính bền vững của Hôn phối ngay từ thuở ban đầu (x. Mt 19,1-9) và nâng đỡ đời sống gia đình bằng ân sủng và sức mạnh của Người (x. Mt 19,11).
Như vậy, Bí tích Hôn phối là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Chúa và Hội thánh, cùng ban cho họ sống xứng đáng ơn gọi của mình.
2. Gia đình :
Bà Cornêlia, mẹ của Grac-xi, lần kia đón tiếp một người phụ nữ giàu có. Bà này luôn khoe những viên ngọc của bà. Đó là những viên ngọc đẹp nhất của thời đại và do đó rất đắt giá... Cornêlia tiếp tục trò chuyện với bà khách cho đến khi những đứa con của mình từ trường trở về. Chỉ vào những đứa con đó, bà Cornêlia giới thiệu với khách : đây là những viên ngọc của tôi. (trích Góp nhặt 7 tr. 66).
Dám giới thiệu như thế vì bà Cornêlia và chồng bà đã gắn bó chung thủy với nhau từ 50 năm qua, một đặc tính căn bản của đời sống Hôn nhân mà Chúa Giêsu đã tái xác định trong Lời Chúa sau, mời các em lắng nghe - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 10,2-8)
“Có mấy người Pharisiêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng : “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không ?” Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp : “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều
gì ?” Họ trả lời : Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đức Giêsu nói với họ : “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Chúa Giêsu cho biết : ngay từ thời sáng tạo, gia đình đã là một cộng đồng yêu thương căn bản mà Thiên Chúa đã sắp đặt cho nhân loại. Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, và trong Hôn nhân gia đình, 2 người sẽ khắng khít với nhau thành một xương một thịt. Như thế, “Thiên Chúa đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người, nên gia đình trở thành tế bào đầu tiên và sống động của xã hội...”. Chính giữa lòng gia đình đã sinh ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần đầu tiên thực tập các nhân đức xã hội, là linh hồn cho sinh hoạt và sự phát triển của xã hội” (T.H. về Gia đình số 42).
Gia đình có một vai trò rất quan trọng trong đời sống mỗi người, nhất là đối với con cái như trong ca dao:
“Thuận vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.
Hay : “ Con mất cha như nhà mất nóc
Con mất mẹ, liếm lá gặm xương !”
3. Gia đình Kitô giáo :
Sau lễ tấn phong Giám mục, Đức Cha Alphonsô đến thăm mẹ và chỉ cho mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục mới bóng loáng : mẹ xem chiếc nhẫn mới của con có đẹp không ? Bà mẹ giơ tay lên chỉ cho Alphonsô chiếc nhẫn cũ kỹ của bà và bảo : nhờ có chiếc nhẫn này của mẹ mà ngày nay con có chiếc nhẫn Giám mục đó !
Câu chuyện này cho ta thấy gia đình Kitô hữu đóng góp lớn lao vào sứ mệnh của Hội thánh, như thánh Phaolô đã nêu cao - mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêsô (Ep 5,21-22.25.32 ; 6,1-4)
“Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa... Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh... Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh... Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô đã cho những người đang sống đời sống Hôn nhân gia đình một mẫu gương sáng ngời : mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội thánh : người chồng yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Hội thánh, người vợ phục tùng chồng như Hội thánh phục tùng Chúa ; kẻ làm con lắng nghe cha mẹ theo tinh thần của Chúa, cha mẹ giáo dục con cái thay mặt Chúa.
Từ mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội thánh, gia đình Kitô hữu còn được mời gọi sống tình yêu hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có ; Chúa con đón nhận tất cả để rồi lại dâng hiến lên Chúa Cha tất cả (x. Ga 17,10), Chúa Thánh Thần cũng nhận tất cả từ Chúa Cha và Chúa Con. Rồi Chúa Thánh Thần cũng dâng hiến lại tất cả để Người có thể trở thành hồng ân cao cả mà Chúa Cha và Chúa Con có thể ban tặng cho loài người (x. Ga 14,16.26 ; Lc 11,13).
Gia đình Kitô hữu, do đó, được tham dự vào chức năng và sứ mệnh mà Chúa Ba Ngôi đã trao cho Hội thánh : Chúa Kitô liên kết những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất như những chi thể của một thân thể duy nhất là Hội thánh. Vì thế, gia đình Kitô hữu được gọi là “Hội thánh tại gia”.
- Trong tình yêu thương hiệp nhất, gia đình Kitô hữu quây quần bên nhau sáng tối để dâng lên Thiên Chúa những kinh nguyện, những vui buồn sướng khổ, những lao nhọc vất vả, những phấn đấu sống đúng với chức năng của mỗi người. Và như vậy, gia đình chu toàn sứ mệnh ngôn sứ của Hội thánh (x. Mt 18,19-20).
- Trong tình yêu thương hiệp nhất, gia đình noi gương Chúa Kitô, tập tinh thần phục vụ nhau và phục vụ mọi người như Chúa Kitô đã phục vụ Hội thánh đến hiến mạng sống mình (x. Ga 13,1-16).
- Trong tình yêu thương hiệp nhất, bằng đời sống bác ái, gia đình Kitô hữu làm cho mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và mời gọi họ đón nhận tình yêu ấy (x. Ga 13,34-35).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn cuộc sống gia đình để đến trần gian thực hiện ơn cứu độ, nâng cao phẩm giá và ơn gọi gia đình. Xin Chúa chúc lành cho các gia đình công giáo và giúp họ biết phản ánh tình yêu của Chúa đối với Hội thánh.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Sau đó, Đức Giê-su đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51-52).
154. H. Bí tích Hôn phối là gì ? (GLCG. 270)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Chúa và Hội thánh, cùng ban cho họ sống xứng đáng ơn gọi của mình.
155. H. Gia đình quan trọng thế nào ? (GLCG. 393)
T. Gia đình là cộng đồng yêu thương căn bản mà Tạo Hoá đã xếp đặt cho nhân loại, là tế bào đầu tiên và là nền móng để xây dựng một xã hội bền vững.
156. H. Gia đình Ki-tô giáo có những ý nghĩa nào ? (GLCG. 394)
T. Gia đình Ki-tô giáo là một cộng đồng tình yêu theo hình ảnh hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thứ đến, gia đình Ki-tô giáo thể hiện cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội thánh. Vì thế, gia đình Ki-tô giáo được gọi là “Hội thánh tại gia”.
157. H. Tại sao gia đình Công giáo được gọi là “Hội thánh tại gia” ?
(GLCG. 276)
T. Vì cũng như Hội thánh, gia đình là cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện, là trường dạy các đức tính nhân bản và siêu nhiên, là cộng đoàn truyền giáo.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi. Mỗi buổi sáng, vào lúc 7 giờ, em đến làng bên cạnh, tức là làng tôi, để giao bánh mì. Đó là một em bé sinh động, luôn vui vẻ và đúng giờ. Em hồn nhiên dừng lại trước cửa những nhà muốn mua bánh mì rồi lại vui vẻ đạp xe đi.
Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoạt thích thú với cậu bé này :
- Mỗi sáng em phải dậy sớm. Em tự mình thức dậy hay phải có người đánh thức em ?
- Mẹ em ! Mẹ em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, mẹ cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, mẹ đánh thức ba dậy, dọn cà phê cho ba, trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy, cho chúng ăn để đi học. Xong xuôi tất cả thì mẹ lo cho đứa em út, cho nó uống sữa, và cuối cùng mẹ mới dùng sáng.
Khi em đi bán bánh về thì mẹ đã làm tất cả, quét dọn nhà cửa, giặt giũ quần áo... Buổi chiều cũng thế, em không biết mẹ đã làm những gì nhưng khi về đến nhà thì mọi chuyện đều tươm tất, nhất là bữa cơm tối, cha con em vui sướng ngồi ăn, đùa giỡn thật vui, còn mẹ em cứ luôn tay lấy cơm cho ba, cho mọi người, em vừa ăn vừa ngắm mẹ mà thích thú ! Rồi sau đó, giờ kinh gia đình. Ôi sao mà sướng thế : mọi người quây quần trước bàn thờ gia đình, cùng dâng lên Chúa những kinh nguyện tuy vắn tắt nhưng đầy lòng mến. Cuối cùng cả nhà cúi đầu đón nhận phép lành của Chúa do ba cầu phúc. Đấy gia đình em là thế !
Bắt chước gia đình này, ít nhất em luôn sốt sắng tham dự giờ kinh gia đình để góp phần làm cho gia đình em trở thành Hội thánh tại gia.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi đầy đủvào tập bài làm : tên thánh, họ, gọi của mọi người trong gia đình em.
V. KẾT THÚC.
(GLV nói đến thực trạng của phần đông gia đình trong giáo xứ để động viên các em cầu nguyện và góp phần xây dựng hạnh phúc đích thực cho các gia đình. Có thể hát một bài cầu xin cho gia đình, nếu có hoặc kinh Sáng Danh.)
Lời Chúa : “Khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri” (Cv 19,6).
Ý chính : 1. Bí tích Thêm sức.
2. Thừa tác viên và nghi thức.
3. Dấu ấn Thêm sức.
4. Người lãnh nhận Bí tích Thêm sức.
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1285 - 1321
Tâm tình : Ao ước và chuẩn bị chu đáo để lãnh nhận Bí tích Thêm sức.
Chuẩn bị : Sử dụng hình ảnh ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống và hình ảnh Đức Giám Mục đang ban Bí tích Thêm sức.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước)
2. Thánh hóa :
Nhờ Bí tích Thêm sức, chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách sung mãn, để chúng ta ý thức sâu xa hơn vinh dự làm con Thiên Chúa và Hội Thánh.
Các em hãy xin Chúa ban tràn ngập tâm hồn chúng ta Thần Khí và sức sống của Chúa.
Hát kinh Chúa Thánh Thần.
3. Dẫn vào bài mới :
Từ hôm nay chúng ta bước vào giai đoạn chót của chương trình giáo lý cấp II : chuẩn bị gần lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức. Vì thế, mời các em chăm chú và tích cực hơn.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Tại một vương quốc nọ, triều đình làm lễ phong vương cho vị hoàng tử trẻ kế vị vua cha đã băng hà. Tân vương còn rất trẻ nên không khỏi cảm thấy lo âu : làm thế nào để được thần dân yêu mến, đất nước được giàu mạnh, trăm họ ấm no hạnh phúc ?
Các khách mời dự tiệc lên tặng quà cho vị tân vương. Thật là nhiều lễ vật quí giá ? Trong các món quà, có một món làm tân vương thích thú, đó là chiếc vòng kỳ diệu. Ai đeo nó sẽ bị chích vào tay mỗi khi làm gì không đúng và nếu làm việc tốt thì ánh sáng của chiếc vòng sẽ loé sáng lên. Vị tân vương thích thú đeo ngay vào tay.
Trong nhiều năm, nhờ sự khích lệ của chiếc vòng kỳ diệu, nhà vua luôn được thần dân yêu mến, đất nước thái bình thịnh vượng.
Một thời sau, nhà vua bị chiếc vòng chích vào tay càng ngày càng nhiều. Cảm thấy bị nhắc nhở hoài, nhà vua tự nghĩ : “Ta là vua, uy quyền lớn lao, thần dân tuân phục hoàn toàn, tại sao ta phải lệ thuộc chiếc vòng này ?” Nhà vua liền vứt bỏ chiếc vòng để sống tự do thỏa thích, tự do ban hành luật lệ hợp với ý riêng mình... Chẳng bao lâu đất nước ngày càng loạn lạc, trăm họ khổ sở ta thán.
Thế rồi, một hôm vua bệnh nặng, thầy thuốc cho biết bệnh tình nhà vua trầm trọng. Trên giường bệnh, nhà vua nghĩ đến thời oanh liệt của mình. Đầy hối hận, ông vội cho tìm lại chiếc vòng kỳ diệu nhưng không còn kịp nữa ! Nhà vua từ trần.
Các em thân mến, trong đời sống làm con Chúa, chúng ta được Chúa ban nhiều món quà quí giá. Trong đó có món quà còn quí giá hơn chiếc vòng kỳ diệu của nhà vua kia. Các em có muốn nhận không? Chúng ta lắng nghe Lời Chúa giới thiệu chiếc vòng kỳ diệu đó để lãnh nhận nhé - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Lời Chúa trong sách Công vụ Tông đồ (Cv 19,1-7)
“Trong khi ông Apôlô ở Côrintô thì ông Phaolô đi qua miền thượng du đến Êphêxô. Ông Phaolô gặp một số môn đệ và hỏi họ : “Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa ?” Họ trả lời : “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói”. Ông hỏi : “Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào ?” Họ đáp : “Phép rửa của ông Gioan”. Ông Phaolô nói : “Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu”. Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Bí tích Thêm sức :
Lời Chúa trên đây kể lại việc thánh Phaolô đến Êphêxô. Tại đây ông đã gặp một nhóm 12 tín hữu chưa biết đến Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô đã cho họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội và khi đặt tay trên họ, Chúa Thánh Thần đã ngự đến biến đổi họ. Thánh Phaolô đã ban Bí tích Thêm sức cho các tín hữu này. Trong bài 9 giáo lý cấp II, chúng ta đã học về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ai, Người hoạt động thế nào nơi Chúa Giêsu, nơi các tông đồ ; Người đã ban những ơn gì cho các tín hữu... Nay chúng ta tìm hiểu cách thức thông thường và chắc chắn để lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Đó là Bí tích Thêm sức.
Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần (x. Ga 16,4-15). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã trao ban Thánh Thần (x. Ga 20,22) và Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (x. Cv 2,1-12). Sau đó, các tông đồ lại ban Chúa Thánh Thần cho các tín hữu mà Lời Chúa trên đây thuật lại. Ngày nay, Hội thánh trao ban Bí tích Thêm sức cho các tín hữu để nhờ Chúa Thánh Thần, họ sống Bí tích Rửa tội cách hoàn hảo hơn, liên kết mật thiết với Hội thánh và làm chứng cho Chúa Kitô.
2. Thừa tác viên và nghi thức :
(GLV có thể kể lại câu chuyện phù thủy Simon - x. Cv 8,18-21 đã kể ở ý 2 bài 31 giáo lý cấp II - để làm nổi bật thừa tác viên của Bí tích Thêm sức và thêm :)
Có tiền cũng không mua được quyền ban Bí tích Thêm sức. Sách Công vụ nhiều lần kể lại việc trao ban Chúa Thánh Thần (x. Cv 8,18-21 ; 10,44-47 ; 19,1-7 ; v.v...). Tất cả đều cho thấy chỉ có các tông đồ mới có quyền ban Bí tích Thêm sức. Ngày nay, các Đức Giám Mục là những người kế vị các tông đồ, nên mới có quyền ban Bí tích Thêm sức. Ngoài ra, Tân Giáo luật 1983 điều 883 có xác định thêm một số linh mục cũng có quyền ban Bí tích Thêm sức :
- Những vị mà luật đồng hóa với Đức Giám Mục giáo phận như Cha Giám quản Giáo phận, Cha Tổng Đại diện, Cha Đại diện Giám mục trong những trường hợp được luật qui định.
- Các linh mục khi Rửa tội cho người lớn.
- Các linh mục được vị có thẩm quyền ủy quyền.
- Các linh mục khi gặp trường hợp nguy tử..
Khi ban Bí tích Thêm sức, vị chủ lễ sẽ làm những nghi thức sau :
- Một là đặt tay trên đầu thỉnh viên và cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần xuống.
- Hai là xức dầu trên trán và đọc : “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”.
- Ba là chúc bình an.
Còn về phía thụ nhân : với tâm tình sốt mến đáp lại AMEN khi chủ sự ban Bí tích và thưa “và ở cùng cha” đáp lại lời chúc bình an của vị chủ sự.
3. Dấu ấn Thêm sức :
Ngày xưa, Thiên Chúa sai Môsê đi điều đình với Pharaô, vua Ai cập, để dân Do thái được ra khỏi đất Ai cập. Nhưng nhà vua không cho, lại còn hành hạ thêm. Chúa đã giáng nhiều tai họa xuống đất nước Ai cập nhưng nhà vua vẫn cứng lòng. Cuối cùng Thiên Chúa đã ra lệnh giết tất cả các con trai đầu lòng, từ con của loài người cho đến con của loài vật. Riêng vơi dân Do thái, Thiên Chúa ra một dấu hiệu : vào ngày ấn định, người Do thái giết chiên, lấy máu chiên bôi trên thành cửa. Những nhà nào có máu chiên ghi trên thành cửa sẽ được thoát nạn. Nhờ dấu hiệu này, các con trai đầu lòng của người và vật trong dân Do thái không bị giết.
Máu chiên bôi lên thành cửa nhà là dấu của sự cứu thoát. Cũng vậy, ngày nay, nơi mỗi người Kitô hữu, để phân biệt ai thuộc về Thiên Chúa, chúng ta cũng được ghi một dấu ấn riêng. Đó là dấu ấn của Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức như Lời Chúa nói với chúng ta sau đây. Mời các em đứng.
Lời Chúa trong thư thánh Phaolô Tông đồ gửi giáo đoàn Êphêxô
(Ep 1,13-14)
“Trong Đức Kitô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin mừng cứu độ anh em ; cũng trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn tín Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu thuộc giáo đoàn Êphêxô nhớ : “Tin mừng cứu độ họ đã được nghe giảng. Giờ đây, nếu họ tin theo, họ sẽ được đóng ấn của Chúa Thánh Thần, dấu ấn của lời hứa cứu độ. Dấu ấn này, ngày nay người tín hữu sẽ được đón nhận khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức. Dấu ấn này còn hơn dấu máu chiên nơi cửa nhà người Do thái bên Ai cập. Vì dấu xưa chỉ có giá trị trong biến cố Xuất hành, còn dấu ấn của Bí tích Rửa tội và Thêm sức là dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được. Chính vì thế, chúng ta chỉ được lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức một lần
mà thôi.
4. Người lãnh nhận Bí tích Thêm sức :
Một em bé Trung Hoa nài xin Đức Giám Mục cho em được lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Vị Giám Mục thừa sai do dự vì thấy em còn quá bé. Tuy vậy, em vẫn tha thiết nài xin. Đức Cha hỏi em :
- Sau khi được Thêm sức, nếu người ta bỏ tù con, tra vấn con về đức tin, con sẽ trả lời như thế nào ?
- Thưa Đức Cha, con sẽ trả lời rằng : Con là Kitô hữu.
- Nếu họ bắt con bỏ đạo, con sẽ làm gì ?
- Con sẽ trả lời : không bao giờ !
- Nếu họ kêu lính đem gươm giáo, súng đạn đến và bảo con : phải bỏ đạo đi ! nếu không, sẽ bị giết chết ?
- Con vẫn nói : không bao giờ !
Em bé Trung Hoa này mặc dầu còn quá bé nhưng qua những câu em trả lời Đức Giám Mục, em đã có đủ những điều kiện nên Đức Giám Mục đã cho em lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Tương tự thế, nhóm tín hữu ở Samaria thời các tông đồ cũng đã có đủ những điều kiện cần thiết nên các tông đồ đã ban Bí tích Thêm sức cho họ như sách Công vụ tông đồ đã kể lại, mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong sách Công vụ tông đồ (Cv 8,14-17)
“Các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ : họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ, hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Dân thành Samari được lãnh nhận Bí tích Thêm sức vì họ đã chịu phép Rửa tội. Em bé gái Trung Hoa được Đức Giám Mục cho lãnh nhận Bí tích Thêm sức vì em đã hiểu biết bổn phận của người lãnh nhận Bí tích Thêm sức, nghĩa là em đã học giáo lý. Đây là 2 điều kiện cơ bản phải có. Giáo luật qui định một số điều kiện cụ thể là : một người chỉ được lãnh nhận Bí tích Thêm sức khi :
- Đã Rửa tội (x. GL 889).
- Đã đến tuổi khôn (từ 7 tuổi theo GL 97,2) và chưa Thêm sức.
- Đã học giáo lý đầy đủ nhất là về Bí tích Thêm sức và Chúa Thánh Thần (x. GL 889,2).
- Sạch tội trọng, được chuẩn bị xứng đáng và có khả năng lặp lại những lời hứa của Bí tích Rửa tội (x. GL 889,2).
- Và cũng cần người đỡ đầu (x. GL 892).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần ! Xin hãy đến với tâm hồn chúng con, như xưa Chúa đã đến với các thánh tông đồ và các tín hữu. Nhờ đó, chúng con trở nên chứng nhân trung thành của Chúa Kitô trong đời sống và tích cực xây dựng Hội thánh Người.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri” (Cv 19,6).
158. H. Bí tích Thêm sức là gì ? (GLCG. 215)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để ban Chúa Thánh Thần, giúp người tín hữu sống hoàn hảo hơn Bí tích Rửa tội, liên kết mật thiết với Hội thánh và làm chứng cho Chúa Ki-tô.
159. H. Những ai có quyền ban Bí tích Thêm sức ? (GLCG. 216)
T. Thừa tác viên thông thường là Giám mục và những Linh mục được chỉ định; nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ Linh mục nào cũng đều có nhiệm vụ ban Bí tích này (GL 883, 3).
160. H. Khi ban Bí tích Thêm sức thì cử hành những nghi thức nào ?
(GLCG. 217)
T. Khi ban Bí tích Thêm sức, vị chủ lễ làm những nghi thức này :
- Một là đặt tay trên đầu thỉnh viên và cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần xuống.
- Hai là xức dầu trên trán và đọc : “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”.
- Ba là chúc bình an.
161. H. Bí tích Thêm sức có ghi dấu ấn thiêng liêng trong linh hồn không ? (GLCG. 218)
T. Cũng như Bí tích Rửa tội, Bí tích Thêm sức in trong linh hồn người tín hữu một dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được.
162. H. Những ai được lãnh Bí tích Thêm sức ? (GLCG. 219)
T. Những người đã được rửa tội và đến tuổi khôn, sạch tội trọng, học giáo lý đầy đủ và quyết sống đúng bổn phận Ki-tô hữu. Ngoài ra, cần có người đỡ đầu.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Thời các tông đồ, ở Xêdarê có một người tên là Cônêliô làm đại đội trưởng trong quân đội Rôma. Ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng như cả nhà ông ; ông rộng tay bố thí và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Cv 10,1-2). Thời đó, người ta chưa chấp nhận cho người không thuộc dân Do thái nhập đạo Công giáo. Nhưng nhờ lòng đạo đức và nhất là luôn sốt sắng cầu nguyện, ông và gia đình ông đã được các tông đồ đón nhận vào đạo và ban Chúa Thánh Thần.
Nay em muốn lãnh nhận Bí tích Thêm sức, em cũng noi gương gia đình Cônêliô luôn biết cầu nguyện “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến”.
3. Bài làm ở nhà :
Trình bày thật đẹp câu : “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến” vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
(Phấn khích các em chăm chỉ học Giáo lý và siêng năng cầu nguyện, nhất là tham dự thánh lễ, để dọn mình lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Tập cho các em hát bài “Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến” để kết thúc những giờ giáo lý cuối khóa này).
Bài 37
SỐNG BÍ TÍCH THÊM SỨC
Lời Chúa : “Chính anh em là muối cho đời... Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13.14).
Ý chính : 1. Bổn phận người Kitô hữu trưởng thành (Mt 10,28-33).
2. Tham gia đời sống xã hội (Mt 5,13.14.16).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 1897 - 1927
Tâm tình : Ước ao làm cho nhiều người tin theo Chúa.
Chuẩn bị : Hình các thánh tử đạo Việt Nam.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước)
2. Thánh hóa :
Các em đang đứng trên mảnh đất đã được thấm nhuần máu các Thánh Tử đạo Việt Nam. Những chứng nhân anh dũng đó là một lời mời gọi chúng ta hãy sống hồng ân của Bí tích Thêm sức.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho đời sống chúng con trở thành muối đất, và ánh sáng thế gian, để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa hầu mọi người nhận biết Chúa là Cha yêu thương.
Hát bài : Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến.
3. Dẫn vào bài mới :
Bí tích Thêm sức không phải là cái áo đẹp để mặc vào trong ngày lễ, nhưng chính là sức mạnh giúp sống đời Kitô hữu trưởng thành. Vì thế hôm nay chúng ta học cách sống sau khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, nghĩa là : sống Bí tích Thêm sức.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Sáng ngày 19.3.1994, tại phòng áo nhà thờ Lasandi Pinsepê gần thành phố Napoli miền nam nước Ý, cha Giuse Daiana đã bị sát hại do hai phát súng của bọn bất lương Camara bắn thẳng vào mặt lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính thánh bổn mạng Giuse. Cha Daiana là một linh mục trẻ mới 36 tuổi, tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, vẫn hăng hái với sứ mệnh tông đồ của cha. Dịp lễ Giáng sinh năm 1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng Casatano, cha đã ký tên vào hội quyết tâm chống lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ chuyên gieo tang tóc khắp miền đó. Cha đã chết thảm thương vì quyết tâm chống lại những hình thức vô luân, đồi bại, những tổ chức băng đảng bất lương và những sức mạnh núp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bình và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha và cái chết của cha không uổng phí, nhưng đã động viên và đoàn kết mọi người chống tội ác và xây dựng nền công lý, an bình cho xã hội loài người.
Qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, việc làm chứng trở thành bổn phận tất nhiên mà mọi Kitô hữu trưởng thành, nghĩa là đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức, theo lệnh Chúa, cần phải thi hành. Lời Chúa sẽ cho chúng ta hiểu và xác tín thêm điều này. Mời các em đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 10,28-33)
“Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Bổn phận người Kitô hữu trưởng thành :
Chúa Giêsu đã đưa ra yêu cầu sống can đảm trước những thách đố của niềm tin. Yêu cầu này dựa trên sự quan phòng, an bài của Thiên Chúa : con chim sẻ nhỏ bé, sợi tóc trên đầu... còn được Thiên Chúa sắp xếp, tiên liệu, phương chi mạng sống con người. Điều cần phải làm là can đảm sống đúng niềm tin Kitô giáo. Vậy đâu là những bổn phận của người Kitô hữu trưởng thành tức là những người đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức.
Để tìm hiểu điều này, trước tiên chúng ta cần xác định bổn phận là gì :
- Bổn phận là toàn thể những công việc, nghĩa vụ mà ta phải làm đi kèm với đời sống, chức vụ hoặc nghề nghiệp của mình. Thí dụ một học sinh thì phải lo việc học hành và giữ nội qui của trường. Một người lính phải làm nhiệm vụ canh gác, giữ gìn an ninh theo lệnh cấp trên... Nếu ai không thực hiện đúng và đầy đủ công việc đó, người ấy sẽ bị khiển trách, bị phạt hoặc nặng hơn, bị sa thải, đuổi ra khỏi công việc, chức vụ đó. Tất nhiên, khi chu toàn bổn phận thì được những phần thưởng, những quyền lợi.
- Khi lãnh Bí tích Thêm sức, chúng ta có những bổn phận này :
a) Can đảm thực hành Lời Chúa để làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc sống thường ngày : Cũng như Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn, Lời Chúa cho ta biết thánh ý Thiên Chúa mà chỉ những ai thực hành trong đời sống, mới xác định được mình là con Thiên Chúa, thuộc về Chúa. Hơn nữa, Chúa đã khẳng định : không phải những người kêu : “Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời nhưng là những ai thi hành ý Cha trên trời mới được vào Nước Trời” ( Mt 7,21). Can đảm sống đúng yêu cầu của đức tin, nghĩa là điều mà chúng ta tuyên xưng cũng chính là điều chúng ta cử hành, sống và cầu nguyện. Việc tuyên xưng, việc cử hành, đời sống và cầu nguyện làm nên một nếp sống duy nhất của người môn đệ Chúa Kitô. Tuyên xưng thế nào, chúng ta cố gắng sống như vậy. Thí dụ : chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng thông biết mọi sự thì chúng ta luôn sống ngay thẳng thật thà ; tuyên xưng Chúa là Cha nhân từ, chúng ta luôn yêu thương mọi người, tha thứ cho mọi xúc phạm đến danh dự, tài sản của ta.
- Khi có hai bổn phận trái nghịch nhau, chúng ta buộc chu toàn bổn phận đức tin. Thí dụ : ba má bảo trả thù người làm thiệt hại cho gia đình ; còn Chúa dạy phải tha thứ (x. Mt 5,43-48). Chúng ta phải khôn khéo từ chối ý ba má và làm trọn ý Chúa... Các thánh tông đồ chọn Chúa đến hy sinh tính mạng hơn là từ chối Chúa dù có được tài sản, danh vọng, chức quyền...
- Khi có hai bổn phận cùng ngày, chúng ta phải sắp xếp ưu tiên cho bổn phận đối với Chúa. Thí dụ : trong ngày Chúa nhật chúng ta phải sắp xếp sao để bảo đảm tham dự trọn vẹn, đầy đủ Thánh lễ.
- Khi có hai bổn phận đồng thời, ta phải chọn bổn phận đối với Chúa. Thí dụ : người bạn đến thăm đúng vào giờ Thánh lễ Chúa nhật. Trong trường hợp này, nếu được, chúng ta mời khách cùng đi dự lễ ; nếu không được, buộc lòng phải tế nhị từ chối tiếp bạn để chu toàn bổn phận dự Thánh lễ Chúa nhật.
Tóm lại, đời sống đức tin trưởng thành đòi hỏi người Kitô hữu luôn suy nghĩ, nói năng và hành xử theo giáo huấn đức tin.
b) Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin mừng : Chúng ta là người có đạo nhưng vẫn sống trong xã hội con người. Chúng ta là một phần tử của xã hội, nên ta phải góp phần vào việc xây dựng xã hội loài người sao cho tốt đẹp. Người có đạo phải là người luôn làm việc tốt với ý thức rằng : Chúa muốn chúng ta làm cho địa cầu xinh đẹp hơn (x. St 2,5.19-20) và đặc biệt có tinh thần yêu thương phục vụ (x. Ga 15,12-13).
c) Tích cực bênh vực và truyền bá đức tin cho mọi người : Đây là ý nghĩa sâu xa và tích cực của ơn gọi Kitô hữu , nghĩa là khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt Bí tích Thêm sức, ta phải thi hành. Các tông đồ xưa, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã không còn sợ sệt, nhút nhát, nhưng đi khắp nơi rao giảng Tin mừng và sẵn sàng chết vì Danh Chúa Kitô... hay như cha Daiana, trong câu chuyện dẫn nhập trên đây, đã chết vì sứ mạng hoạt động tông đồ.
2. Tham gia đời sống xã hội :
Có một ông giám đốc xưởng kỹ nghệ chuyên sản xuất nông cụ. Ông không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng mấy tin vào tinh thần trách nhiệm của các công nhân trong xưởng.
Một hôm, hơn 1000 công nhân trong xưởng nghe nói ông giám đốc đã lên đường đi công tác xa nhà và sớm lắm cũng một tháng sau mới trở về. Nhưng tối hôm đó, ông kín đáo về lại xưởng. Sáng hôm sau, ông đến văn phòng ở lầu 2 quan sát các công nhân đến làm việc.
Bộ mặt thực của mỗi người đều bộc lộ : phần đông bê trễ, làm việc uể oải, nhớn nhác... Ông chú ý tới một anh công nhân lúc nào cũng làm việc tận tụy hăng say. Tên anh là Shirley, người công giáo duy nhất trong xưởng.
Hôm sau, các công nhân nghe rằng ông giám đốc đã hoãn chuyến đi vì trở ngại máy bay. Riêng Shirley được gọi lên văn phòng giám đốc :
- Anh Shirley, tôi hết lòng khen ngợi anh. Anh là một công nhân tốt. Tôi không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn vào công việc lao động và thái độ sống của anh, tôi cũng hiểu được phần nào...
Anh Shirley đã hoàn thành vai trò của người Kitô hữu trong xã hội trần thế đúng như Lời Chúa dạy - mời các em lắng nghe - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 5,13.14.16)
“Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được... Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Lời Chúa trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe cho chúng ta một xác định rõ rệt về vai trò của người Kitô trong trần gian này, phải nên muối ướp trần gian và nên ánh sáng tỏa chiếu niềm tin cho mọi người. Đặc biệt trong môi trường trần thế, người giáo dân có bổn phận làm cho các thực tại trần thế thấm nhuần tinh thần Tin mừng.
a) Vai trò Kitô hữu trong trần thế (x.Thư chung ĐGM.XL ngày 23.10.86).
“Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của người giáo dân. Do ơn gọi riêng, người giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách quản lý và sắp đặt các thực tại trần thế theo ý muốn Thiên Chúa. Họ sống giữa trần thế, nghĩa là giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội ...những cái đó dệt thành cuộc sống của họ” (Hc.HT 31).
Thiên Chúa muốn ta sống hài hòa với mọi người, xây dựng một nền văn minh tình thương theo mẫu mực Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là khi làm việc, ta nhằm kiến tạo những gì là tốt đẹp như Chúa Cha đã làm trong công trình sáng tạo, như cách phục vụ đầy yêu thương và vô vị lợi cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Con, như Chúa Thánh Thần không ngừng thánh hóa và canh tân Kitô hữu, khi tham gia xây dựng xã hội trần gian theo khuôn mẫu ấy, sẽ không dừng lại ở tư lợi, ích kỷ bản thân mà lan tỏa hương thơm và sức sống của Thiên Chúa ngay trong đời sống xã hội của mình.
b) Người Kitô hữu có bổn phận nào đối với xã hội ?
Chúng ta có thể hiểu đời sống người Kitô hữu là một cuộc lên đường đi đến chỗ hoàn thiện bản thân và hoàn thiện các mối tương quan trong đời sống xã hội. Bản thân con người là yếu đuối, tội lỗi và dễ sai phạm, nhưng nhận ra được các khuyết điểm của mình, họ luôn biết sửa sai từ nội tâm đến cách sống. Kitô hữu khi hoàn thiện bản thân mình, họ theo Lời Chúa cùng mọi người thực thi bác ái, góp phần làm đẹp xã hội và môi trường sống. Những gì cổ võ cho sự thật, công bằng và tiến bộ, phù hợp với luật Chúa và Hội thánh, người đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức sẽ xem đó là bổn phận Chúa muốn mình tham gia tích cực.
c) Ta phải tham gia xây dựng ích chung thế nào ?
- Chu toàn bổn phận một công dân : tuân thủ luật pháp, thi hành nghĩa vụ quân sự, lao động, bầu cử...
- Tích cực góp phần vào việc chung của khu phố, phường, xã... như tham gia các phong trào sạch và xanh, cứu trợ, từ thiện...
- Sống đúng theo các đòi hỏi của lương tâm trong các bổn phận xã hội. Đối với các tệ nạn xã hội như xì ke, ma túy, băng đảng, hối lộ, tham nhũng... người Kitô hữu cương quyết không tham gia, vướng vấp và còn góp phần tích cực bài trừ.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi ơn sủng, xin giúp chúng con biết chuyên chăm học hành và luyện tập nhân đức để trở thành chứng nhân Nước Trời và xây dựng trần thế theo tinh thần Phúc âm.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chính anh em là muối cho đời... Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13.14).
163. H. Khi đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta có những bổn phận nào ? (GLCG. 220)
T. Ta có ba bổn phận này :
- Một là can đảm thực hành Lời Chúa để làm chứng cho Chúa Ki-tô trong cuộc sống thường ngày.
- Hai là góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng.
- Ba là tích cực bênh vực và truyền bá đức tin cho mọi người.
164. H. Thiên Chúa muốn ta sống trong xã hội như thế nào ? (GLCG. 333)
T. Thiên Chúa muốn ta sống hài hòa với mọi người, xây dựng một nền văn minh tình thương theo mẫu mực Ba Ngôi Thiên Chúa.
165. H. Người Ki-tô hữu có bổn phận nào đối với xã hội ? (GLCG. 336)
T. Người Ki-tô hữu cần tích cực hoán cải nội tâm và cổ võ công bằng bác ái, đồng thời góp phần đổi mới các định chế và điều kiện sống trong xã hội dưới ánh sáng Tin Mừng.
166. H. Ta phải tham gia xây dựng ích chung thế nào ? (GLCG. 341)
T. Ta phải tham gia bằng những cách này :
- Một là chu toàn các trách nhiệm cá nhân trong xã hội,
- Hai là tích cực góp phần vào sinh hoạt chung,
- Ba là sống đúng theo các đòi hỏi của lương tâm trong các bổn phận xã hội.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Một vị tuyên úy quân đội vừa giảng một bài cho các binh sĩ trong thánh lễ tại một giáo đường ở Âu Châu. Chủ đề bài giảng là : “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn, đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó”. Sau thánh lễ, một lính thủy rất xúc động vì bài giảng, đã chận vị tuyên úy ngay trước cửa giáo đường và hỏi : “Thưa cha, con có thể xưng tội bây giờ được không ?” Vị tuyên úy trả lời : “Tôi rất sẵn sàng”. Thế là anh lính vội quỳ xuống. Vị tuyên úy liền nói : “Đừng quỳ gối, kẻo thiên hạ nhìn kìa”. Anh lính đáp lại : “Thưa cha, kệ họ, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con”.
Chàng lính thủy đó đã có ý nghĩ và thực hành rất can đảm. Không xấu hổ mà còn công khai thực hành đức tin của mình.
Các em thân mến, chàng lính thủy ấy đã được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn nên chàng đã có can đảm mãnh liệt tỏ rõ đức tin của mình một cách chân tình như thế... Vậy chúng ta hãy bắt chước chàng lính thủy mà xưng đạo Chúa ra trong mọi nơi chúng ta sống như khi sống giữa anh em lương dân, ta vẫn thực hành đời sống cầu nguyện hoặc khi sự thật bị che giấu, bóp méo, chúng ta phải can đảm và khôn khéo nói lên sự thật, bênh vực quyền lợi chính đáng của người yếu thế.
Thực hành : Em quyết tâm học tập chuyên chăm để xây dựng trần thế nên tốt đẹp hơn.
3. Bài làm ở nhà :
Tìm và ghi lại một Lời Chúa mời gọi sống thật thà hoặc bác ái.
V. KẾT THÚC.
Hình ảnh của người lính thủy trong câu chuyện trên, giúp chúng ta can đảm thực hành Lời Chúa và biết làm những việc tốt, nêu gương sáng cho mọi người, góp phần mình làm cho cuộc đời bản thân, gia đình, khu xóm, giáo xứ và nói chung, xã hội tốt đẹp. Nhờ đó, Chúa được vinh quang và đức tin của chúng ta được vững mạnh lên trong ơn Chúa Thánh Thần.
Lời Chúa : “Những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa” (Cv 8,4).
Ý chính : 1. Sứ mạng truyền giáo của Hội thánh.
2. Mọi người tín hữu tham gia sứ mạng.
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 783-786.849-856. 863. 905. 913. 1285. 2044. 2472.
Tâm tình : Mong ước có nhiều người tin thờ Chúa.
Chuẩn bị : Tranh bản đồ vùng Tiểu Á thời các tông đồ.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết là việc tông đồ, không chỉ bằng lời rao giảng, vì chúng con còn nhỏ tuổi, nhưng trước tiên bằng chính cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa, để những ai tiếp xúc với chúng con đều cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho họ.
3. Dẫn vào bài mới :
Bí tích Thêm sức làm cho người tín hữu nên người trưởng thành có trách nhiệm xây dựng Hội thánh. Vì thế, người giáo dân có quyền lợi và nghĩa vụ trong sứ mệnh tông đồ truyền giáo của Hội thánh. Chúng ta cần tìm hiểu quyền lợi và nghĩa vụ này.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Người ta kể rằng dân da đỏ tại Paraguay bên Nam Mỹ, hồi thế kỷ 17, đã sống trên núi cao để tránh người da trắng bắt làm nô lệ. Do đó, các nhà truyền giáo không làm sao đến với họ được.
Cha Gabriel thuộc dòng Tên đã tận dụng tiếng sáo để đến với những người dân đáng thương này, sau chặng đường dốc đầy nguy hiểm. Với bao hy sinh, cha đã từng bước giúp thổ dân đón nhận nếp sống văn minh. Họ lập ấp sống tinh thần yêu thương của Tin mừng. Khốn nỗi, những người da trắng, vì óc thực dân, lại kéo đến tàn phá làng mạc của họ. Cha Gabriel cũng bị trúng đạn chết khi cha đang kiệu Mình Thánh Chúa với những thổ dân vô tội.
Thực ra, việc làm của Cha Gabriel không mới lạ gì, vì ngay từ thời sơ khai, các tông đồ như Phêrô, Phaolô... cả những giáo dân đã nhiệt tình rao giảng Tin mừng. Nhờ đó, nhiều người, nhiều dân tộc được biết Chúa là Cha và mọi người là anh em, được vui sống trong Hội thánh Chúa như chính Chúa Giêsu đã truyền dạy trước khi về trời - Mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 16,14.15-16)
“Sau cùng, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì sẽ bị kết án”. Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh :
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho Hội thánh sứ mệnh rao giảng Tin mừng khắp thế giới. Vì thế, mọi sinh hoạt của Hội thánh đều hướng tới việc làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Kitô. Đem Chúa đến cho một người, một vùng chưa biết Chúa : đó là truyền giáo. Làm cho một người, một vùng đã biết Chúa nhưng sống lơ là hay đã bỏ Chúa, được sống đạo tích cực hơn : đó là truyền giáo, hay tái truyền giáo theo cách nói của Đức Gioan Phaolô II.
Tất cả những việc làm này được gọi là việc tông đồ truyền giáo. (x. SL. TĐGD 2).
Việc tông đồ truyền giáo là sứ mệnh quan trọng hàng đầu của Hội thánh Chúa Kitô xét theo nguồn gốc và sứ mệnh :
a) Nguồn gốc : việc tông đồ truyền giáo bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi :
- Chúa Cha sáng tạo vạn vật đã dày công dựng nên loài người. Người cho họ tham dự sự sống thần linh của Người ở đời này và muốn họ sống hạnh phúc với Người trên nơi vĩnh hằng. Đó là ý định nhân lành của Chúa Cha. Thế nhưng, ý định ấy đã bị nguyên tổ làm hỏng. Tội tổ tông làm tắc nghẽn nguồn sống. Phải khai thông bế tắc mới được.
- Vì thế, Chúa Con được sai xuống trần gian. Chúa Con đã khai thông bế tắc ấy bằng cuộc sống trần gian, bằng hành động đổ máu trên thập giá và sống lại. Từ thập giá, dòng sông sự sống thần linh lại chảy ào ạt xuống trên loài người và kéo loài người lên với Thiên Chúa. Chúa Kitô còn kiến tạo Hội thánh như ngôi nhà để những ai tin vào Người, đều được hưởng sự sống thần linh.
- Khi Chúa Kitô đã về trời, Chúa Thánh Thần được phái đến trong Hội thánh. Chúa Thánh Thần giúp các tín hữu hứng đón sức sống thần linh ấy, đồng thời giúp họ hoạt động truyền giáo để kêu mời tất cả mọi người vào sống trong ngôi nhà Hội thánh.
b) Sứ mệnh tông đồ :
- Trước khi về trời, Chúa Kitô nói với các tông đồ : “Các con hãy ra đi, rao giảng Tin mừng cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (Mc 6,15).
- Vào lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần thúc đẩy Hội thánh ra mắt thế giới, cùng ban cho Hội thánh sức mạnh để thi hành sứ mệnh truyền giáo đến mút cùng trái đất, cho tới ngày cánh chung (x.Cv 2,1-11)
- Để chu toàn sứ mệnh này, Chúa Cứu thế đã trao cho Hội thánh mọi quyền hành thiêng liêng : rao giảng, thánh hóa và quản trị. Người hứa ở cùng Hội thánh đến tận thế (x.Mt 28,20 ; Mc 16,17-19).
Kể từ ngày ấy các Tông đồ và các Đấng kế vị hằng nỗ lực thi hành sứ mệnh Chúa cứu thế đã trao cho.
2. Mọi người tín hữu tham gia sứ mệnh truyền giáo.
Sách Công vụ tông đồ kể lại câu chuyện này : có một người Do thái tên là Apôlô quê ở Alexandria đã đến Êphêxô (GLV chỉ vào bản đồ Tiểu Á, nếu có, mà diễn giảng). Ông có tài hùng biện và thông thạo Kinh thánh. Ông được học đạo Chúa ; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy về Chúa Giêsu. Ông bà Priskila và Aquila mời ông Apôlô về nhà để trình bày đạo mới Thiên Chúa cho ông cách chính xác hơn.
Ông Apôlô muốn sang miền Akaia (chỉ lên bản đồ, nếu có) thì các anh em khuyến khích ông và viết thư xin các môn đệ tiếp đón ông. Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích cho những người ở đây tin vào Chúa Giêsu là Đấng Kitô (x. Cv 18,24-28).
Sách Công vụ tông đồ trình bày sinh hoạt của Hội thánh thời các tông đồ mà chủ yếu là hoạt động của các tông đồ. Tuy nhiên, cũng đã cho thấy sự tham gia tích cực của người giáo dân vào sứ mệnh truyền giáo mà câu chuyện trên là một thí dụ cụ thể. Như vậy, trong thời cộng đoàn Giêrusalem bị bách hại, người giáo dân đã truyền giáo như chính sách Công vụ tông đồ kể lại - mời các em lắng nghe, mời đứng.
Lời Chúa trong sách Công vụ tông đồ (Cv 8,1b.4)
“Hồi ấy, Hội thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các tông đồ ra, mọi người đều phải tản mát về các vùng quê hai miền Giuđê và Samari... Vậy những người phải tản mát này, đi khắp nơi loan báo lời Tin mừng”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Ngay từ thời các Tông đồ, khi cộng đoàn Giêrusalem bị bách hại, các tín hữu khi phải di tản đến các miền khác, đều hăng say loan báo Tin mừng mà họ vừa lãnh nhận từ các Tông đồ.
Với những lý do chúng ta ghi nhận ở phần trên (ý 1), Công đồng Vaticanô II đã khẳng định : Hội thánh lữ hành, tự bản chất là TRUYỀN GIÁO (x. SL.HĐTG số 2) và Hội thánh là một cộng đoàn luôn ở trong tình trạng TRUYỀN GIÁO mà tất cả mọi thành phần, những người đã được Rửa tội và Thêm sức, được hiệp nhất với nhau trong cùng một Thân Thể để được sai đến với các dân tộc. Trong nội bộ cộng đoàn này, nếu những vai trò, những trách vụ và những đoàn sủng có khác nhau, thì ơn gọi truyền giáo vẫn là điều chung cho tất cả : cho các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Tất cả được mời gọi thực hiện sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế (x. Sđ.TG 1985 số 2).
a) Giáo dân có bổn phận hoạt động tông đo.
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh Tông đồ giáo dân đã nói rõ : “Ơn gọi Kitô hữu, tự bản chất, cũng là ơn gọi làm tông đồ” (TĐGD số 2). Công cuộc tông đồ không dành riêng cho một ai, nhưng tất cả mọi người Kitô hữu đều phải góp phần thi hành sứ mệnh rao giảng Tin mừng của Hội thánh, nghĩa là làm việc tông đồ : “Vì người giáo dân được tháp nhập thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô nhờ Bí tích Thánh Tẩy và được tăng cường sức mạnh nhờ Bí tích Thêm sức, nên chính Chúa Kitô cắt đặt họ làm việc tông đồ” (Hc.HT.33). Chúa Giêsu đã xác định lệnh truyền đó : “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). “Các con hãy đi khắp muôn dân, rao giảng Tin mừng và Rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mc 16,15).
Giáo luật cũng nói : “Tùy theo bậc sống của mình, mọi Kitô hữu phải góp sức để sống thánh thiện và làm cho Hội thánh lớn lên và không ngừng được thánh hóa” (GL k. 210).
b) Hình thức hoạt động tông đồ.
Có nhiều hình thức hoạt động tông đồ. Ta có thể tóm vào 2 hình thức chính : cá nhân và tập thể.
- Hình thức cá nhân : “Đời sống Kitô giáo đích thực là cơ bản cho mọi hoạt động tông đồ” (x. SL. TĐGD 16). Đời sống đạo đức trong đức tin, đức cậy, đức mến góp phần xây dựng cộng đoàn (x. SL. TG 4). Các đau khổ, hy sinh do bệnh tật, tuổi già hay những thử thách... nếu được kết hợp với Chúa Kitô để cứu chuộc trần gian, rất có giá trị trong việc tông đồ. (x. Gương thánh Têrêsa Hài Đồng : chính nhờ bệnh tật, Người giúp ích rất nhiều cho các nhà thừa sai đang làm việc tông đồ trong Hội thánh).
Hoạt động tông đồ cá nhân vừa tầm hết mọi người, cho những ai không có khả năng, phương tiện và thời giờ để làm việc tông đồ tập thể : đời sống chứng tá, cầu nguyện, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ theo khả năng cho những người hoạn nạn, an ủi những ai đau khổ, dạy giáo lý cho những người tin Chúa, động viên những người chung quanh thực hiện đời sống công bình, bác ái... tất cả đều là những hoạt động tông đồ cá nhân có giá trị.
- Hình thức tập thể : người tín hữu còn biết tham gia tích cực hoạt động trong các tổ chức tông đồ của Hội thánh tại giáo xứ, giáo phận : ca đoàn, giúp lễ, GLV... các tổ chức từ thiện, giáo dục v.v...
Hoạt động tông đồ không chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho những người đã rửa tội, mà còn có nhiệm vụ trình bày đức tin cho người chưa tin. Mỗi tín hữu phải biết làm chứng cho Chúa Kitô, loan báo Chúa Kitô bằng việc làm, lời nói cho những người chung quanh, cho những người cùng nghề nghiệp, các bạn học v.v... Trong các hoạt động này, vai trò của người giáo dân rất quan trọng, vì nhiều người chỉ có thể nghe biết Tin mừng nhờ những giáo dân mà họ gặp (x. SL. TG số 13).
Công đồng Vaticanô II mong rằng trong lòng mọi tín hữu, giáo sĩ hay giáo dân, đều vang lên lời thánh Phaolô : “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1 Cr 9,16).
Riêng đối với các em Giáo lý cấp II, hoạt động tông đồ thích hợp với các em trước tiên là đời sống thánh thiện, ngoan đạo, chuyên chăm cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Hội thánh, hăng say học hỏi giáo lý, giúp đỡ bạn bè cùng lớp, cùng khu xóm biết Chúa và sống đức tin : “Người Trẻ phải là tông đồ đầu tiên và trực tiếp cho người Trẻ” (SL.TĐGD số 12).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, hôm nay chúng con hiểu rằng tất cả mọi Kitô hữu có sứ mệnh hoạt động tông đồ. Xin khơi dậy trong tâm hồn chúng con lòng nhiệt thành tông đồ, biết quan tâm đến phần rỗi mọi người chung quanh chúng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa” (Cv 8,4).
167. H. Hoạt động tông đồ, nghĩa là gì ?
T. Là làm những việc có mục đích giúp cho người khác biết và tin theo Chúa Giê-su (x. Sl.TĐGD Số 2).
168. H. Ta có nhiệm vụ hoạt động tông đồ không ?
T. Có. Tất cả mọi người Ki-tô hữu đều có nhiệm vụ mở rộng Nước Chúa, tham gia các hoạt động tông đồ, truyền giáo (x. Sl.TĐGD số 2).
169. H. Ta hoạt động tông đồ như thế nào ?
T. Ta có thể hoạt động tông đồ theo hình thức cá nhân hay tập thể như thăm viếng, dạy giáo lý và các sinh hoạt tông đồ của Hội thánh (x.Sl.TĐGD 15-22).
170. H. Vì sao Hội thánh có sứ mạng truyền giáo ? (GLCG. 126)
T. Vì :
- Một là Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ.
- Hai là Hội thánh có bổn phận đem chân lý được Chúa trao phó đến cho mọi người.
- Ba là chính Chúa Ki-tô, trước khi về trời đã sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Đã mấy tháng nay, Tuấn và các bạn cùng tổ trong lớp giáo lý cấp II đang gắng công động viên Hòa, một người bạn cùng tổ : Hòa bỏ học giáo lý ! Hoàn cảnh của Hòa thật đáng thương : gia đình nghèo, mồ côi mẹ từ nhỏ, phải sống với dì ghẻ ác nghiệt... Hòa lêu lổng từ nhỏ, càng ngày càng ngỗ nghịch, lười biếng, bất cần. Như các bạn, Hòa cũng đến trường, đi học giáo lý nhưng chẳng chú tâm học hỏi, lại hay chọc phá, và vì quá lớn so với các bạn nên Hòa bỏ học !!!
Mỗi ngày ngang qua nhà Hòa, Tuấn thường vào thăm và rủ Hòa, nhưng Hòa vẫn không đi, lại còn diễu cợt, chọc quê Tuấn nữa. Không nản lòng, Tuấn vẫn lui tới thuyết phục. Một hôm, Hòa khích Tuấn : “Tớ nghe Cha xứ và anh Trung (GLV) nói Chúa yêu thương và công bình với hết mọi người. Vậy tại sao Chúa cho mày sướng. Còn tao, Chúa để khổ cực mãi thế này. Vậy là Chúa yêu thương gì tao, Chúa bất công !!! Phải vậy không mày ? Tao cóc đi học nữa !”
Trước câu hỏi đó, Tuấn ngẩn người, chẳng biết giải đáp ra sao? Sự hiểu biết về Lời Chúa của mình còn ít quá. Phải chi lúc này mình hiểu biết Lời Chúa nhiều thì sẽ giúp ích được cho Hòa và cho nhiều bạn khác. Lúc này, Tuấn mới hiểu ra : muốn làm việc tông đồ, nhiệt tình thôi chưa đủ, mà còn phải có vốn liếng giáo lý, Lời Chúa. Từ ngày đó, Tuấn càng chuyên chăm học hỏi giáo lý, Lời Chúa hơn.
Thực hành : Em quyết tâm động viên bạn em tham dự các giờ giáo lý để biết giới thiệu Chúa cho người khác.
3. Bài làm ở nhà :
Em tìm một Lời Chúa mời gọi em làm việc tông đồ. Viết lại đóng khung thật đẹp.
V. KẾT THÚC.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chỉ ở trong nhà dòng kín, không đi đến đâu. Nhưng bằng đời sống cầu nguyện và chu toàn bổn phận, chị đã cứu được bao nhiêu linh hồn về với Chúa. Hội thánh đã đặt Chị làm bổn mạng các xứ Truyền giáo ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê suốt đời đã đi rao giảng khắp nơi. Các em bắt chước chị thánh nhé. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ Chúa đã cho chúng ta hôm nay hiểu rõ vể bổn phận tông đồ và các phương thế thực hiện bổn
phận ấy.
Sáng Danh...
Lời Chúa : “Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng... Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10,13.16).
Ý chính : 1. Phụ tích là gì ? (Mc 10,13-16).
2. Việc đạo đức bình dân (2 Mcb 12,43-45).
3. Tôn kính ảnh tượng (Đnl 4,15-16).
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 1667-1690.
Tâm tình : Tôn trọng các phụ tích và các việc đạo đức.
Chuẩn bị : Một vài ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, vũ trụ này do Chúa sáng tạo để thuộc về Chúa và ca tụng Chúa. Xin cho mọi người biết xử dụng các của cải để tôn vinh Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con đây là những tạo vật của Chúa, để tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng con hòa thành lời ca tụng Chúa đến muôn đời.
3.Dẫn vào bài mới :
Ngoài 7 Bí tích, chúng ta còn thấy Hội thánh cử hành các nghi thức khác như làm phép ảnh tượng, khấn dòng v.v... những nghi thức này được gọi là Phụ tích hay Á Bí tích. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Giacóp vào tuổi già đã được gặp lại Giuse bên đất Ai cập và khi Giacóp ốm liệt, Giuse đã đưa Manasê và Epraim, con ông, đến thăm Giacóp. Giacóp đặt tay trên đầu 2 cháu và chúc cho 2 cháu như sau : “Ước gì Thiên Chúa, Đấng mà trước nhan Người, cha ông ta, Abraham và Isaác hằng đi đứng, chúc lành cho các trẻ này” (x. St 48,1-16).
Chúc lành cho các trẻ nhỏ vẫn là thói quen trong dân gian. Chính Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy như thánh Máccô kể lại, mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 10,13-16)
“Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em : ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”. Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Phụ tích là gì ?
Chúa Giêsu đã yêu thương các trẻ nhỏ, Người đã thương ẵm chúng và chúc lành cho chúng. Đây cũng là thói quen của truyền thống dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong dịp tết : vào lúc giao thừa, ông bà cha mẹ thường có thói quen chúc lành cho con cháu. Và để cụ thể hóa lời chúc lành ấy, ông bà, cha mẹ còn cho con cháu đồng tiền mới, gọi là lì xì. Được lời chúc lành đầu năm và nhất là nhận đồng tiền lì xì này vẫn là một cảm nhận “cái hên” cho suốt năm mới.
Hội thánh tiếp nhận truyền thống tốt đẹp “chúc lành” của Cựu ước, của nhiều dân tộc, đã thiết lập các lời chúc lành không những trên người mà còn trên cả đồ vật, và mở rộng ra cả những yêu cầu thiết thực trong đời sống, gọi chung là phụ tích hay á Bí tích, gồm 3 loại sau :
- Một là việc chúc lành cho người, đồ dùng hoặc nơi chốn,
- Hai là nghi thức thánh hiến người, đồ dùng hoặc nơi cử hành Phụng vụ,
- Ba là nghi thức trừ khử ma quỉ.
(Tùy thời giờ có thể mà GLV quảng diễn cụ thể hơn về các phụ tích. Có thể dựa vào cuốn nghi thức làm phép để trình bày).
2. Việc đạo đức bình dân :
Người ta có kể rằng : vào dịp ngày thứ sáu Tuần thánh hàng năm, tại Philippine, các tín hữu vẫn tưởng niệm việc Chúa chịu chết bằng cách cử hành đóng đanh thực sự một người tự nguyện, như xưa Chúa chịu nạn. Việc làm này khiến nhiều người thắc mắc, chúng ta không biết các vị thẩm quyền tôn giáo Philippine có ý kiến gì, nhưng ít ra đó là một trong những việc cử hành do lòng đạo đức quần chúng tương tự như xưa người Do thái đã tự động quyên tiền về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội, được thuật lại trong sách Maccabê, mời các em lắng nghe - mời đứng.
Lời Chúa trong sách Maccabê (2 Mcb 12,43-45)
“Đoạn ông Giuđa quyên tiền nơi mỗi người và đã gởi về Giêrusalem lối hai ngàn quan tiền để dâng lễ tế đền tội : ông đã làm một điều rất tốt lành và cao quí, bởi nghĩ đến sự sống lại ; vì nếu ông không trông rằng những người thiệt mạng ấy sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết là việc dư thừa và ngớ ngẩn ; còn nếu ông nhìn đến phần thưởng tuyệt hảo dành cho những người đã an nghỉ cách đạo đức, thì quả là ý nghĩ lành thánh và đạo đức ; do đó ông đã xin dâng lễ tế xá tội cho những người đã chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Thời đó, Giuđa và quân đội Do thái, để bảo vệ tự do tín ngưỡng, đã phải chiến đấu với Gordias, tướng coi vùng Iđumêa. Người Do thái chiến thắng nhưng có nhiều người chết. Sau trận chiến, người ta đi thu lượm xác những người chết thì phát hiện dưới áo của những người chết đều giấu đồ cúng, là điều lề luật cấm nên mọi người đều rõ vì nguyên do nào mà những người đó thiệt mạng. Đứng trước sự kiện này, lòng đạo đức bình dân đã thôi thúc Giuđa tổ chức cuộc lạc quyên để dâng lễ tế xá tội cho những người chết.
Ở thời đại nào, và dân tộc nào cũng có những hình thức tương tự gọi là việc đạo đức bình dân. Nhiều giáo xứ trong giáo phận chúng ta cũng có những việc đạo đức bình dân. Thí dụ : ngắm đứng, đóng đinh táng xác dịp tuần thánh, dâng hoa tháng Năm tôn kính Đức Mẹ, đi hành hương các đền thánh, đi chặng đàng thánh giá, lần hạt mân côi v.v...
Những việc đạo đức này rất có ích và được Hội thánh cổ võ, nhưng cần làm sao để chúng được hòa nhập và hướng đến sinh hoạt Phụng vụ của Hội thánh.
3. Tôn kính ảnh tượng :
Nếu chúng ta có dịp vào nhà thờ hay tư gia của anh em Tin lành, chúng ta không hề thấy một ảnh tượng nào. Trong khi đó, vào bất cứ nhà thờ hay tư gia người công giáo nào thì chúng ta lại thấy nhiều ảnh tượng ! Tại sao cùng những người tôn thờ Thiên Chúa mà cách bài trí lại khác nhau ? Trước tiên chúng ta cùng nhau đọc lại Lời Chúa nói về vấn đề này, mời đứng.
Lời Chúa trong sách Đệ nhị luật (Đnl 4,15-16)
“Anh em hãy cẩn thận giữ mình : anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày Đức Chúa phán với anh em tại núi Khorép, từ trong đám lửa ; vì thế đừng có ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì : hình người nam hay người nữ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Đoạn Kinh thánh này rất có giá trị : cho ta biết ý muốn rõ rệt của Thiên Chúa : cấm tạc và thờ bất cứ một tượng ảnh nào về Thiên Chúa vì Người là Đấng siêu việt (x. Is 40,25). Lệnh cấm này được lặp đi lặp lại nhiều lần (x. Xh 20,4-5 ; Lv 19,4) và Thiên Chúa đã phạt nặng khi dân đúc thờ tượng bò vàng (x. Xh 32,7-10 ; 19-29).
Tuy nhiên, ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã dạy hoặc cho phép làm ra những hình ảnh được coi là biểu tượng dẫn tới ơn cứu độ. Thí dụ rắn bằng đồng (x. Ds 21,4-9 ; Ga 3,14-15) ; khám giao ước và các thiên thần sốt mến (x. Xh 25,10-22 ; 1 V 6,23-28). Căn cứ vào mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, có hình thể, có thân xác, việc tôn kính ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Maria và các thánh có cơ sở vững chắc.
Khi tôn kính ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Maria và các thánh, chúng ta tôn kính chính Chúa Giêsu, Đức Maria và các thánh mà những ảnh tượng đó gợi nhớ đến.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Hội thánh đã thiết lập các phụ tích để chuẩn bị cho các tín hữu lãnh nhận dồi dào hiệu quả của các bí tích và để thánh hóa những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Xin giúp con biết quí trọng và siêng năng lãnh nhận các phụ tích.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng... Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10,13.16)
171. H. Phụ tích là gì ? (GLCG. 282)
T. Phụ tích là những dấu hiệu linh thiêng do Hội thánh lập ra để chuẩn bị người tín hữu lãnh nhận hiệu quả của các Bí tích và để thánh hóa những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.
172. H. Có mấy thứ Phụ tích ? (GLCG. 284)
T. Có ba thứ :
- Một là việc chúc lành cho người, đồ dùng hoặc nơi chốn,
- Hai là nghi thức thánh hiến người, đồ dùng hoặc nơi cử hành Phụng vụ,
- Ba là nghi thức trừ khử ma quỉ.
173. H. Việc đạo đức bình dân có giúp ích gì cho đời sống thiêng liêng không ? (GLCG. 285)
T. Ngoài Phụng vụ, đời sống Ki-tô giáo còn được nuôi dưỡng bằng những hình thức đạo đức bình dân, bắt nguồn từ những nền văn hóa khác nhau. Những hình thức đạo đức này rất có ích và được Hội thánh cổ võ, nhưng cần làm sao để chúng được hoà nhịp và hướng đến sinh hoạt phụng vụ của Hội thánh.
174. H. Ta phải tôn kính ảnh tượng thế nào cho hợp với điều răn thứ
nhất ? (GLCG. 382)
T. Vì Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình, nên ta có thể dùng ảnh tượng để hướng lòng về Thiên Chúa cũng như để tôn kính và noi gương các thánh.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Người ta kể rằng Thánh Bênađô rất sùng kính và yêu mến Đức Mẹ. Mỗi khi đi qua tượng Đức Mẹ, để biểu tỏ lòng tôn kính và yêu mến, thánh nhân thường bỏ mũ, cúi đầu chào và miệng nói : “Kính chào Mẹ Maria”. Có lần Đức Mẹ cũng chào lại : “Chào Bênađô”. Các em hãy bắt chước thánh Bênađô, tỏ thái độ cung kính đối với các tượng ảnh Chúa Giêsu, Đức Maria và các thánh nhé.
3. Bài làm ở nhà :
Em vẽ vào tập bài làm hình ảnh thánh bổn mạng của em.
V. KẾT THÚC.
Ngoài các Bí tích do Chúa Giêsu đã thiết lập, Hội thánh là mẹ, muốn con cái mình chuẩn bị xứng hợp lãnh nhận ân sủng Bí tích nhờ các Á Bí tích. Chúng ta biết tin tưởng, sốt sắng cử hành và đón nhận.
Sáng Danh...
PHẦN IV
KINH NGUYỆN KI-TÔ GIÁO
Bài 40
VIỆC CẦU NGUYỆN
Lời Chúa : “Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11, 1).
Ý chính : 1. Cầu nguyện là gì ? (Lc 11,1-4).
2. Tại sao phải cầu nguyện ? (Mc 9,28-29).
3. Thầy dạy và mẫu gương cầu nguyện (Lc 2,41-49 ; 4,1-2 ; Mt 6,5-6 ; 7,7-21 ; 6,9-13)
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : số 2558 - 2565 . 2650 . 2670
Tâm tình : Luôn yêu mến, tin tưởng và phó thác khi cầu nguyện.
Chuẩn bị : - Tranh Chúa Giêsu cầu nguyện tại vườn Giêtsimani.
- Tranh ngày lễ Ngũ Tuần.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV luôn đến trước giờ để chuẩn bị lớp, nếu có, và các học cụ cần thiết. Khung cảnh lớp với những trang trí đơn gọn, sạch sẽ vẫn là yêu cầu cần tuân thủ của một lớp giáo lý. Bàn Lời Chúa luôn có vị trí nổi bật, công việc chuẩn bị này phải được làm trước khi các em tới để khi tới, các em luôn gặp sự tươi cười, vui vẻ, nồng hậu của GLV. Trước giờ, đón các em vào lớp, cần nghiêm trang để các em ý thức đến tính thiêng thánh của giờ giáo lý.
2. Thánh hóa :
Sau khi chào hỏi, điểm danh, GLV giúp các em nghiêm chỉnh xin Chúa chúc lành cho buổi học. Đến thời điểm cuối cấp Giáo lý này, GLV có thể phân công trước cho các em thực hiện những nghi lễ đầu và cuối giờ giáo lý cùng với những lời nguyện tự phát.
3. Giới thiệu phần IV và dẫn vào bài mới :
Mầu nhiệm Kitô giáo được tuyên xưng (phần I), được thực hiện trong cuộc sống đời thường (phần II), được cử hành qua các nghi lễ, nhất là Bí tích (phần III). Bầu khí xuyên suốt của việc học giáo lý cũng như trong suốt cuộc đời là bầu khí cầu nguyện. Tâm tình cầu nguyện là hồn sống, là hơi thở của việc tuyên xưng trong đời sống và của các buổi cử hành tôn giáo. Thiếu cầu nguyện, những việc làm trên đây chỉ là cái xác không hồn và do đó không đẹp lòng Chúa vì “đã đến giờ và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Chúng ta bước vào phần IV, kinh nguyện Kitô giáo với bài việc cầu nguyện.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Truyện kể rằng trong khi Giosua cùng dân Do thái chiến đấu với Amalếch thì Môsê, Aharon và Khua đi lên đỉnh đồi. Và xảy ra là, khi nào Môsê nhắc tay cao lên thì Israel thắng thế, hễ ông hạ tay xuống thì Amalếch thắng thế. Tay Môsê giơ lên mãi đã ra nặng nề ! Bấy giờ người ta lấy một viên đá đặt dưới cho ông ngồi. Còn Aharon và Khua chống đỡ tay ông, mỗi người một bên. Nhờ vậy, Giosua đã đánh bại Amalếch (x. Xh 17,8-16).
Giơ tay, theo quan niệm của người Do thái, là thái độ của người cầu nguyện (x. Xh 9,29-33 ; Is 1,5 ; 1 Tm 2,8). Điều này có nghĩa là khi Môsê cầu nguyện thì dân Do thái thắng, khi hết cầu nguyện thì thua. Như thế, lời cầu nguyện là sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Có lẽ các tông đồ đã hiểu phần nào giá trị của việc cầu nguyện nên các ông đã xin Chúa Giêsu dạy các ông cầu nguyện như thánh Luca thuật lại - mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 11,1-4)
“Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.” Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói : “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy, xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Cầu nguyện là gì ?
Thấy Chúa Giêsu thường xuyên cầu nguyện, thấy Gioan dạy các môn đệ của ông cầu nguyện, một môn đệ đã xin Chúa dạy các ông cầu nguyện và Chúa đã dạy.
Trong câu chuyện đánh quân Amalếch, Môsê lên núi cao, tức là lên gặp gỡ Thiên Chúa, Ông giơ tay nghĩa là cầu nguyện. Trong câu chuyện này, tác giả không ghi lại những lời ông Môsê thưa với Chúa, nhưng chắc chắn ông đã thưa với Chúa tất cả nỗi nguy dân đang gặp, những ước muốn chiến thắng của dân cũng như lòng tôn thờ của ông và của toàn dân Do thái, xin cho Danh Chúa được hiển thắng v.v... Và đấy là cầu nguyện. Vậy, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, để gặp gỡ và hiệp thông với Người trong tình yêu thương.
2. Tại sao phải cầu nguyện ?
Lần kia khi trở lại với các môn đệ, Chúa Giêsu thấy một đám rất đông đang vây quanh các môn đệ và các kinh sư tranh luận với các ông. Người hỏi các môn đệ : Anh em tranh luận gì với họ thế ? Một người trong đám đông thưa : Thưa Thầy, tôi đem con trai tôi lại cùng Thầy. Cháu bị quỉ ám. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỉ đó, nhưng các ông không làm nổi. Chúa Giêsu nói : đem nó lại đây cho tôi. Người ta đem nó lại cho Người. Chúa Giêsu quát mắng tên quỉ : “Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi : ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa !”. Quỉ thét lên, lay nó thật mạnh rồi ra khỏi (x. Mc 9,14-27). Các môn đệ vừa khâm phục Chúa vừa thắc mắc và được Chúa trả lời - mời các em nghiêm trang nghe câu trả lời của Chúa - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mác-cô (Mc 9,28-29)
“Khi Chúa Giêsu vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng Người : “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỉ ấy ?” Người đáp : “Giống quỉ ấy chỉ trừ được bằng lời cầu nguyện thôi”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
“Chỉ trừ được bằng lời cầu nguyện thôi”, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một cách thức hữu hiệu để trừ quỉ : CẦU NGUYỆN.
Ma quỉ đã cám dỗ nguyên tổ Ađam - Evà (x. St 3,1-6), chúng không buông tha Chúa Giêsu (x. Mt 4,3-10) và ma quỉ luôn luôn cám dỗ con người (x. Mt 26,41 ; Lc 22,21). Chính nhờ lời cầu nguyện mà chúng ta mới hy vọng chiến thắng (x. Mc 9,29).
Hơn nữa, đời sống người Kitô hữu hệ tại sự liên kết với Thiên Chúa là nguồn sự sống (x. Ga 15,4-6). Chúng ta chỉ thực hiện được sự liên kết này nhờ việc cầu nguyện. Thiên Chúa hằng kêu mời một cách không mệt mỏi mỗi người đến gặp gỡ Người đặc biệt trong cầu nguyện (x. Xh 19,20 ; Mc 6,31).
3. Thầy dạy và mẫu gương cầu nguyện.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay, người ta luôn nói tới người mẫu, mô hình, lớp điểm v.v... là những gì hoàn hảo về vẻ đẹp hoặc về nghệ thuật hoặc về yêu cầu để cứ đó mà làm. Ai làm càng giống khuôn mẫu, vẽ đúng người mẫu, làm đúng mô hình, thực hiện đúng những yêu cầu của lớp điểm.v.v... người đó càng đạt yêu cầu, càng thành công, càng được tuyên dương...
Chúa Giêsu đã siêng năng cầu nguyện : thời niên thiếu Người đã cầu nguyện (x. Lc 2,41-49) ; suốt thời công khai, Người đã cầu nguyện lâu dài (x. Lc 4,1-2) ; luôn tham dự việc cầu nguyện với cộng đoàn dân tộc Người (x. Lc 4,16) ; cầu nguyện lúc sáng sớm, khởi đầu ngày sống (x. Mc 1,35) ; cầu nguyện vào cuối ngày, sau khi đã làm việc (x. Mt 14,23) ; cầu nguyện trước khi làm việc trọng đại (x. Tuyển chọn 12 tông đồ Lc 6,12-16 ; trước khi chịu chết Mt 26,36-46) v.v...
Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ phải cầu nguyện trong mọi tình huống của cuộc đời (x. Mt 26,41). Và, lời cầu nguyện của Chúa Kitô đẹp lòng Thiên Chúa, luôn được Chúa Cha chiếu cố (x. Lc 2,49; 3,22 ; Mt 17,5).
Những điều này cho ta thấy Chúa Giêsu là mẫu gương cầu nguyện. Chúng ta được mời gọi noi theo Người.
Không những Chúa Giêsu là mẫu gương cầu nguyện của mọi người chúng ta mà Người còn là Thầy dạy cầu nguyện : Người đã dạy chúng ta cách thức cầu nguyện (kín đáo x. Mt 6,5-6 ; chung với nhau x. Mt 18,19-20) ; tâm tình và thái độ khi cầu nguyện (kiên nhẫn, vững tin x. Mt 7,7-21 ; khiêm tốn x. Lc 18,10-14 ; phó thác x. Mt 26,39) và nội dung cầu nguyện (kinh lạy Cha x. Mt 6,9-13).
Tuy nhiên, vì con người đã ra hèn yếu do tội lỗi, không có sức tiếp thu nổi những giáo huấn của Chúa Kitô (x. Ga 16,12), không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải (x. Rm 8,26) nên Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần. Người là Thần Chân Lý sẽ đến dạy dỗ chúng ta mọi điều và làm chúng ta nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã dạy chúng ta (x. Ga 14,26 ; 16,13). Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nên con Thiên Chúa để được kêu lên “Ap-ba - Cha ơi”. Chính Thánh Thần chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa (x.Rm 8,15-16) và do đó, lời cầu nguyện của chúng ta, của những người con, trở thành lời của con nói với Cha và đón nghe lời Cha. Trong tư thế là con, chúng ta được Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông “Cha - con” với Thiên Chúa. Chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta, và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì (x. Rm 8,14-27). Như vậy, Chúa Thánh Thần là Thầy dạy nội tâm cũng là Thầy dạy chúng ta biết cầu nguyện.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thường xuyên cầu nguyện cùng Chúa Cha và đã dạy chúng con phải siêng năng cầu nguyện. Xin sai Thánh Thần đến nhắc nhớ chúng con những điều Chúa đã dạy để chúng con được sống thân tình với Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11, 1).
174. H. Cầu nguyện là gì ? (GLCG. 442)
T. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, để gặp gỡ và hiệp thông với Người trong tình yêu thương.
175. H. Tại sao ta phải cầu nguyện ? (GLCG. 443)
T. Vì cầu nguyện liên kết ta với Thiên Chúa là nguồn sự sống. Hơn nữa, Người vẫn hằng kêu mời và chờ đợi ta đến thưa chuyện với Người.
176. H. Ai là mẫu gương cầu nguyện? (GLCG. 447)
T. Chính Chúa Giê-su là mẫu gương cầu nguyện hoàn hảo nhất.
177. H. Ai là Thầy dạy ta cầu nguyện ? (GLCG. 451)
T. Chính Chúa Thánh Thần, vì Người được sai đến để dạy dỗ và nhắc lại cho chúng ta tất cả những gì Chúa Giê-su đã dạy.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Đức Cha Thiamer Toth, diễn gỉa nổi tiếng người Hungari đã nói về sự liên kết giữa cầu nguyện và hoạt động bằng mẫu chuyện sau :
Một ngư phủ lão thành và đạo đức nọ mời một bạn trẻ cùng ra khơi với ông. Chiếc ghe nhỏ được trang bị bằng hai mái chèo. Trên một mái chèo, người ta đọc thấy hai chữ cầu nguyện ; còn mái chèo kia ghi hai chữ làm việc.
Thấy vậy, người thanh niên thắc mắc : tại sao vừa làm việc, lại vừa cầu nguyện ?
Ông lão không trả lời người bạn trẻ cách trực tiếp. Thay vào đó, ông gác mái chèo có ghi hai chữ “cầu nguyện”, và dùng mái chèo còn lại để chèo chống. Mặc cho ông hết sức cố gắng xoay xở, chiếc ghe vẫn chòng chành chao đảo mà không thể tiến lên được tí nào. Thế rồi, chờ cho chàng thanh niên chóng mặt và la ới ới, ông lão mới để mái chèo có hai chữ “cầu nguyện” xuống nước. Nhờ có hai mái chèo : “cầu nguyện và làm việc” cùng nhịp nhàng khua nước, chiếc ghe lấy lại thế quân bình, và rẽ sóng lướt đi.
Vậy em cần làm nên một hoà điệu giữa cầu nguyện và học tập bằng cách ít nhất luôn kết thúc ngày sống bằng kinh tối nhé.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi vào tập bài làm lời cầu nguyện sau : Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy con biết cầu nguyện.
V. KẾT THÚC.
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Hội thánh Chúa Kitô, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí chúng ta biết cầu nguyện : có thế, chúng ta mới liên kết với Chúa Giêsu trong tình yêu thương của Chúa Cha và sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.
Bài 41
ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
Lời Chúa : “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26, 41)
Ý chính : 1. Cao điểm của việc cầu nguyện.
2. Thời gian và nơi chốn cầu nguyện.
3. Đức Maria và các thánh hỗ trợ việc cầu nguyện (Ga 2,1-11)
Qui chiếu : sách GLHTCG 1992 : 2656. 2659-2662. 2685. 269. 2617-2619. 2673-2684
Tâm tình : Luôn sống trong tâm tình cầu nguyện.
Chuẩn bị : - Tranh ảnh cầu nguyện.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Các em thân mến, chỉ một mình Chúa có thể ban cho chúng ta tinh thần cầu nguyện. Và cũng chỉ Thánh Thần Chúa mới dạy cho ta biết cách cầu nguyện.
Xin ân sủng của Chúa giúp các em yêu thích đời sống cầu nguyện, vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất cần thiết.
3. Dẫn vào bài mới :
Chúng ta đã học xong 40 bài giáo lý trong chương trình giáo lý cấp II. Hôm nay là bài chót và là bài về đời sống cầu nguyện. Chúng ta cố gắng chăm ngoan học tập để cuộc đời chúng ta luôn là lời cầu nguyện của Chúa Kitô.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Giờ phút đã đến, Chúa Giêsu dẫn các môn đệ vào vườn Cây Dầu. Người để các ông ở một chỗ, dẫn theo 3 môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan vào sâu trong vườn. Rồi các ông cũng ở lại, còn Chúa Giêsu đi xa hơn để yên tĩnh cầu nguyện. Giờ cầu nguyện thật sốt sắng nhưng cũng thật đau khổ vì Chúa phải đối diện với một chọn lựa cực kỳ quan trọng : Người biết rõ Giuđa và đối phương đang chuẩn bị và trong ít phút nữa sẽ đến đây bắt Người. Trốn thoát hay đón
chờ ? Mỗi bên đều có lý do. Chúa chỉ biết xin làm trọn ý Chúa Cha ! Trong giờ phút xót xa này, Chúa muốn tìm một chút đỡ nâng nơi những người thân tín. Người đi ra tìm gặp 3 môn đệ yêu quí nhất. Nhưng các ông đều ngủ cả ! Chúa Giêsu đã nói gì với các ông, mời các em lắng nghe - mời đứng.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Matthêô (Mt 26,40-41)
“Chúa Giêsu đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phêrô : “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao ? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung giáo lý :
1. Đời sống cầu nguyện :
a) Khi nào :
Thánh Matthêu đã kể lại cho chúng ta khá đầy đủ một buổi cầu nguyện của Chúa Giêsu. Qua đó ta thấy : trong giờ phút quyết định cuộc đời, Chúa Giêsu không đi bàn bạc với một người trần gian nào, nhưng tìm đến với Chúa Cha. Đây không phải là lần duy nhất Chúa Giêsu làm thế. Trong bài 40 trên đây, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu cầu nguyện mọi lúc : sáng - trưa - chiều - tối, trước những quyết định quan trọng - cả khi làm phép lạ (x. Ga 11,41-42) - Trước khi ăn (x.
Mt 14,19 ; 26,27). Việc cầu nguyện trước khi ăn đã trở thành dấu hiệu giúp các môn đệ nhận ra Chúa Phục sinh (x. Lc 24,30-31)...
Chúa Giêsu là mẫu gương cầu nguyện (x. bài 40). Vì thế, noi gương Chúa Giêsu, ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào trong cuộc sống như tạ ơn Chúa khi lãnh nhận những ơn lành, ngợi khen Chúa khi ta hân hoan vui sướng và có thể xin Người ban cho ta, hay cho người khác những ơn cần thiết.
Tuy nhiên, để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, Hội thánh khuyên ta thực hiện nhịp độ cầu nguyện trong ngày như ban sáng, ban tối, trước các bữa ăn ; nhất là tham dự Thánh lễ.
b) Ở đâu :
Trong đoạn Tin mừng trên đây, thánh Matthêu cho chúng ta biết Chúa Giêsu cầu nguyện tại núi Cây Dầu. Đây là nơi Chúa Giêsu quen cầu nguyện (x. Lc 22,39) nhưng chẳng phải núi Cây Dầu (cũng gọi là vườn Gietsimani) là nơi duy nhất Chúa đến cầu nguyện. Trong bài 40, chúng ta cũng đã thấy Chúa Giêsu cầu nguyện tại hội đường Do thái, tại Đền Thờ Giêrusalem, tại nơi thanh vắng (x. Mt 14,23 ; Mc 1,35 ; Lc 4,42), ở giữa chỗ đông người (x. Mt 14,19 ; 15,36)... bất cứ nơi nào Chúa Giêsu cũng có thể cầu nguyện được. Tuy nhiên, Chúa vẫn dành cho Hội đường, Đền thờ (mà ngày nay là Nhà nguyện, Nhà thờ) một tâm tình đặc biệt và xác định : Đền thờ là nhà của Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện (x. Mt 21,12-13).
Chúa Giêsu là mẫu gương cầu nguyện (x. bài 40). Vì thế, noi gương Chúa, ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Nhưng nhà thờ vẫn là nơi ưu tiên cho việc cầu nguyện. Ngoài ra, những nơi thanh vắng, cô tịch ... cũng thích hợp cho việc cầu nguyện.
c) Cao điểm :
Dù ở đâu, lúc nào Chúa Giêsu cũng đã cầu nguyện và nêu gương cầu nguyện cho chúng ta. Người còn cho thấy cao điểm của cầu nguyện là việc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Đọc những lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mà các thánh ký Tin mừng còn ghi lại (x. Mt 6,9-13 ; 11,25-27 ; 26,39.42 ;...) chúng ta đều thấy rõ tình thân cha con giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu. Chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu để thực hiện được cao điểm này khi cầu nguyện, nghĩa là phải làm sao để có thể gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa trong tư cách là con của Thiên Chúa. Muốn thực hiện được điều này, trước tiên chúng ta nhờ Chúa Kitô là đường duy nhất có thể đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha như Người đã nói : “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6) ; Thứ đến, chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần, Thầy dạy cầu nguyện, mới có thể giúp chúng ta kêu cầu cùng Chúa Kitô (x. 1 Cr 12,3) và đến cùng Chúa Cha với tư cách là con (x. Rm 8,15).
2. Đức Maria và các thánh hỗ trợ việc cầu nguyện.
Để đội tuyển bóng đá Việt Nam có thêm nguồn kinh phí tham dự các cuộc tranh tài quốc tế, công ty sữa Vinamilk đã tài trợ 100 triệu đồng và 10đ trên mỗi hộp sữa tiêu thụ. Nhờ sự tài trợ này đội tuyển bóng đá Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tổ chức tập luyện và cử các cầu thủ đi thi đấu tại các giải trong khu vực Đông Nam Á.
Đây là hình ảnh đơn sơ giúp ta hiểu phần nào vai trò của Mẹ Maria và các thánh trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. Thực vậy, thánh Gioan đã cho chúng ta thấy một trường hợp điển hình trong bữa tiệc cưới tại Cana - mời các em lắng nghe - mời đứng.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan (Ga 2,1-11)
“Có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người : “Họ hết rượu rồi”. Đức Giêsu đáp : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con ? Giờ của con chưa đến. Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói : “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ.” Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người’.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Đoạn Tin mừng này cho thấy sự hỗ trợ tích cực và hữu hiệu của Mẹ Maria : nhờ có Mẹ và nhờ Mẹ bầu cử mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại Cana xứ Galilê :
- Phép lạ này đã giải cứu sự bế tắc hết rượu của gia đình tân hôn.
- Phép lạ này đã khơi gợi và củng cố niềm tin nơi các môn đệ vừa đi theo Chúa.
- Phép lạ này cho thấy phương thức để được Chúa cứu giúp : “Người bảo gì hãy làm theo” (Ga 2,5).
Chỉ cần thấy 3 ý nghĩa trên cũng đủ thuyết phục chúng ta luôn chạy đến cậy nhờ Mẹ Maria cầu bầu. Hơn nữa, ngày nay với vị trí của Mẹ là Nữ vương thiên đàng, chúng ta càng được mời gọi liên kết với Mẹ mà ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa và xin Mẹ chuyển cầu cho ta.
Cũng tương tự, các thánh là những người đã được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa nên các ngài vừa là gương mẫu vừa là người cầu bầu đắc lực cho ta trước Thiên Chúa.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Xin giúp chúng con biết luôn tưởng nghĩ đến Chúa nhiều lần trong ngày để sự sống siêu nhiên được tăng triển luôn mãi.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26, 41).
178. H. Ta có thể cầu nguyện khi nào ? (GLCG. 452)
T. Ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào trong cuộc sống như tạ ơn Chúa khi lãnh nhận những ơn lành, ngợi khen Chúa khi ta hân hoan vui sướng và có thể xin Người ban cho ta, hay cho người khác những ơn cần thiết.
179. H. Ta có thể cầu nguyện ở đâu ? (GLCG. 459)
T. Ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Nhưng nhà thờ vẫn là nơi ưu tiên cho việc cầu nguyện. Ngoài ra, những nơi thanh vắng, cô tịch ... cũng thích hợp cho việc cầu nguyện.
180. H. Đâu là cao điểm của việc cầu nguyện ? (GLCG. 454)
T. Chính là lúc ta gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa là Cha. Nhưng để đến được với Cha, ta phải nhờ Chúa Giê-su là con đường duy nhất, như Người đã nói : “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).
181. H. Ta có được liên kết với Đức Ma-ri-a khi cầu nguyện không ?
(GLCG. 456)
T. Có, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cũng là Mẹ chúng ta. Cho nên khi cầu nguyện, ta hãy liên kết với Mẹ mà ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa, và xin Mẹ chuyển cầu cho ta.
182. H. Các Thánh có giúp ta trong việc cầu nguyện không ? (GLCG. 457)
T. Có. Vì các Thánh là những người đã được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa nên các ngài có thể chuyển cầu cho ta trước tòa Thiên Chúa.
183. H. Để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, Hội thánh khuyên ta làm gì ? (GLCG. 461)
T. Hội thánh khuyên ta thực hiện nhịp độ cầu nguyện trong ngày như ban sáng, ban tối, trước các bữa ăn ; nhất là tham dự Thánh lễ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : tìm trong tập Hát và Sinh hoạt giáo lý cấp II.
2. Thực hành : Câu chuyện dẫn đến thực hành :
Sách truyện khôn ngoan của Nhật có kể lại câu chuyện sau :
Ngày kia một đồ đệ than phiền cùng sư phụ mình rằng :
- Thưa sư phụ, hình như sư phụ còn giấu con một bí quyết cuối cùng để đạt tới đỉnh cao của việc chiêm ngắm.
Sư phụ ôn tồn đáp :
- Không, thầy chẳng hề giấu con điều gì !
Nhưng người đồ đệ vẫn chưa tin. Một hôm, hai thầy trò im lặng đi bên nhau, qua một cánh đồng bên sườn núi. Bỗng có tiếng chim hót từ đâu vọng tới. Sư phụ lên tiếng :
- Con có nghe tiếng chim hót không ?
- Thưa sư phụ, có.
- Bí quyết hữu hiệu để đạt tới đỉnh cao của việc chiêm ngắm đó là biết lắng nghe và biết nhìn.
Một lần khác, sư phụ lặng lẽ nhìn hoàng hôn từ từ lặn xuống sau rặng núi. Người đồ đệ đến gần bên hỏi:
- Thưa sư phụ, sư phụ nhìn gì thế ?
- Nhìn vẻ đẹp - Sư phụ thản nhiên đáp.
Người đồ đệ liền ngồi xuống bên cạnh sư phụ và đăm chiêu nhìn cảnh hoàng hôn với vẻ thích thú.
Các em thân mến, mỗi khi chúng ta nhìn một cảnh vật thiên nhiên : mặt biển bao la, núi non hùng vĩ... ta thấy bao kỳ công của Thiên Chúa. Ta hãy ca tụng quyền năng, phép tắc của Thiên Chúa và đó là lời cầu nguyện của ta trong mọi nơi ở mọi lúc. Vậy em quyết tâm luôn cầu nguyện mỗi khi làm việc.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi lại một lời cầu nguyện tự phát mà em tâm đắc nhất.
V. KẾT THÚC.
Đối với người Kitô hữu chúng ta, cầu nguyện là việc rất cần thiết, các em nên than thở câu này : “Lạy Chúa toàn năng, con chúc tụng Chúa bây giờ và cho đến muôn đời. Amen.”
Sáng Danh...
A. TĨNH TÂM KHỐI THÊM SỨC.
Bài 1 : Vai trò và vị trí của Chúa Thánh Thần (Ga 16,12-14)
* Nhập : HLV và cầu thủ bóng đá World Cub.
* Nội dung :
1) “Không Thầy đố mày làm nên” :
a. HLV - Cầu thủ bóng đá. Các môn thể thao khác.
b. Các Thầy cô - các học sinh văn hóa.
c. Các Thầy thợ - các học viên nghề nghiệp.
2) Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu :
a. Chúa Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần (x. Ga 14,16-18).
b. Hoạt động của Chúa Thánh Thần :
- Trong công cuộc tạo dựng vũ trụ.
- Trong công cuộc cứu chuộc loài người.
- Trong công cuộc thánh hóa các tín hữu.
3) Đặc tính hoạt động của Chúa Thánh Thần :
a. Hoạt động từ nội tâm người tín hữu.
b. Luôn tôn trọng tính tự giác của “học viên”.
c. Luôn kiên nhẫn.
* Kết : Nhìn nhận và tín thác Chúa Thánh Thần.
Bài 2 : Nhìn Nhận và tín thác Chúa Thánh Thần (Ga 14,26)
* Nhập : (Một câu chuyện nào đó về quan hệ giữa sư phụ và môn sinh).
* Nội dung :
1) Thái độ cơ bản của học viên :
a. Đón nhận lời dạy của Thầy.
b. Thực tập theo lời Thầy.
c. Cởi mở trình bày với Thầy mọi tình huống.
d. Trung thành tuyệt đối với Thầy (nhiều thầy thối ma).
2) Tín thác vào Chúa Thánh Thần :
a. Tâm hồn lắng nghe (dễ dạy).
b. Mau mắn thi hành.
c. Trung thành tuyệt đối với Chúa Thánh Thần.
* Kết : Diễm phúc của tín hữu : có Chúa Thánh Thần là Thầy dạy tuyệt vời.
Bài 3 : Hồng ân Thánh Thần (Ga 20,19-22)
* Nhập : Món quà của Chúa Giêsu Phục sinh : Chúa Thánh Thần.
* Nội dung :
1) Kitô hữu lãnh nhận Chúa Thánh Thần :
a. Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
b. Ngày lãnh nhận Bí tích Thêm sức.
2) Bổn phận người lãnh nhận Bí tích Thêm sức :
a. Chứng nhân trung thành của Chúa Kitô :
- Đời sống chứng tá.
- Hoạt động bằng lời nói.
- Hoạt động bác ái, tông đồ.
b. Tích cực xây dựng Hội Thánh và xã hội :
- Chu toàn bổn phận công dân Nước trời và công dân trần thế theo tinh thần Tin mừng.
- Tham gia các sinh hoạt giáo xứ, giáo phận.
- Dấn thân phục vụ công ích :
+ Nơi gia đình - xóm ngõ.
+ Nơi trường học.
+ Giữa bạn bè.
* Kết : phát huy kho tàng lãnh nhận (x. Mt 25,14-30).
HỘI THẢO :
Đề 1 :
1) Muốn giỏi, tốt, em có cần thầy dạy không ? Đưa ra những thí dụ bản thân.
2) Có cách nào em khôn lớn về tâm linh ?
Đề 2 :
1) Học viên phải có thái độ nào đối với thầy ? Cho những thí dụ cụ thể và những hiệu quả của thái độ đó.
2) Chúa Thánh Thần dạy dỗ ta bằng những phương cách nào ? (Kể ra những phương cách và cho những thí dụ cụ thể bản thân).
Đề 3 :
1) Thế nào là chứng nhân trung thành của Chúa Kitô ?
2) Em có thể xây dựng Hội Thánh thế nào ?
3) Em có thể xây dựng xã hội thế nào, hôm nay và ngày mai ?
B. GẶP GỠ VÚ BÕ THÊM SỨC
(Cuộc gặp gỡ này nên được thực hiện trước lễ Thêm sức nhiều ngày.)
NHẬP :
Quan sát sinh hoạt xã hội ngày nay, chúng ta nhận thấy :
- Công ty Vinamilk tài trợ chính cho đội tuyển bóng đá Việt Nam.
- Công ty Tiger Bia tài trợ cho chương trình trực tiếp truyền hình nhiều trận cầu quốc tế.
- Ban bảo trợ học đường đối với sinh hoạt của các trường học.
- Các nước nghèo muốn phát triển cần vốn đầu tư của nước ngoài.
Những hình thức tài trợ, bảo trợ, mạnh thường quân, đầu tư v.v... giúp chúng ta có ý niệm về công tác của các người đỡ đầu đối với các em lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Người ta quen gọi các người này là vú - bõ hay cha mẹ đỡ đầu.
I. ĐIỀU KIỆN LÀM NGƯỜI ĐỠ ĐẦU :
- GL 872 ; 892 : Trong mức độ có thể được, phải liệu cho người sắp chịu BT Rửa tội - Thêm sức có một người đỡ đầu.
- GL 893,2 : nên chọn chính người đỡ đầu lúc Rửa tội để làm người đỡ đầu Thêm sức.
- GL 873 : có thể chỉ nhận một cha hoặc một mẹ đỡ đầu hay cả cha và mẹ đỡ đầu.
- GL 874 : để làm người đỡ đầu, cần :
1. Phải được chọn lựa bởi chính người sắp được rửa tội, hay cha mẹ của đương sự hoặc người thế quyền cha mẹ ; nếu không có cha mẹ và người thế quyền thì Cha Sở hay thừa tác viên rửa tội sẽ chọn lựa. Người được chọn phải có khả năng và chủ ý thi hành nhiệm vụ đỡ đầu.
2. Đã được mười sáu tuổi trọn, trừ khi Giám Mục Giáo phận ấn định tuổi khác, hoặc Cha Sở hay thừa tác viên thấy có thể nhận một ngoại lệ vì lý do chính đáng.
3. Phải là người công giáo, đã chịu Bí tích Thêm sức và Bí tích Mình Thánh, lại có đời sống xứng hợp với Đức tin và chức vụ sắp lãnh nhận.
4. Không mắc một hình phạt giáo luật đã được tuyên kết và tuyên bố hợp lệ.
5. Không phải là cha hay mẹ của người được rửa tội.
Quan hệ vú bõ nếu không phải là người đỡ đầu Rửa tội thì cần được thực hiện trước nhiều năm hay ít nhất nhiều tháng trước ngày Thêm sức (tránh tình trạng đến sát ngày Rửa tội - Thêm sức mới chạy đôn đáo tìm người đỡ đầu).
II. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI ĐỠ ĐẦU :
- Điều 872 : Nhiệm vụ người đỡ đầu là tham dự vào việc khai tâm Kitô giáo của người lớn sắp Rửa tội ; còn đối với nhi đồng đã Rửa tội, người đỡ đầu phải cùng với cha mẹ đem em nhỏ đến chịu Rửa tội, rồi cộng tác với cha mẹ giúp em bé đã được Rửa tội sống đời Kitô giáo cách xứng đáng và tận tụy chu toàn những bổn phận gắn liền với Bí tích Rửa tội.
- Điều 892 : Bổn phận của người đỡ đầu Thêm sức là lo giúp người chịu Bí tích Thêm sức sống như nhân chứng đích thực của Chúa Kitô và trung kiên chu toàn những bổn phận gắn liền với Bí tích Thêm sức.
Từ những điều Giáo luật trên đây, người đỡ đầu Rửa tội và Thêm sức :
- Trước tiên, bằng đời sống đích thực Kitô giáo nêu gương sáng cho con thiêng liêng đặc biệt về đời sống chứng tá Tin mừng và nhiệt thành Truyền giáo.
- Thứ đến, cùng với cha mẹ ruột của người Thêm sức, kiến tạo sự nhất trí trong đường hướng và cách thức giúp đỡ con thiêng liêng từng bước trưởng thành trong đức tin.
- Sau nữa, cùng với cha mẹ ruột của người Thêm sức, cầu nguyện, động viên, hướng dẫn con thiêng liêng trong những chọn lựa và những biến cố quan trọng suốt cuộc đời.
Tóm lại, bằng tình yêu phụ mẫu thiêng liêng, người đỡ đầu chăm sóc con thiêng liêng tương tự như con ruột thịt đặc biệt về mặt tinh thần, và đức tin.
III. THAM DỰ NGHI LỄ THÊM SỨC :
- Với tâm hồn sốt sắng và nhiệt tình tông đồ, các vú bõ đã theo dõi việc học và sống đức tin của con thiêng liêng từ nhiều tháng ngày trước khi cử hành Bí tích Thêm sức. Người đỡ đầu đã cùng con thiêng liêng gặp gỡ, cầu nguyện và dọn mình thật tốt, đặc biệt trước ngày Thêm sức. Lại cần tập dượt nghi lễ trước để các nghi lễ được diễn tiến nhịp nhàng và sốt sắng.
- Chính ngày lễ, người đỡ đầu cần chăm sóc cho con thiêng liêng y phục chỉnh tề, tâm hồn sốt sắng và cùng con thiêng liêng đến nhà thờ vào giờ qui định theo sự hướng dẫn của giáo xứ.
- Đến phần nghi lễ Thêm sức, người đỡ đầu dẫn con thiêng liêng lên trình diện Đức Giám Mục chủ lễ với lời giới thiệu tên Thánh của con thiêng liêng (Td : Giuse - Maria - Phêrô - Têrêsa...), đặt tay phải lên vai phải của người con thiêng liêng và cùng con thưa lời : Amen - Và ở cùng Cha, sau lời Đức Giám Mục ban Bí tích và chúc bình an.
- Người đỡ đầu rất nên dọn mình Rước lễ cùng con thiêng liêng trong Thánh lễ ban Bí tích Thêm sức.
KẾT : Nhận đỡ đầu Rửa tội - Thêm sức cho một hoặc nhiều em chính là thi hành nhiệm vụ tông đồ truyền giáo của người giáo dân.
C. THÁNH LỄ THÊM SỨC
NGHI THỨC ĐÓN TIẾP ĐỨC GIÁM MỤC.
(Khi ĐGM vào đến cổng Nhà thờ, Ban kèn trổi nhạc,
trong khi đó hướng dẫn như sau :)
Đức Giám mục là Đấng được Chúa Thánh Thần đặt lên kế vị các Tông đồ, là chủ chăn các linh hồn và được ủy thác sứ mệnh duy trì mãi mãi công việc Chúa Kitô, Chủ chăn đời đời. ĐGM hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và dưới quyền Ngài. Thật vậy, Chúa Kitô đã trao cho các Tông đồ và những Đấng kế vị mệnh lệnh và quyền chăn dắt, dạy dỗ và thánh hóa mọi người trong chân lý. Do đó, nhờ Thánh Thần đã lãnh nhận, các ĐGM trở thành thầy dạy đức tin, chánh tế, chủ chăn thực sự và chính thức.
Hôm nay, Ngài đại diện cho Chúa Kitô đến viếng thăm chúng ta, với tình người cha âu yếm, và nhân danh Chúa Kitô ban Bí tích Thêm sức, để những người lãnh nhận Bí tích nên chứng nhân của Nước Trời. Vì thế chúng ta hân hoan đón tiếp Ngài.
(Khi ĐGM đến cửa chính Nhà thờ, Cha Sở từ trong nhà thờ tiến xuống cuối Nhà thờ đón ĐGM, trao bình nước thánh cho Ngài rảy, trao Thánh gía cho Ngài hôn kính. Hướng dẫn tiếp :)
Cộng đoàn chúng ta dâng lời nguyện thiết tha, kêu xin Thiên Chúa đoái thương cứu chữa, phù giúp và bảo vệ ĐGM chúng ta khỏi mọi lợi dụng và hãm hại của những kẻ gian ác, nhất là ma quỷ.
Nghi thức đón tiếp ĐGM gồm có:
- Cộng đoàn Giáo xứ đón tiếp ĐGM tại cuối nhà thờ.
- Cha Sở trao thánh gía cho ĐGM hôn kính.
- Cha Sở trao nước thánh để ĐGM ghi trên trán mình, rảy cho Cha sở và cộng đoàn để nhắc lại mỗi người chúng ta đã được thánh hóa nhờ Bí tích Rửa tội.
- Cử hành nghi thức cầu nguyện cho ĐGM.
- Cử hành nghi thức cầu nguyện kính Thánh Bổn mạng Giáo xứ.
- ĐGM ban phép lành cho cộng đoàn Giáo xứ.
Hát : Đây vị Thượng tế.
(Cha Sở đứng bên án thư, hướng về ĐGM,
cử hành nghi thức cầu nguyện cho ĐGM :)
+ Cha Sở : Lạy Chúa, Đấng bảo vệ chúng con, xin hãy đoái nhìn.
- C. đoàn : Và thương xem Đấng Chúa đã xức dầu.
+ Cha Sở : Lạy Chúa, xin cứu tôi tớ Chúa.
- C. đoàn : Là kẻ trông cậy Chúa.
+ Cha Sở : Lạy Chúa, từ Đền thánh, xin ban ơn trợ giúp cho tôi tớ Chúa.
- C. đoàn : Và từ Sion, xin bảo vệ tôi tớ Chúa.
+ Cha Sở : Xin đừng để kẻ thù lợi dụng tôi tớ Chúa.
- C. đoàn : Và xin đừng để người gian ác làm hại tôi tớ Chúa.
+ Cha Sở : Lạy Chúa, xin nhận lời con cầu nguyện.
- C. đoàn : Và cho tiếng con kêu lên tới Chúa.
+ Cha sở : Chúa ở cùng anh chị em.
- C. đoàn : Và ở cùng Cha.
+ Cha sở : Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa là Đấng muôn đời chăn dắt các tín hữu, Chúa ban phát muôn ơn, và dùng tình thương mà cai quản Hội thánh Chúa. Chúng con nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa là Đức Giám mục (...) mà Chúa đặt lên coi sóc dân Chúa, biết thay mặt Chúa Kitô cai quản đoàn chiên mà Người là chủ chiên, và trở nên thầy dạy giáo lý, nên tư tế lo việc phượng tự thánh và thừa tác viên lo cai quản Hội thánh Chúa cách trung thành. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
- C. đoàn : Amen.
(Tiếp đó hát kinh Thánh Bổn mạng Giáo xứ.
Sau đó, ĐGM lên Bàn thờ đọc lời nguyện kính Thánh Bổn mạng
và ban phép lành :)
Lời nguyện kính Bổn mạng Giáo xứ (Chúa Kitô Vua)
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là Vua vũ trụ, xin đoái thương cho mọi loài thụ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ, biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Nhờ Đức Giêsu Kitô ...
- Cộng đoàn : Amen.
Phép lành :
+ ĐGM : Hãy chúc tụng danh Chúa.
- C. Đ : Từ bây giờ và cho đến muôn đời.
+ ĐGM : Ơn phù trợ chúng ta ở nơi Danh Chúa.
- C. Đ : Là Đấng tạo thành trời đất.
+ ĐGM : Xin Thiên Chúa Toàn năng là Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em.
- C. Đ : Amen.
(Sau đó, ĐGM vào nhà xứ mặc áo lễ để rước vào Nhà Thờ).
THÁNH LỄ THÊM SỨC :
(Hướng dẫn khi đoàn rước đang tiến vào :)
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu được lãnh nhận ơn thánh hóa, được tái sinh làm con Chúa. Nhưng ơn thánh hóa phải được lớn lên trong ta, sự sống siêu nhiên cũng phải được tăng trưởng tương tự sự sống tự nhiên. Bí tích Thêm sức chính là giai đoạn đánh dấu sự trưởng thành của người tín hữu, là Bí tích ban cho ta dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, để trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô trong đời sống.
Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, để soi sáng, hướng dẫn các ông, an ủi và thêm sức mạnh để các ông được can đảm đi giảng dạy muôn dân : “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ giữ lệnh truyền của Thầy và Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ khác, để Người ở với các con luôn mãi. Người là Thần Khí sự thật, mà thế gian không thể lãnh nhận, vì thế gian không thấy cũng không biết Người. Còn các con biết Người, vì Người lưu lại nơi các con và ở trong các con. Thầy đã nói với các con những điều ấy lúc còn lại giữa các con, nhưng Đấng Bầu chữa, Thánh Thần đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi sự và
sẽ nhắc cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14,15-17.25-26).
Lời hứa đó Chúa đã thực hiện trong ngày lễ Ngũ tuần : Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên đầu các tông đồ đang hội họp cầu nguyện trong nhà tiệc ly : “Hết thảy họ được đầy Thánh Thần và bắt đầu nói những tiếng lạ, tùy theo Thánh Thần ban cho họ phát ngôn” (Cv 2,4). Chúa Thánh Thần biến đổi các Tông đồ, từ những người chậm hiểu trở nên thông suốt những mầu nhiệm Nước Trời, từ những người nhát đảm nên nhiệt thành làm chứng cho Chúa Kitô.
Khi các Tông đồ đi giảng đạo, các ngài làm phép Rửa cho những người tin theo và đặt tay trên họ để họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng : “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin xứ Samaria đã đón nhận Lời Thiên Chúa, thì sai Phêrô và Gioan đến với họ, các ngài xuống và đã khẩn nguyện cho họ được chịu lấy Thánh Thần, vì Thánh Thần chưa xuống trên ai trong nhóm họ, họ chỉ mới được thánh tẩy nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ và họ đã được chịu lấy Thánh Thần” (Cv 8,14-17). Đây là nguồn gốc Phép Thêm sức trong Hội thánh.
Chúa Giêsu lập Bí tích Thêm sức để ban cho ta Chúa Thánh Thần. Khi ta lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta được thêm ơn thánh hóa, nhất là đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, đó là các ơn : khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Chúa. Những ơn này giúp ta được lòng sốt sắng mà giữ đạo và được ơn can đảm mà tuyên xưng đức tin, để mở mang Nước Chúa. Bí tích Thêm sức cũng ghi vào linh hồn ta dấu tín không hề mất, đó là ấn tín của người chiến sĩ Chúa Kitô. Vì thế, Bí tích này chỉ được chịu một lần mà thôi.
I. NGHI THỨC KHỞI ĐẦU. (khi ĐGM vào cửa nhà thờ)
Ca nhập lễ : Xin Ngôi Ba. (Ca lên đi 2 - 287)
ĐK : Xin Ngôi Ba Thiên Chúa ngự xuống trên chúng con, ban hồng ân chan chứa thấm nhuần hồn xác chúng con. Biến chúng con thành những chiến sĩ theo Chúa Kitô, thành nhân chứng Nước Trời cho muôn người trong khắp nơi.
Nghi thức Thống hối.
(Sau lời chào, kêu gọi sám hối của ĐGM,
một em đại diện thú nhận tội lỗi :)
1. Lạy Chúa, Chúa đã vì yêu mà tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa chúng con. Vậy mà chúng con đã đáp lại tình Chúa bằng những bê trễ trong việc thờ phượng, bỏ bồi dưỡng đức tin, và làm nhiều điều mất lòng Chúa.
Chúng con thành tâm thống hối, xin Chúa tha thứ cho chúng con.
Các em lặp lại : Chúng con thành tâm...
2. Kính thưa cha mẹ, bề trên, thưa các anh chị tông đồ và tất cả mọi người. Chúa đã dạy chúng con phải biết thảo kính cha mẹ và mọi người. Vậy mà chúng con đã nhiều lần bướng bỉnh, thiếu vâng lời còn vòi vĩnh làm phiền lòng mọi người.
3. Chúa đã dạy chúng con phải sống hòa thuận yêu thương nhau vì tất cả đều là con một Cha trên trời. Vậy mà chúng con đã nhiều lần cải nhau, đã nghĩ xấu về nhau đã đánh nhau, đã nhiều lần thiếu sự giúp đỡ chân tình.
4. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống, để tái tạo chúng con trở nên những Đền thờ tâm hồn xứng đáng cho Chúa ngự. Thế nhưng, chúng con đã chẳng biết tôn trọng Đền thờ chúng con. Trái lại, nhiều lần chúng con đã làm Đền thờ ấy ra hoen ố, bởi những tính hư nết xấu, ươn lười trong bổn phận phải chu toàn.
Kinh Vinh danh.
Lời Tổng nguyện :
Lạy Chúa là Cha nhân từ, xin thực hiện Lời Chúa đã hứa, mà sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Chính Người sẽ ban cho chúng con sức mạnh để trước mặt người thế, chúng con trở nên nhân chứng của Tin mừng. Chúng con cầu xin ...
II. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA :
Bài đọc 1 : Is 61, 1-3a.6a.8b-9
Hướng ý :
Để an ủi nâng đỡ dân Người, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu thế. Họ được Thần Linh Chúa thánh hóa để đem phúc lành trên muôn nước. Phải chăng đó cũng là lời hứa dành cho con cháu và giáo xứ chúng ta hôm nay.
Bài trích sách Ngôn sứ Isaia.
Ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi, và cũng từ gốc ấy, sẽ đơm lên một bông hoa, trên bông hoa ấy, Thần Linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức Thần khôn ngoan và thông suốt, Thần chỉ dẫn và sức mạnh, Thần hiểu biết và đạo đức, và Thần ấy sẽ làm cho người biết kính sợ Thiên Chúa. Người không xét đoán như mắt thấy, không lên án theo điều tai nghe, nhưng Người sẽ lấy sự công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.
Đó là Lời Chúa.
Đáp ca : Lạy Chúa xin sai Thánh Thần.
Bài đọc 2 : Rm 5, 1-2. 5-6
Hướng ý :
Bằng những cảm nghiệm sâu xa về ơn ban Chúa Thánh Thần, Thánh Phaolô muốn nhắc nhở chúng ta đường nên thánh chỉ thực hiện được nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, khi được đức tin công chính hóa, chúng ta được hòa thuận với Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đấng cho chúng ta, nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Thiên Chúa.
Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần, là Đấng đã ban cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn yếu hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn, mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi.
Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người chết vì kẻ lành. nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Đó là Lời Chúa.
Alleluia : Ga 14,16 (có thể hát)
Alleluia, Alleluia. Chúa phán : Chúa Cha sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác, để Người ở với các con luôn mãi. Alleluia.
Phúc âm : Lc 10, 21-24.
Hướng ý :
Hôm nay, qua Chúa Kitô, chúng ta đã hiểu được rằng tất cả những mạc khải yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người, chỉ được nên trọn, thấu suốt, đem lại kết quả nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Đó là một hồng ân cao cả mà Chúa Kitô đã đem lại cho chúng ta.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hân hoan trong Chúa Thánh Thần và nói : “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao ban cho Ta mọi sự, không ai biết Chúa Con ngoài Chúa Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết.
Rồi Chúa quay lại phía các môn đệ và phán : “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy, vì chưng Ta bảo các con ; có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe mà chẳng được nghe”.
Đó là Lời Chúa.
Diễn giảng Lời Chúa.
III. NGHI THỨC BAN BÍ TÍCH THÊM SỨC :
1. Xướng danh thụ nhân :
(Cha xứ hay người dạy giáo lý cho các em, nói đôi lời giới thiệu với Đức Cha về các em sẽ lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nội dung có thể như sau:)
Kính thưa Đức Cha,
Với tư cách là (Cha xứ, người được cha xứ ủy quyền), con xin giới thiệu với Đức Cha ..... (số lượng) em thiếu nhi trong Giáo xứ chúng con. Các em này đã được học Giáo lý đầy đủ, đã được sát hạch và con (hay cha xứ) chứng nhận là đủ điều kiện để được Đức Cha ban Bí tích Thêm sức.
(Đức Cha tiếp nhận và tùy nghi huấn dụ mấy lời)
2. Lặp lại lời tuyên hứa phép Rửa tội.
Hướng dẫn ý nghĩa :
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, Hội thánh muốn người lãnh nhận lặp lại lời tuyên hứa khi chịu phép Rửa tội, để mỗi người ý thức mối liên quan giữa Bí tích Rửa tội và Thêm sức, hay nói đúng hơn giữa ba Bí tích khai tâm Kitô giáo là phép Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể. Phép Rửa tội làm cho ta trơ nên công dân Nước Chúa, phép Thêm sức làm cho ta nên chứng nhân Nước Trời. Cả hai Bí tích là hai giai đoạn tiếp liền nhau và dẫn ta vào đời sống của Hội thánh để tham dự Bí tích Thánh Thể.
(ĐGM hỏi và các em tuyên xưng đức tin)
ĐGM : Các con có từ bỏ ma quỉ, mọi việc và mọi quyến rũ của ma quỉ không ?
Các em : Thưa, chúng con từ bỏ.
ĐGM : Chúng con có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không ?
Các em : Thưa, chúng con tin.
ĐGM : Chúng con có tin kính Đức Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha không ?
Các em : Thưa chúng con tin.
ĐGM : Chúng con có tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, Đấng ban sự sống, Đấng mà hôm nay, nhờ Bí tích Thêm sức, các con sẽ lãnh nhận một cách đặc biệt như xưa trong ngày Người hiện xuống không ?
Các em : Thưa, chúng con tin.
ĐGM : Chúng con có tin Hội thánh Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu không ?
Các em : Thưa, chúng con tin.
(ĐGM chấp nhận việc tuyên xưng này. Ngài công bố đức tin của Hội thánh mà rằng :)
Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội thánh. Chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
3. Lời nguyện chung trên thụ nhân :
Hướng dẫn ý nghĩa :
Lời nguyện này gồm hai phần : phần một nhắc lại trạng thái của ơn phép Rửa tội là tái sinh bởi nước và Thánh Thần, ơn tha các tội. Phần hai, dựa trên lòng nhân lành của Thiên Chúa đã tỏ bày trong phép Rửa, ĐGM xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần xuống trên các thụ nhân và ban cho họ bảy ơn thánh của Người, để thánh hóa, biến đổi họ, giúp họ trở nên người công giáo hoàn hảo, đầy dũng cảm để đương đầu với mọi thù địch, mạnh dạn sống đạo và truyền đạo theo địa vị mình. Lời nguyện kết thúc bằng lời kêu xin Thiên Chúa ghi dấu thánh giá trên trán thụ nhân, để họ hoàn toàn thuộc về Chúa.
(ĐGM đặt tay trên các thụ nhân và đọc lời nguyện).
ĐGM : Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, đoái thương ban tràn đầy Chúa Thánh Thần xuống trên những dưỡng tử của Chúa đây, là những kẻ đã được tái sinh vào sự sống vĩnh cửu trong Bí tích Rửa tội, để Chúa Thánh Thần dùng ơn huệ của Người làm cho họ trở nên vững mạnh, và xức dầu làm cho họ nên giống Chúa Kitô, Con Thiên Chúa.
(Mọi người thinh lặng trong giây lát, ĐGM đọc tiếp :)
ĐGM : Lạy Thiên Chúa toàn năng, là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Chúa đã tái sinh các tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát họ khỏi tội lỗi, thì lạy Chúa, xin hãy ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này, xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức, xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con.
C. đ : Amen.
4. Đặt tay và xức dầu Thêm sức :
Hướng dẫn ý nghĩa :
Đây là giây phút quan trọng nhất của nghi thức Bí tích Thêm sức : ĐGM vừa đặt tay trên đầu, vừa xức dầu hình thánh giá trên trán thụ nhân và đọc lời ban Bí tích Thêm sức. Việc đặt tay trên đầu là một cử chỉ kêu xin Chúa Thánh Thần xuống cho người lãnh Bí tích. Xức dầu thánh để chỉ người tín hữu phải trở nên hùng tráng, hiên ngang trên võ trường, luôn anh dũng, củng cố, bênh vực và loan truyền đức tin. Từ đây, họ trở nên giống Chúa Kitô, Đấng đã được xức dầu, họ được thông phần vào chức vụ ngôn sứ, vương đế và tư tế của Người. Ghi dấu thánh giá chỉ họ mang dấu Chúa Kitô, dấu đau thương nhưng cũng là dấu chiến thắng, nên người mang dấu ấy phải hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, can đảm bước theo đường của Người, sẵn sàng chịu mọi sự khó gian nan vì đạo, và luôn nhớ rằng, nhờ dấu ấy mà loài người được cứu rỗi và phải qua dấu ấy mà mọi người mới tìm được sự sống vinh quang.
(Các em và vú bõ đỡ đầu tiến lên cung thánh để các em nhận lãnh Bí tích Thêm sức, trong khi đó, ca đoàn hát những bài thích hợp xen kẽ với những hướng dẫn ý nghĩa cử hành).
* Dầu :
Sau khi rửa tội cho ai, các Tông đồ đã đặt tay cầu nguyện, và sau thêm việc xức dầu để xin ban hồng ân Chúa Thánh Thần.
Dầu là một trong những thức ăn chính yếu Thiên Chúa ban cho dân của Người (Tl 6,11; 8,8). Người ta kể dầu như lời chúc phúc của Thiên Chúa. Việc xức dầu cũng như lời đọc khi xức dầu biểu hiện rõ rệt những công hiệu của ân huệ Thánh Thần. Với dầu thơm do tay ĐGM xức cùng với lời đọc, người tín hữu lãnh nhận ấn tín bất diệt, tức là dấu chỉ thuộc về Chúa làm một cùng ân huệ Chúa Thánh Thần, để làm cho họ nên giống Chúa Kitô hơn, và ban cho họ ơn thánh, để họ gieo rắc hương thơm giữa mọi người.
* Ơn ích của Bí tích Thêm sức:
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần và tiếp tục con đường khai tâm nhờ Bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đã sai đến trên các Tông đồ. Nhờ hồng ân Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nên giống Chúa Kitô một cách hoàn hảo hơn, và được sức mạnh để trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, xây dựng Nhiệm thể Người trong đức tin, đức cậy và đức mến. Ấn tín Chúa in vào tâm hồn, nên ta không còn lãnh nhận Bí tích Thêm sức lần thứ hai nữa.
* Ai được quyền ban Bí tích Thêm sức :
Thông thường là ĐGM, chính Ngài ban Bí tích này để biểu lộ rõ rệt việc Chúa Thánh Thần trong ngày Người hiện xuống. Vì khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, chính các Tông đồ đã đặt tay truyền thông Chúa Thánh Thần cho giáo dân. Cũng vậy, việc tiếp nhận Chúa Thánh Thần qua ĐGM biểu hiệu mệnh lệnh đã tiếp nhận là nên chứng tá của Chúa Kitô giữa mọi người.
* Đối với cha mẹ và vú bõ đỡ đầu Rửa tội :
Trước mặt Chúa, cha mẹ và các vú bõ đã nhận lấy trách nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ các em trong việc học hỏi và sống đạo. Vì vậy, họ cần phải lo lắng khai tâm các em, nhất là chuẩn bị cho các em nhận Bí tích này, bằng cách gầy dựng và tăng trưởng dần dần đức tin nơi các em và tiếp tục giúp các em sống chứng tá trong chính cuộc sống hằng ngày.
* Đối với các em lãnh nhận Bí tích Thêm sức :
Sau bao ngày tháng bồi dưỡng đức tin, hôm nay các em lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, là Thầy dạy chân lý, là Hồn hoạt động tông đồ. Bằng 7 ơn cực trọng là các ơn : Khôn ngoan, Thông minh, Biết Lo liệu, Sức mạnh, Suy biết, Đạo đức và Kính sợ Chúa, Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi các em nên những chứng nhân sống động của Chúa Kitô trong cuộc sống. Vì vậy, các em cần phải cởi mở, hết lòng cộng tác, tín nhiệm Chúa Thánh Thần.
Trong nguồn ơn thánh dạt dào của Chúa Thánh Thần, các em sẽ mạnh dạn thi hành trọn vẹn bổn phận của người Kitô hữu trưởng thành là :
- Can đảm sống đạo trong mọi cảnh huống cuộc đời.
- Hiên ngang làm chứng nhân, hăng say truyền giáo bằng cầu nguyện, lời nói và hành động.
- Bênh vực đức tin cho đến cùng.
Lời nguyện giáo dân :
ĐGM : Anh chị em thân mến,
Chúng ta khẩn khoản cầu nguyện cùng Chúa Cha toàn năng, đổ tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần trên những người chịu phép Thêm sức hôm nay, để họ được can đảm sống xứng đáng như những chứng nhân và chiến sĩ của Chúa Kitô. Chớ gì lời cầu nguyện của chúng con được hiệp nhất như chỉ có một đức tin, đức cậy và đức mến, phát xuất từ Chúa Thánh Thần.
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần cho Hội thánh, cho Đức Thánh Cha, các Đức Giám mục chúng ta và toàn thể các linh mục, để Hội thánh được Chúa Thánh Thần đoàn tụ trong một đức tin và đức mến, luôn tăng trưởng và lan rộng cho tới ngày Chúa lại đến.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa, cho những tôi tớ Chúa mà Chúa Thánh Thần đã ngự đến, được nên vững mạnh, để họ kiên trì trong đức tin, nồng nàn trong đức mến, mà làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống hằng ngày.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho cha mẹ và những người đỡ đầu, để họ biết nâng đỡ đức tin những người chịu phép Thêm sức, biết dùng lời nói và gương lành mà khuyên nhủ những người ấy theo chân Chúa Kitô.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho toàn thế giới, để mọi người nhìn biết một Đấng Tạo hóa và một Cha chung, biết nhìn nhận nhau như anh em, và thành tâm tìm kiếm Nước Thiên Chúa, là sự bình an và vui mừng trong Chúa Thánh Thần.
ĐGM : Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các Thánh Tông đồ, và cũng muốn nhờ các Ngài và các Đấng kế vị mà ban Chúa Thánh Thần cho toàn thể các tín hữu. Xin Chúa đoái thương nghe lời chúng con cầu nguyện, tuôn đổ xuống tâm hồn các tín hữu ơn Chúa Thánh Thần, và thương thực hiện công cuộc truyền giáo như lúc khởi sự rao giảng phúc âm. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
C.đoàn : Amen.
IV. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ :
Hướng dẫn :
Làm thành một việc phụng thờ Thiên Chúa tuyệt hảo, chúng ta cùng tham dự và dâng hy lễ cứu độ của Chúa Kitô, của Hội thánh và của chính mình, để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa.
1. Dâng lễ vật :
6 em Thêm sức dâng Bánh + Rượu + Hoa + Nến + Hương.
Lạy Chúa, trong ngày hồng phúc được đón nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức, chúng con vui mừng tạ ơn Chúa. Chúng con muốn cảm tạ Chúa bằng việc dâng lên tất cả con người, cả suy tư, ước vọng của chúng con. Tâm nguyện ấy chúng con xin gói trọn trong những lễ vật đơn hèn này :
1. Hoa tươi được kết về từ khắp cánh đồng, rực rỡ bên ngọn nến lung linh chắt chiu từ sáp ong cần mẫn, chúng con xin dâng lên Chúa như dâng cả tuổi thơ chất chứa tình mến Chúa và ước nguyện nên thánh tươi đẹp của chúng con. Chúng con xin dâng lên Chúa.
2. Bánh miến rượu nho, là thành phẩm của nương đồng, mà công lao của cha mẹ, ông bà, của mọi người đã cần mẫn sớm tối làm nên. Trong đó mặn mà nổi ưu tư của cha vất vả của mẹ, có cả nổi băn khoăn lo lắng của quí Cha, quí Thầy, quí Dì. Xin dâng lên Chúa để hợp với hy tế của Chúa Kitô trở nên nguồn sống, nguồn cứu độ cho chúng con. Chúng con xin dâng lên Chúa.
3. Trầm hương thơm tho thanh thoát bay lên như lời cầu nguyện thiết tha của cộng đoàn chúng con trong thánh lễ này. Nguyện ước một đời sống hy sinh, chấp nhận lụi tàn như nén hương, mà ngát toả hương thơm của cầu nguyện liên lỉ bay lên trước tòa Chúa. Chúng con xin dâng lên Chúa.
Nguyện Chúa thương nhận và ban xuống hồng ân tràn đầy của Chúa Thánh Thần, để Ngài soi sáng, hướng dẫn, gìn giữ hai Đức Giám Mục, quí Cha, quí Thầy, Dì, ông bà cha mẹ, vú bõ đỡ, các anh chị Giáo lý viên và mọi người luôn mãi. Xin Ngài hiệp nhất chúng con nên một cộng đoàn yêu thương. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Hát dâng lễ : (TN. C 2/251)
3. Cám ơn Hiệp lễ :
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng con đã được làm con Chúa. Nhưng chúng con còn quá thơ dại. Nay cùng với tuổi đời và ơn thánh Chúa, đặc biệt ơn Bí tích Thêm sức chúng con vừa lãnh nhận, chúng con trở nên người khôn lớn hơn để sống đời làm con Chúa và loan truyền Chúa cho mọi người chung quanh. Chính trong dịp hồng phúc này, Chúa đến viếng thăm chúng con và nên lương thực thiêng liêng cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, luôn hướng dẫn chúng con sống ơn gọi làm con Chúa và rao giảng Tin mừng trong suốt cuộc đời chúng con.
Chúng con nguyện xin Chúa thương ban cho Hội thánh được trở thành cộng đoàn hiệp nhất và yêu thương. Xin Chúa thương gìn giữ và phù hộ Đức Thánh Cha, các Đức Giám mục Giáo phận, các Linh mục, nhất là quí Cha trong Giáo xứ chúng con, quí Thầy, quí Dì, ông bà, cha mẹ, anh chị cùng mọi người đã làm ơn cho chúng con. Xin Chúa thương gìn giữ và chúc lành cho các Ngài trong hồng ân cao đẹp của Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần hằng tác động và thánh hóa chúng con, để chúng con biết dùng đời sống mình trong môi trường gia đình, học đường và xã hội, mà làm chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa mọi người. Đó là cách thức chúng con có thể làm, để phần nào đáp đền tình thương của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những tâm tình và ước nguyện của chúng con.
4. Lời nguyện Hiệp lễ : (Sau lời nguyện Hiệp lễ - cám ơn Đức Cha)
V. KẾT LỄ :
Phép lành cuối lễ :
ĐGM : Xin Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã làm cho anh chị em, những người đã được tái sinh bởi nước và Thánh Thần nên dưỡng tử Người.
C.Đ : Amen.
ĐGM : Xin Con Một Thiên Chúa, Đấng đã hứa sai Thánh Thần Chân lý đến ở mãi trong Hội thánh, ban phúc lành cho anh chị em, dùng quyền lực của Người, mà làm cho anh chị em được mạnh mẽ trong việc tuyên xưng đức tin chân chính.
C. Đ : Amen.
ĐGM : Xin Chúa Thánh Thần, Đấng đã đốt lửa mến trong tâm hồn môn đệ Người, ban phúc lành cho anh chị em và đưa anh chị em đã tập họp nên một, thăng tiến về hưởng niềm vui mừng trong Nước Thiên Chúa.
C. Đ : Amen.
ĐGM : Và xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
C. Đ : Amen.
GIỜ CHẦU TẠ ƠN CHIỀU NGÀY THÊM SỨC.
* Hát : Đây lòng Chúa ái tuất...
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúng con là những người con nhỏ bé của Chúa đang quây quần trước nhan thánh Chúa. Chúng con vui mừng vô cùng trước niềm hạnh phúc mà Chúa đã ban cho chúng con. Sau những ngày tháng miệt mài bồi dưỡng đức tin, chúng con đã được Chúa thương ban Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức mà chúng con mới lãnh nhận sáng nay. Chúng con thành tâm thờ lạy Chúa, cảm tạ tình thương bao la, dạt dào của Chúa... Sao Chúa yêu chúng con nhiều qúa ! Trong khi đó chúng con chỉ là những người con nhỏ bé hèn mọn, đôi khi còn nghịch ngợm, lơ là, làm mất lòng Chúa và bề trên. Lạy Chúa, tâm hồn chúng con còn đơn sơ bé mọn, chúng con không thể hiểu thấu được tình yêu bao la của Chúa, xin Chúa dạy dỗ và soi sáng cho chúng con.
* Đọc Lời Chúa : Lc 10, 21-24.
Suy niệm 1 :
Lạy Chúa Giêsu, khi 72 môn đệ trở về sau chuyến rao giảng đầu tiên tốt đẹp, Chúa đã hân hoan cảm tạ Chúa Cha rằng :”Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu, không cho những người thông thái, khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho nhưng kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là ý của Cha đã muốn thế” (Lc 10,21).
Lạy Chúa Giêsu, vì quá yêu loài người, Chúa đã không muốn con người hư mất trong tội lỗi và sự chết, Chúa đã xuống thế làm người, sống giữa chúng con, nghèo hèn, thấp kém, làm việc nặng nhọc, ăn uống kham khổ, gối đất nằm sương, đi khắp làng quê đến thành thị để rao giảng tình yêu thương của Thiên Chúa, rao giảng sứ mạng cứu chuộc của Người. Nhưng đã mấy ai nhận biết được rằng : Giêsu, con ông Giuse, làm nghề thợ mộc tại Nazareth, lại là chính Con Một Thiên Chúa, Chúa tể vũ trụ, đầy quyền uy và cũng đầy yêu thương, đã trở nên một con người để gánh tội thay cho muôn người. Tại sao những người am hiểu tường tận Kinh Thánh , thuộc lòng lề luật của Chúa, như các luật sĩ, các thầy tư tế, trợ tế lại không nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Kitô ? Chỉ vì họ cho mình là người khôn ngoan, thông thái, tuân thủ kỹ càng luật lệ, nên họ trở nên kiêu căng tự phụ, cho mình là thánh thiện hơn người khác, nên lòng họ thành ra chai lì, không nhận biết được rằng ơn cứu độ đã đến với họ nơi Đức Giêsu. Chỉ vì không nhận thức được điều đó, nên họ đã ghen ghét, thù oán với Chúa, chống đối lại lời rao giảng của Chúa. Còn những người hèn mọn nghèo khó, tin tưởng và cậy trông vào Chúa, những người thấp kém trong xã hội, khiêm tốn trước mặt Chúa, sẵn sàng nhìn nhận và ăn năn tội lỗi mình, lại nhận được ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con, vì chúng con đã được nghe, được thấy điều mà cả các tiên tri, các vua chúa ao ước cũng chưa được, đó là được nghe Lời Chúa dạy bảo, được thấy tình yêu của Chúa chở che, nâng đỡ chúng con, dù rằng chúng con chỉ là những người con nhỏ, với một tâm hồn đức tin đơn sơ, chỉ biết ước ao kết hợp với Chúa, ước ao yêu mến Chúa mà chưa biết làm gì để cho Danh Chúa được mọi người ca tụng ngợi khen. Chúng con xin chân thành cảm tạ và yêu mến Chúa hết lòng, vì Chúa đã cho chúng con được làm con Chúa, lại ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, giúp chúng con thêm tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa.
Lời nguyện cầu của chúng con theo làn khói hương trầm, thơm ngát bay cao, xin thành kính dâng lên trước tôn nhan Chúa.
* Dâng hương : Đôi tay này.
Suy niệm 2 :
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Nơi Bí tích Thêm sức, Chúa đã yêu thương đổ tràn đầy Thần Khí trên chúng con, chúng con vừa vui mừng, vừa hãnh diện vô cùng, vì cho dù chúng con nhỏ bé, Chúa vẫn kêu gọi, và chính thức nhìn nhận chúng con là những chứng nhân đi mở mang Nước Chúa. Lãnh nhận Chúa Thánh Thần, chúng con trở nên những Tông đồ, luôn sẵn sàng và hết lòng làm chứng cho tình yêu Chúa. Có Chúa Thánh Thần, chúng con càng thêm mạnh mẽ, càng thêm dũng cảm trong niềm tin vào Chúa, để chiến đấu với những thói hư tật xấu, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, thắng vượt những ươn lười, can đảm từ chối những cám dỗ của tuổi trẻ, chuyên chăm học hành, chuyên chăm bồi dưỡng đức tin, sống đạo đức và thánh thiện vì yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, chúng con còn nhỏ bé quá ! không thể đi nơi này nơi khác, không thể rao giảng hùng hồn, không thể làm những chuyện to lớn, trọng đại như các Thánh Tông đồ, hay như các vị Truyền giáo. Nhưng người nhỏ làm việc nhỏ, chúng con xin vì lòng yêu mến Chúa để qua việc chăm chỉ, siêng năng, ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, anh chị và các cấp lãnh đạo, qua cuộc sống thánh thiện và bác ái, chúng con làm cho Danh Chúa được vinh hiển. Xin Chúa Thánh Thần ban lòng yêu mến Chúa nơi chúng con, như ngọn lửa nóng luôn cháy sáng niềm tin và tình yêu, để chúng con trở nên những chứng nhân của Chúa, hăng say rao truyền Lời Chúa cho mọi người.
* Dâng nến : Ngài sai con.
Này con là Đá.
Ôi Nhiệm tích.
Phép lành Mình Thánh Chúa.
Kết thúc :
Lạy Chúa, trên bước đường làm chứng nhân cho Chúa, chúng con xin chạy đến Mẹ Maria, là Mẹ của Chúa và cũng là Mẹ chúng con. Đấng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày lễ Truyền tin, và cũng là người đầu tiên trao ban Chúa cho mọi người. Từ trong tâm tư cho đến đời sống hằng ngày, Mẹ luôn khiêm nhu, nghèo khó, và tự xưng mình là tôi tớ hèn mọn của Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa đã ban cho Mẹ nhiều ơn cao trọng. Chúng con, đoàn con thơ nhỏ dại, xin noi theo gương mẫu của Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, trung kiên trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời, luôn hăng say làm chứng cho Chúa trong suốt cuộc đời của chúng con.
* Hát : Đến muôn đời.