GIÁO TRÌNH
ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH
(Xưng tội rước lễ lần đầu)
Thứ tự bài
*******
KÝ HIỆU KINH THÁNH
LỜI NÓI ĐẦU
BÀI MỞ ĐẦU : EM HỌC GIÁO LÝ
PHẦN I : TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
Bài 01 : THIÊN CHÚA SÁNG TẠO TRỜI ĐẤT MUÔN VẬT
Bài 02 : THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI
Bài 03 : SA NGÃ
Bài 04 : CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
Bài 05 : CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Bài 06 : CHÚA GIÊ-SU SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI
Bài 07 : CHÚA THÁNH THẦN
Bài 08 : THIÊN CHÚA BA NGÔI
Bài 09 : CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH
Bài 10 : TỔ CHỨC HỘI THÁNH
Bài 11 : ĐỨC MA-RI-A MẸ CHÚA GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH
Bài 12 : ƠN THA TỘI
Bài 13 : Ơn PHỤC SINH VÀ ĐỜI SỐNG VĨNH CỬU
PHẦN II : SỐNG TRONG CHÚA KI-TÔ
Bài 14 : CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Bài 15 : LƯƠNG TÂM
Bài 16 : NHÂN ĐỨC
Bài 17 : TỘI LỖI
Bài 18 : ƠN CHÚA
Bài 19 : Đr 1 : THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
Bài 20 : Đr 2 : TÔN KÍNH DANH THIÊN CHÚA
Bài 21 : Đr 3 : THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT
Bài 22 : Đr 4 : THẢO KÍNH CHA MẸ
Bài 23 : Đr 5 : TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
Bài 24 : Đr 6+9 : SỐNG TRONG SẠCH
Bài 25 : Đr 7 : GIỮ SỰ CÔNG
Bài 26 : Đr 8 : TÔN TRỌNG SỰ THẬT
Bài 27 : Đr 10 : CHỚ THAM CỦA NGƯỜI
PHẦN III : CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO
Bài 28 : PHỤNG VỤ
Bài 29 : BÍ TÍCH RỬA TỘI
Bài 30 : BÍ TÍCH HÒA GIẢI
Bài 31.a : LÃNH NHẬN BÍ TÍCH HÒA GIẢI : XÉT MÌNH
PHỤ TRƯƠNG : BẢN XÉT MÌNH
Bài 31.b : ĂN NĂN DỐC LÒNG CHỪA
PHỤ TRƯƠNG: NGHI THỨC SÁM HỐI
Bài 31.c : XƯNG TỘI
Bài 31.d : ĐỀN TỘI
Bài 32 : BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Bài 33 : THÁNH LỄ
Bài 34 : RƯỚC LỄ
PHẦN IV: KINH NGUYỆN KI-TÔ GIÁO
Bài 35 : KINH LẠY CHA : LỜI KINH CỦA CHÚA
Bài 36 : KINH LẠY CHA : BẢY LỜI NGUYỆN XIN
PHỤ TRƯƠNG: NGHI THỨC XƯNG TỘI RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU
--------------o0o--------------
Viết tắt Tên sách
Ac ................................................... Ai-ca
Am .................................................. A-mốt
Br .................................................... Ba-rúc
Cl .................................................... Cô-lô-xê
Cn ................................................... Châm ngôn
1 Cr ................................................. 1 Cô-rin-tô
2 Cr ................................................. 2 Cô-rin-tô
Cv ................................................... Công vụ Tông đồ
Dc ................................................... Diễm ca
Dcr .................................................. Da-ca-ri-a
Ds ................................................... Dân số
Dt .................................................... Do thái
Đn ................................................... Đa-ni-en
Đnl .................................................. Đệ Nhị Luật
Ed ................................................... Ê-dê-ki-en
Ep ................................................... Ê-phê-xô
Er .................................................... Ét-ra
Et .................................................... Ét-te
G .................................................... Gióp
Ga ................................................... Gio-an
1 Ga ................................................ 1 Gio-an
2 Ga ................................................ 2 Gio-an
3 Ga ................................................ 3 Gio-an
Gc ................................................... Gia-cô-bê
Gđ ................................................... Giu-đa
Gđt .................................................. Giu-đi-tha
Ge.................................................... Giô-en
Gl .................................................... Ga-lát
Ga ................................................... Giô-na
Gr ................................................... Giê-rê-mi-a
Gs ................................................... Giô-suê
Gv ................................................... Giảng viên
Hc ................................................... Huấn ca
Hs ................................................... Hô-sê
Is .................................................... I-sai-a
Kb ................................................... Kha-ba-cúc
Kg ................................................... Khác-gai
Kh ................................................... Khải huyền
Kn ................................................... Khôn ngoan
Lc ................................................... Lu-ca
Lv ................................................... Lê-vi
Mc .................................................. Mác-cô
1 Mcb .............................................. Ma-ca-bê quyển 1
2 Mcb .............................................. Ma-ca-bê quyển 2
Mk .................................................. Mi-kha
Mi ................................................... Ma-la-khi
Mt ................................................... Mát-thêu
Nk ................................................... Na-khum
Nkm ................................................ Nơ-khe-mi-a
Ôv ................................................... Ô-va-đi-a
Pl .................................................... Phi-líp-phê
Plm ................................................. Phi-lê-môn
1 Pr ................................................. 1 Phê-rô
2 Pr ................................................. 2 Phê-rô
R ..................................................... Rút
Rm .................................................. Rô-ma
1 Sb ................................................ Sử biên niên quyển 1
2 Sb ................................................ Sử biên niên quyển 2
1 Sm ............................................... Sa-mu-en quyển 1
2 Sm ............................................... Sa-mu-en quyển 2
St .................................................... Sáng thế
Tb ................................................... Tô-bi-a
Tl .................................................... Thủ lãnh
1 Tm ............................................... 1 Ti-mô-thê
2 Tm ............................................... 2 Ti-mô-thê
Tt .................................................... Ti-tô
Tv ................................................... Thánh vịnh
1 Tx ................................................. 1 Thê-xa-lô-ni-ca
2 Tx ................................................. 2 Thê-xa-lô-ni-ca
1 V .................................................. Các Vua quyển 1
2 V .................................................. Các Vua quyển 2
Xh.................................................... Xuất hành
Xp ................................................... Xô-phô-ni-a
Tông huấn “Dạy Giáo lý trong thời đại chúng ta” của Đức Gioan-Phaolô II ban hành ngày 16.10.1979, đã là kim chỉ nam cho công cuộc Dạy Giáo lý của chúng ta. Dựa theo tông huấn này và bản HƯỚNG DẪN GLV của Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, ban hành ngày 3.12.1993, cũng như các phương pháp dạy giáo lý, chúng ta thử cùng nhau nhận định một số nét chủ yếu trước khi vào giáo án “ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH”.
I. SỨ MỆNH TRUYỀN GIẢNG GIÁO LÝ :
Việc truyền giảng giáo lý luôn được Hội thánh coi là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của mình, vì trước khi lên cùng Cha Người, Chúa Giê-su phục sinh đã ban cho các Tông đồ một huấn lệnh sau cùng : Làm cho mọi dân tộc trở nên môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền (x.Mt 28,19-20). Như vậy, Người trao cho các Tông đồ sứ mệnh và quyền năng loan truyền cho nhân loại điều mà chính các ông đã được nghe, được thấy tận mắt, được ngắm, sờ bằng tay về Ngôi Lời ban sự sống (x. 1 Ga 1,1). Đồng thời Người ban cho các ông sứ mệnh và quyền năng giải thích một cách có thẩm quyền điều mà Người đã dạy các ông, lời nói và việc làm của Người. Và Người ban cho các ông Thần Khí để hoàn thành sứ mạng ấy.
Từ rất sớm người ta đã dùng từ ngữ “Dạy giáo lý” để gọi toàn thể các nỗ lực trong Hội thánh nhằm đào tạo các tín hữu để giúp nhân loại tin rằng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ đức tin, họ được sống nhân danh Người (x. Ga 20,31) để giáo dục và dạy dỗ họ trong cuộc sống ấy và nhờ thế, xây dựng thân mình của Đức Ki-tô. Hội thánh không ngừng dồn năng lực vào công việc ấy
(DGL. 1).
Nơi số 14, Đức Gioan-Phaolô II còn khẳng định việc dạy giáo lý là quyền lợi và bổn phận của Hội thánh như sau :
“Hiển nhiên là đối với Hội thánh, việc dạy giáo lý bao giờ cũng là bổn phận thiêng liêng và một quyền lợi bất khả xâm phạm. Một mặt, đó hẳn là một bổn phận nảy sinh do mệnh lệnh của Chúa và đè nặng nhất là trên vai những kẻ, trong giao ước mới, nhận được ơn gọi vào thừa tác vụ chủ chăn. Mặt khác, cũng có thể nói, là một quyền lợi : về phương diện thần học, mọi người đã được Rửa tội, chính do phép Rửa tội, đều có quyền được Hội thánh giảng dạy và huấn luyện, nhờ đó họ có thể tiến tới đời sống Ki-tô đích thực. Trên bình diện nhân quyền, mọi nhân vị đều có quyền tìm kiếm chân lý tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái lương tâm mình, cũng không ai bị cản trở trong việc hành động theo lương tâm mình” (Tuyên ngôn tự do tôn giáo số 2).
Nơi số 15, Tông huấn viết tiếp : “Trong thế kỷ 20 sắp kết thúc này... Hội thánh được Thiên Chúa kêu gọi canh tân niềm hy vọng của mình trong hoạt động “Dạy Giáo Lý” được coi như một nhiệm vụ tối thượng của sứ mệnh mình. Hội thánh được kêu mời dành cho việc dạy giáo lý những tài nguyên quí giá nhất của mình về nhân sự và năng lực, mà không quản ngại những cố gắng, những mệt nhọc và phương tiện vật chất, để tổ chức việc dạy giáo lý cho chu đáo hơn và đào tạo những nhân viên thành thạo (DGL. 15).
Việc dạy giáo lý vẫn là và sẽ còn là một công cuộc mà toàn thể Hội thánh phải cảm thấy và muốn gánh chịu trách nhiệm. Các thành viên của Hội thánh cũng có những trách nhiệm riêng biệt phát sinh từ sứ mệnh của mỗi người :
- Do chức vụ của mỗi người và ở cấp bậc khác nhau, các vị chủ chăn có trách nhiệm trên hết trong việc nâng cao, hướng dẫn và phối trí việc Dạy Giáo lý. Các Giám mục là người trách nhiệm trước tiên về việc dạy giáo lý, là giáo lý viên đúng nghĩa nhất. Vai trò chính của Giám mục là khơi dậy và gìn giữ trong Giáo phận một sự say mê dạy Giáo lý, sự say mê được thể hiện trong một số tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ và các tài nguyên cần thiết. Xin Anh em tin chắc rằng nếu việc dạy giáo lý tiến hành đúng đắn trong Giáo hội địa phương, thì mọi việc khác sẽ trôi chảy. Về phần mình, vị Giáo Hoàng ý thức sâu xa trách nhiệm tối cao của mình trong lãnh vực này : Ngài tìm thấy trong đó lý do của sự ân cần mục vụ, nhưng nhất là nguồn vui mừng và hy vọng.
- Đối với các Linh mục : đây là một địa hạt đặc biệt cho việc Tông đồ của
họ : “Công đồng đã gọi các Linh mục là “NGƯỜI GIÁO DỤC ĐỨC TIN” : Các Ngài có thể nào làm người giáo dục đức tin hoàn hảo bằng phương pháp nào khác hơn là bằng cách dành phần tối hảo cho các nỗ lực để làm tăng trưởng cộng đoàn của các Ngài trong đức tin không ? Tất cả các chủ chăn đều có bổn phận lo liệu việc ấy. Tất cả những người có đức tin đều có quyền học giáo lý... đừng để vì thiếu một sự nhiệt thành nào, do một thiên kiến bất lợi nào mà các tín hữu không được học giáo lý. Đừng để ai có thể nói : “Các trẻ nhỏ đòi bánh nhưng không ai chia cho chúng”.
- Còn các tu sĩ nam nữ : “Qua dòng lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã rất tận tuỵ trong hoạt động dạy giáo lý của Hội thánh bằng cách thực hiện một công cuộc đặc biệt thích hợp và hữu hiệu... Trong lúc người ta muốn tăng cường dây liên kết giữa các tu sĩ và chủ chăn, và do đó, tăng cường sự hiện diện tích cực của các cộng đoàn Tu sĩ và của các thành viên của các cộng đoàn ấy trong kế hoạch mục vụ của các Hội thánh địa phương, Cha hết lòng khuyên các con, là những người nhờ sự thánh thiện trong dòng, càng sẵn sàng phục vụ Hội thánh. Cha khuyên các con hãy dọn mình càng kỹ lưỡng càng tốt cho nhiệm vụ dạy giáo lý... đi đâu cũng đem theo mối bận tâm ấy. Chớ gì các Hội dòng dành tối đa khả năng và nghị lực vào công cuộc Dạy giáo lý”.
- Với các Giáo lý viên giáo dân : “Nhân danh toàn thể Hội thánh, Cha cám ơn các con là những giáo lý viên của giáo xứ, những giáo dân nam nữ khắp nơi trên thế giới đang tận tụy trong việc giáo dục đạo giáo cho nhiều thế hệ. Hoạt động các con nhiều khi khiêm tốn và kín đáo, nhưng nhiệt thành hăng say và quảng đại, là một hình thức tuyệt vời của tông đồ giáo dân, đặc biệt quan trọng ở những nơi mà, vì nhiều lý do khác nhau, các trẻ nhỏ và thanh niên không được huấn luyện đạo giáo một cách xứng hợp trong gia đình chúng... Đại hội IV của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không quên các con. Cùng với Đại hội, Cha khuyến khích các con luôn tiếp tục cộng tác vào đời sống của Hội thánh”.
- Ở cấp bậc khác, các phụ huynh có trách nhiệm riêng biệt : hoạt động dạy giáo lý của gia đình có tính cách đặc biệt và có thể nói, không thể thay thế được, đã được Hội thánh nhấn mạnh một cách chí lý, đặc biệt do Công Đồng Vat II... Gia đình là trường học đầu tiên và cha mẹ là thầy cô thứ nhất của trẻ nhỏ. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm theo và làm phong phú mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý.
Tất cả mọi người, ở các trình độ khác nhau, đều có trách nhiệm rất rõ rệt trong việc giáo dục lương tâm tín hữu. Việc giáo dục này rất quan trọng cho đời sống Hội thánh (x. DGL. 15. 16. 63-68).
II. MỤC ĐÍCH VIỆC DẠY GIÁO LÝ :
1. Mục đích tiên khởi của việc dạy giáo lý là giúp cho con người tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, để nhờ tin mà họ được sống nhân danh Người. (x. DGL. 1).
2. Mục đích đặc biệt lâu dài của việc dạy giáo lý là làm phát triển đức tin còn thơ ấu thăng tiến tới trình độ trưởng thành, viên mãn (x. DGL 20).
3. Mục đích thiết thực của việc dạy giáo lý chính là nhằm nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu thuộc mọi lứa tuổi được hấp thụ và thấm nhuần giáo lý của Chúa, được biến đổi thành thụ tạo mới do tác động của ơn thánh Chúa (DGL 20).
Để đạt mục đích trên, ta cần phải biết rõ đường hướng căn bản của thần học mục vụ về khoa dạy giáo lý hiện nay.
III. ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA KHOA DẠY GIÁO LÝ NGÀY NAY :
1. Mọi khoa dạy giáo lý chân chính hiện nay đều phải lấy Đức Ki-tô làm trung tâm (Christocentrique). Quan điểm này đã được Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới khóa IV chuẩn nhận và khẳng định (x. DGL 5) :
a) Ở trung tâm của khoa dạy giáo lý phải có Chúa Giê-su Thành Na-da-réth. Người là đối tượng cốt yếu của khoa dạy giáo lý.
b) Dạy giáo lý là phải dẫn đưa người ta đến với Chúa Ki-tô, giúp người ta dò thấu mầu nhiệm Chúa Ki-tô.
c) Dạy giáo lý phải là bày tỏ ý định vĩnh cửu của Thiên Chúa nơi Ngôi vị Chúa Ki-tô.
d) Dạy giáo lý là tìm hiểu ý nghĩa mọi cử chỉ, lời nói, hành động, các phép lạ Chúa Giê-su đã thực hiện, những phép lạ ấy vừa biểu lộ vừa che giấu mầu nhiệm của Người.
2. Theo đường hướng này, mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho người ta không những gặp gỡ mà còn sống THÔNG HIỆP THÂN MẬT với Chúa Ki-tô, vì chỉ mình Người mới có thể đưa ta đến tình yêu Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (DGL 5). Mặt khác, dạy giáo lý có tích cách Ki-tô-hướng còn có ý nghĩa là : mỗi người dạy không được phép thông truyền học thuyết riêng của mình, hay là một học thuyết của ông thầy nào khác ; nhưng dạy giáo lý là ta phải thông truyền giáo lý của Chúa Giê-su Ki-tô, phải dạy chân lý chính Người thông ban ; nói đúng hơn chính Người là hiện thân chân lý (DGL 6).
3. Dạy giáo lý quy chiếu về Đức Ki-tô có nghĩa là : (DGL 7.8).
a) Trong việc giảng dạy phải làm sao cho thấy chính Chúa Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, Con Thiên Chúa hiện diện, Người đang giảng dạy. Các giáo lý viên chỉ là phát ngôn viên của Người, họ để Người dùng môi miệng họ mà giảng dạy.
b) Do đó, mối bận tâm thường xuyên của mọi GLV là phải thông truyền nguyên vẹn giáo lý của Chúa Giê-su. Họ không được phép qui chiếu về mình, không được lấy ý kiến riêng và thái độ cá nhân mình làm trọng tâm cho người thụ huấn. Họ không được ghi tạc vào lòng học viên ý kiến, cảm nghĩ cá nhân của mình như thể đó là những tư tưởng, cảm nghĩ, giáo lý của Chúa. Mỗi giáo lý viên phải áp dụng cho mình bí quyết dạy giáo lý mà chính Chúa Ki-tô đã phán : “Đạo Ta dạy, không phải là của Ta, nhưng là của Đấng đã sai Ta” (Ga 7,16) hoặc như Thánh Phaolô diễn tả : “Tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều mà tôi truyền lại cho anh em” (1 Cr 11,23).
4. Vậy để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy giáo lý theo đường hướng này, GLV (DGL 6) :
a) Phải chuyên cần học hỏi Lời Chúa ;
b) Phải có đời sống nội tâm kết hợp mật thiết với Chúa ;
c) Phải có tinh thần cầu nguyện liên tục ;
d) Phải có thói quen từ bỏ mình cao độ.
Tóm lại, tất cả đường hướng giáo lý qua truyền thống Hội thánh là củng cố trong ta lòng yêu mến Chúa Ki-tô. Người là Thầy sự thật, Đấng cứu thoát, thánh hóa và hướng dẫn ta. Đấng hằng sống, Đấng nói, lay động, gây cảm xúc, uốn nắn, xét xử, tha tội và hằng ngày Người cùng đi với chúng ta trên con đường lịch sử “cho đến tận thế” (DGL 9). Nên, ta phải có đời sống thông hiệp sâu xa với Người, GLV mới tìm thấy ánh sáng và sức mạnh cho việc canh tân đích thực công cuộc dạy giáo lý mà chúng ta hằng mong đợi (DGL 9).
IV. DẠY GIÁO LÝ CÁCH NÀO ?
1. Việc dạy giáo lý, nhất là cho trẻ em và giới trẻ trong thời đại chúng ta thôi thúc chúng ta phải tự hỏi (DGL 35) :
a) Làm cách nào trình bày cho thiếu nhi và thanh niên biết Chúa Ki-tô, Thiên Chúa làm người ?
b) Làm thế nào cho Giới Trẻ GẶP GỠ được Chúa Ki-tô bằng chính sự hiểu biết, cảm nghiệm bản thân họ, không phải chỉ bồng bột, nhưng ngày càng sâu sắc ?
c) Làm cách nào cho Giới Trẻ hiểu biết được chính sứ điệp của Người ?
2. Để việc làm này có thể tiến hành và đạt kết quả, tông huấn Dạy giáo lý đề nghị phải đồng thời thực hiện hai việc sau :
a) PHÂN CHIA việc dạy giáo lý thành các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.
b) Vận dụng các phương pháp sư phạm giáo lý điển hình và các phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại vào việc dạy giáo lý.
3. Nói chung về cách giảng dạy Giáo lý : Tông huấn “Dạy giáo lý” chỉ thị rõ (DGL 21-22) :
a) Giảng dạy không phải là tùy hứng, thiếu sửa soạn nhưng phải giảng dạy có hệ thống, theo một chương trình, nhằm mục đích rõ rệt.
b) Giảng dạy về những điều cốt yếu. Không nên đề cập tới tất cả các vấn đề còn đang tranh luận, cũng không nên biến việc dạy giáo lý thành buổi khảo cứu thần học hoặc chú giải Kinh Thánh theo những đòi hỏi chuyên môn của khoa Thánh kinh học.
c) Dù sao, việc dạy giáo lý cũng phải khá đầy đủ, không dừng lại ở việc “loan báo thô sơ” (Kêrygma) mầu nhiệm Ki-tô giáo.
d) Phải khai tâm Ki-tô giáo toàn diện về tất cả các mầu nhiệm chính trong đạo.
e) Việc làm này không chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân đơn thuần, nhưng phải dựa vào kinh nghiệm truyền thống (traditio) sống động và linh hoạt của Hội thánh.
V. CHƯƠNG TRÌNH GLHÂ : (xem trang 16-17)
VI. GIÁO LÝ CẤP I : ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH.
Đến Bàn Tiệc Thánh là tập giáo lý đầu tiên trong 3 cấp GL căn bản dành cho các em thiếu nhi. Nội dung trình bày toàn bộ sứ điệp KTG, trích từ cuốn GLCG 1996 trong mức độ thích hợp với lứa tuổi 6-8 tuổi, có trình độ văn hóa lớp 1-2-3. ĐBTT chọn Bí tích Hòa giải và Thánh Thể làm kết điểm của chương trình cấp I và tất cả đều nhắm tới chủ đích : Thiên Chúa là Cha quyền năng yêu thương và mọi người là anh chị em để kiến tạo nền văn minh tình thương, hầu dẫn đưa tất cả vào cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng. Giáo Lý Hồng An lần lượt giới thiệu 4 tập ĐBTT:
- 01 tập dành cho các học viên (thủ bản).
- 01 tập đầy đủ chi tiết, mang tính sư phạm dành cho GLV (giáo án).
- 01 hoặc nhiều tập sinh hoạt (Hát - Băng hát - Vũ - Băng reo - Truyện kể - Trò chơi...).
- 01 tập tranh lớn minh họa các bài giáo lý (khi có điều kiện).
Tập giáo án, mặc dù là tổng hợp những đóng góp quí báu của nhiều dòng tu, chủng sinh và GLV giáo dân trong và ngoài Giáo phận, nhưng nó vẫn còn hạn chế, mong được góp ý từ muôn phương để hoàn thiện ; và nhất là chưa thích hợp với từng nơi. Vì thế nó đòi hỏi các GLV trước khi vào lớp phải soạn lại cho thích hợp với khu vực, điều kiện và hoàn cảnh từng nơi, từng lúc.
VII. DIỄN TIẾN CỦA TIẾT GIÁO LÝ ĐBTT :
Giáo Lý Hồng ân cố gắng tổng hợp các phương pháp giảng dạy nhất là phương pháp Thánh kinh - Hoạt động - Qui nạp... Vì thế, giáo án của mỗi bài giáo lý thường có những phần sau :
A. Phần nhắc nhở GLV :
1. Lời Chúa : Lời Chúa vừa là sức sống, vừa là phương thức truyền dạy nội dung giáo lý. Do đó, bài giáo lý chọn một câu Kinh Thánh thích hợp với nội dung giáo lý được trình bày. GLV phải là người thuộc, suy niệm và sống Lời Chúa đó trước.
2. Ý chính : Xác định nội dung chính yếu của bài giáo lý.
Đến Bàn Tiệc Thánh cũng như 2 tập Lớn lên trong Chúa Thánh Thần (GL cấp II) và Sống đạo (GL cấp III) làm nên một nội dung duy nhất bổ túc cho nhau mà mỗi Ki-tô hữu phải biết. Mỗi bài là một đề tài (không phải mỗi bài là một tiết giáo lý) gồm nhiều ý chính. Các GLV cần phân định đề tài thành những tiết giáo lý tùy theo thời lượng của mỗi cấp cho phép. Để giúp các GLV giảng dạy, GLHÂ cố gắng xác định những ý chính của mỗi bài giáo lý. Trong phần diễn giải nội dung giáo lý, chúng tôi cũng trình bày theo từng ý chính này. Mỗi ý chính sẽ có lời Chúa chủ lực và được diễn tả như một tiết giáo lý. GLV có thể tự dọn những bước I, III, IV, V để làm thành một tiết giáo lý riêng.
3. Tâm tình : Nhắc cho GLV yêu cầu phải khơi gợi lên nơi tâm hồn các em trong và sau buổi giáo lý.
4. Chuẩn bị : Đề nghị một số học cụ, hình ảnh để GLV chọn trước khi vào lớp giáo lý.
B. Giáo án :
Dạy giáo lý phải đạt được 3 mức độ :
- TRUYỀN THÔNG KIẾN THỨC TÔN GIÁO,
- CẢI TẠO ĐỜI SỐNG,
- DẪN ĐƯA VÀO ĐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA KI-TÔ.
Vì thế, cần tận dụng những phương pháp sư phạm trình bày sao cho các em dễ tiếp thu, dễ nhớ. Chương trình giáo lý Hồng Ân đã đón nhận phương pháp sư phạm văn hóa của các lớp mẫu giáo và cấp I văn hóa nhằm giúp các em :
- Không xa lạ, tách biệt giữa học văn hóa và học giáo lý ;
- Thực hiện được cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô và đón nhận giáo lý từ chính Chúa Ki-tô ;
- Cố gắng thuộc và sống nội dung Giáo lý ngay trong giờ giáo lý ( trong thực tế, các em bị chi phối nhiều bởi cuộc sống xô bồ hôm nay. Thời giờ dành cho giáo lý rất hạn chế). GLHÂ đề xuất diễn tiến tiết giáo lý theo 5 bước sau :
1. Ổn định : (GLV cần làm sinh động và mau chóng bước ổn định).
a) Đón tiếp :
- Các GLV vui vẻ, tươi cười đón tiếp từng phụ huynh (nếu có) và từng em vào lớp (vào địa điểm giáo lý), thăm hỏi phụ huynh các em về gia cảnh, làm quen với từng em cốt sao cho các em thấy mình được yêu thương và nhập cuộc với mọi người, mau chóng thoát khỏi tâm trạng sợ sệt, xa lạ ...
- Đến giờ, GLV chủ nhiệm chào các em và tự giới thiệu mình và các bạn GLV khác, nếu có. Cũng nên giới thiệu tổng quát các em học viên (Tổng số bao nhiêu, nam, nữ bao nhiêu), tuyên dương sự vui vẻ và vỗ tay chào nhau.
b) Thánh hóa :
GLV chủ nhiệm hướng dẫn các em đứng nghiêm trang, khoanh tay, mắt nhìn lên Tượng Chúa (nếu có) hoặc hướng lên bàn Lời Chúa, làm dấu Thánh giá, cùng đọc kinh Lạy Cha.
c) Dẫn vào bài mới : (từ bài giáo lý thứ hai)
Đây chưa phải là lúc kiểm tra bài cũ để lấy điểm mà chỉ là nhắc sơ qua bài cũ để giới thiệu đề bài mới.
2. Em nghe Lời Chúa :
a) Dẫn nhập :
Bằng một kinh nghiệm sống, một điểm móc (point d’accrochage), GLV dẫn các em vào tâm tình và thái độ đón nghe Lời Chúa : con người lãnh hội từ những gì cụ thể chung quanh trong đời sống thường ngày, từ đó, mới có thể hiểu được những gì trừu tượng, linh thiêng, nhất là đối với tuổi thơ. Đặc tính của phần này là cái gì cụ thể, dễ hiểu, gây hào hứng thích thú đối với các em đồng nhi, thí dụ một câu chuyện, một hình ảnh, một bài hát, hay một đoạn văn ghi tiếng nói của ai đó.
b) Công bố Lời Chúa :
“Ở trung tâm khoa dạy giáo lý phải có Chúa Giê-su thành Na-da-réth. Người là Con Một tự Cha mà đến, tràn đầy ân sủng và chân lý. Người là đối tượng khoa dạy giáo lý”. Vì thế, Lời Chúa phải được công bố và được đón nhận trong giờ giáo lý.
c) Dẫn giải nội dung giáo lý (giải thích) :
Đi từ Lời Chúa vừa được công bố, GLV trình bày nội dung giáo lý bằng ngôn ngữ thích hợp với các em, bằng những câu chuyện, những hình ảnh, những câu hỏi đáp đơn sơ... GLV luôn nhớ là trình bày giáo lý của Chúa Giê-su chứ không trình bày ý kiến cá nhân mình. Đây là phần đóng góp chủ yếu của GLV vào việc truyền thông giáo lý cho các em.
d) Cầu nguyện :
Giờ giáo lý không phải là giờ học như các môn học khác : Toán - Văn - Sử... Nhưng là giờ các em tiếp xúc với Chúa Giê-su, GẶP GỠ, HIỆP THÔNG với CHÚA GIÊ-SU thành Na-da-rét, Đấng đã sống và dạy chân lý đó. Do đó, sau khi các em lắng nghe và hiểu Lời Chúa, các em nghiêm trang cầu nguyện. GLV đọc từng phần lời cầu nguyện ngắn, các em lặp lại hoặc GLV hướng ý cầu nguyện. Cũng có thể dần dần tập cho các em cầu nguyện tự phát.
3. Em nhớ Lời Chúa :
Đây là lúc giúp các em nhớ nội dung chính yếu của bài học giáo lý : các em cố gắng thuộc ngay tại lớp giáo lý SAU KHI ĐÃ HIỂU tương đối : các em học một lời Kinh Thánh và những câu hỏi thưa (được trích từ sách GLCG do HĐGMVN phổ biến năm 1996 bắt nguồn từ cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo ban hành ngày 1.10.1992).
4. Em sống Lời Chúa :
a) Sinh hoạt :
Các em thiếu nhi (6-12t) là tuổi hồn nhiên thích chơi nhưng là chơi để học, chơi để sống. Vì thế, những bài hát cùng với những vũ điệu đơn sơ, những băng reo, câu hò, truyện kể, trò chơi... là phương thức thích hợp và linh động với các em. Đây là phần đề nghị, GLV có thể tùy nghi chọn hoặc thay thế bằng những bài hát khác thích hợp. Tập Sinh Hoạt “ĐẾN BÀN TIỆC THÁNH” đề nghị một số sinh hoạt cho mỗi đề tài giáo lý để GLV tùy nghi sử dụng. Các sinh hoạt cần thích hợp với ý chính của Tiết giáo lý và tâm lý các em.
b) Thực hành :
Để sống giáo lý, GLV cố gắng gợi ý giúp các em thực hiện một hành vi, một việc tốt thích hợp với bài giáo lý. Trong sách học viên, có ghi điều thực hành. Đây chỉ là đề nghị. GLV cần xem xét thực tế của môi trường và tâm lý để gợi lên những việc làm thiết thực.
c) Bài làm ở nhà :
Tùy hoàn cảnh, trình độ và điều kiện, GLV có thể đề xuất với các em một bài tập làm ở nhà, chẳng hạn tô hình ảnh của bài giáo lý hay đóng khung, tô màu điểm thực hành...
5. Kết thúc giờ giáo lý :
Khi hết giờ giáo lý, GLV căn dặn các em vài điều cần thiết về việc học bài, sống bài giáo lý...
Sau đó tất cả nghiêm trang đứng dậy tạ ơn Chúa với lời kinh ngắn (Sáng danh...) hay lời cầu tự phát.
GLV cũng nên tập cho các em biết chào GLV và GLV cũng vui vẻ chào lại.
Lời Chúa : “Phúc cho kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Ý chính : 1- Chúa chúc phúc cho những ai học Giáo lý (Lc 11,27-28) ;
2- Chính Chúa Giê-su dạy Giáo lý (Ga 3,2 và TH.DGL số 8) ;
3- Ích lợi của việc học Giáo lý (Ga 14,8-10).
Tâm tình : Sung sướng và cảm tạ vì được biết và sống trong gia đình có Thiên Chúa là Cha yêu thương và mọi người là anh chị em.
Chuẩn bị : - Nếu dạy Giáo lý trong lớp : Treo tượng chuộc tội nơi xứng đáng nhất,
- Dọn một bàn có trải khăn trắng, trên đặt gía sách có cuốn Thánh Kinh mở sẵn đoạn Lc 11,27-28. Nếu có thể, 1 bên đặt bình hoa, bên kia cây nến.
- Tranh : Tranh đầu tiên trong bộ tranh ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
- Các GLV vui vẻ, tươi cười đón tiếp từng phụ huynh (nếu có) và từng em vào lớp (vào địa điểm giáo lý), thăm hỏi phụ huynh các em về gia cảnh, làm quen với từng em cốt sao cho các em thấy mình được yêu thương và nhập cuộc với mọi người, mau chóng thoát khỏi tâm trạng sợ sệt, xa lạ ...
- Đến giờ, GLV chủ nhiệm chào các em và tự giới thiệu mình và các bạn GLV khác, nếu có. Cũng nên giới thiệu tổng quát các em học viên (Tổng số bao nhiêu, nam, nữ bao nhiêu), tuyên dương sự vui vẻ và vỗ tay chào nhau.
2. Thánh hóa :
GLV chủ nhiệm hướng dẫn các em đứng nghiêm trang, khoanh tay, mắt nhìn lên Tượng (nếu có), lên bàn Lời Chúa, làm dấu Thánh gía, cùng đọc kinh Lạy Cha.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Các em quý mến,
Hôm nay, trong buổi học đầu tiên này, Chị kể cho các em nghe câu chuyện về Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su nhé :
Khi Têrêsa còn nhỏ, cô bé rất thích được mẹ và các chị, cả vú đỡ đầu nữa, dạy cho biết về Chúa. Têrêsa thích theo mẹ đi nhà thờ để được dự lễ và ao ước mau lớn để được rước lễ như mẹ và các chị. Mỗi lần thấy mẹ rước lễ xuống, cô bé vội vàng đứng sát bên mẹ, cũng chắp tay, cũng cúi đầu như để hiệp thông với mẹ cám ơn Chúa. Cô bé thật là dễ thương, phải không các em ?
Cô bé sung sướng lớn lên trong một gia đình đạo đức thánh thiện, một gia đình mà ai cũng siêng năng đọc Kinh Thánh và học hỏi Giáo lý của Chúa. Vào mỗi buổi sáng khi thức dậy, Mẹ cô bé thường đến hỏi : “Têrêsa con của mẹ, con đã dâng mình cho Chúa
chưa ? Chúa Giê-su rất yếu con lắm”. Chính mẹ dạy cho Têrêsa cầu nguyện sáng tối. Và ngày nào cũng thế, chính mẹ lấy sách Giáo lý để hướng dẫn Têrêsa, cô bé chăm chú nghe mẹ nói và hay đặt câu hỏi để được mẹ trả lời. Tiếng đầu tiên cô bé nhớ nhất là “Thiên đàng”. Cô bé rất chăm học, ngày nào mẹ ngăn trở, cô đòi ba hay chị Pauline dạy cho. Têrêsa nói : “Ngay từ khi còn nhỏ, em thích học Giáo lý và Lịch sử của Hội thánh lắm. Đó là hai môn em ưa thích nhất, vì càng học, em càng yêu mến Chúa và Hội thánh hơn. Dầu còn nhỏ, nhưng nhờ học Giáo lý mà em thích làm đẹp lòng Chúa lắm, tới nỗi, khi ai bảo cho em biết làm điều nào không tốt, thì em sẽ không làm lần thứ hai điều đó nữa”.
Chị nghĩ rằng : không phải chỉ có cô bé Têrêsa yêu thích học Giáo lý, mà chắc chắn tất cả các em đây cũng rất ham thích học Giáo lý của Chúa, và như thế, các em cũng sẽ được Chúa yêu thương chúc phúc, như bài Tin Mừng do Thánh sử Lu-ca ghi lại.
(Mời các em đứng).
B. Công bố Lời Chúa :
Một GLV khác, nếu có, trịnh trọng bước lên trước bàn Lời Chúa nhận sách, hướng về các em và tuyên đọc :
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (Lc 11,27-28).
Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”
Đó là Lời Chúa.
Các em sốt sắng đáp : Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
Sau khi công bố Lời Chúa,GLV nghiêm trang đặt lại sách thánh trên bàn Lời Chúa. GLV chủ nhiệm thong thả nhắc lại Lời Chúa vừa tuyên đọc bằng ngôn ngữ phù hợp với trình độ hiểu biết vủa các em.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Chúa chúc phúc cho những ai học Giáo lý (x. Lc 11,27-28).
- Hôm ấy, Chúa Giê-su đang giảng dạy dân chúng, một bà nghe Chúa giảng hay quá, đã lớn tiếng khen rằng : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Thấy Chúa Giê-su giảng hay quá, thích quá, bà đã tìm về ngọn nguồn phúc đức là người mẹ.
- Mẹ của Chúa Giê-su là ai, các em ?
+ ... (Mẹ Ma-ri-a).
- Người đàn bà đó đã làm điều Chúa nói sau này : xem quả thì biết cây
(x. Mt 7,16) : Chúa Giê-su là quả, Mẹ Ma-ri-a là cây. Chúa Giê-su vừa chấp nhận lời khen của bà đó, vừa giới thiệu một cách thức đạt tới hạnh phúc lớn lao hơn. Đó là cách thức nào, các em ?
+ ... (Nghe và thực hành Lời Chúa).
- Muốn nghe và thực hành Lời Chúa thì phải làm gì, các em ?
+ ... (Phải học giáo lý).
- Hôm nay và từ nay, các em đến đây để làm gì ?
+ ... (Để học giáo lý).
- Chúa Giê-su có chúc phúc cho các em và cho chị khi chúng ta học giáo lý không ?
+ ... (Thưa có).
- Chúng ta có muốn được Chúa Giê-su chúc phúc không ?
+ ... (Thưa có).
- Muốn được Chúa chúc phúc, chúng ta phải làm gì ?
+ ... (Thưa phải học giáo lý).
- Các em có quyết tâm chăm chỉ học giáo lý không ?
+ ... (Thưa có).
- Chúng ta hứa với Chúa sẽ chuyên chăm học giáo lý nhé !
+ ... (Chúng em xin hứa).
2. Chính Chúa Giê-su giảng dạy Giáo lý (x. Ga 3,2 và TH.DGL. 8).
- Chị đố các em câu thứ hai nhé ! Khi chúng ta đi học giáo lý như hôm nay, ai dạy Giáo lý cho chúng ta nào ?
+ ... (Thưa chị dạy cho chúng em).
- Không phải đâu ! (GLV treo tranh Chúa Giê-su đang dạy các trẻ em mà cắt nghĩa hình rồi nói tiếp) : Vào một buổi tối nọ, ông già Ni-cô-đê-mô đến gặp Chúa Giê-su và thưa với Người (Mời các em đứng) : “Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng có ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy” (Ga 3,2).
(Mời các em ngồi).
- Ông già Ni-cô-đê-mô đã xưng tụng Chúa Giê-su là gì, các em ?
+ ... (Là Thầy, là tôn sư).
- Ông già Ni-cô-đê-mô không những gọi Chúa Giê-su là Thầy như bao thầy giáo khác, mà còn xưng tụng Chúa Giê-su là Tôn sư, tức là người Thầy đáng kính. Như vậy, ai là Thầy dạy giáo lý của chúng ta ?
+ ... (Thưa, Chúa Giê-su).
- Lần khác, một người thanh niên đạo đức đến thưa với Chúa Giê-su : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” (Mc 10,17) và rất nhiều lần khác, nhiều người đã gọi Chúa Giê-su là “Thầy” (x. Mt 8,19 ; 12,38 ; 22,16 ; Mc 4,38 ; 13,1 ; Lc 7,40 ; 9,38 ; ...). Chính Chúa Giê-su cũng đã xác nhận danh xưng và chức vụ đó : Sau khi rửa chân cho các Tông đồ, Chúa nói với các ông :“Anh em gọi Ta là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm vì quả thật Ta là Thầy, là Chúa.” (Ga 13,13). Vậy ai dạy Giáo lý cho các em ?
+ ... (Chúa Giê-su).
- Có phải là chị không ?
+ ... (Thưa không).
- Chính Chúa Giê-su dạy giáo lý cho các em đó. Còn chị, chị chỉ là người được Chúa sai đến qua Cha Xứ để thay Chúa giúp các em nghe chính Chúa dạy.
- Từ nay nếu có ai hỏi : Ai dạy Giáo lý, các em sẽ thưa thế nào ?
+ ... (Các em sẽ thưa chính Chúa Giê-su dạy giáo lý cho chúng em).
- Đúng vậy. Các em nhớ cầu nguyện cho chị biết nói đúng những điều Chúa muốn dạy các em nhé.
3. Ích lợi của việc học Giáo lý
(x. Ga 14, 8-10).
- Chị đố các em câu thứ ba nè, các em chú ý nghe câu hỏi để trả lời thật đúng. Em nào trả lời đúng, chị sẽ thưởng đấy : Các em học giáo lý để làm gì ?
+ ... (Để các em phát biểu, ghi nhận những ý đúng và nhớ phát thưởng cho những em trả lời đúng).
- Các em nghe chị nói nè : Hôm đó tại phòng Tiệc ly, khi Chúa Giê-su loan báo Người sẽ rời khỏi thế gian, các Tông đồ buồn sầu. Ông Philipphê nói : (Mời các em đứng).
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giê-su trả lời: ... Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha ... Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ?” (Ga 14, 8-10) (Mời các em ngồi).
Các em thấy đó, khi chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giê-su, lắng nghe lời Chúa Giê-su, học giáo lý với Chúa Giê-su thì ích lợi trước nhất là được biết Thiên Chúa là Cha, Người hằng yêu thương chúng ta như chúng ta sẽ nghe Chúa Giê-su dạy trong suốt những bài Giáo lý sau này.
- Như vậy ích lợi thứ nhất của việc học Giáo lý là gì ? Em nào nhắc lại ?
+ ... (Học giáo lý để biết Thiên Chúa là Cha yêu thương).
- Đố các em : Ích lợi thứ hai của việc học Giáo lý là gì ?
+ ...
- Các em vừa nói lúc nãy : Nhờ học Giáo lý, chúng ta biết Thiên Chúa là ai ?
+ ... (là Cha).
- Là Cha của ai ?
+ ...
- Có phải là cha của em A, em B ... của chị không ?
+ ...
- Như vậy Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta đều là con của Thiên Chúa. Các em có nhất trí không ?
+ ... (Nhất trí - giơ tay).
- Vậy chúng ta là gì của nhau ?
+ ... (Là anh chị em của nhau).
- Đúng rồi, chúng ta là anh chị em của nhau : Các em là em của chị và chị là chị của các em. Chúng ta là anh chị em của nhau ! Sung sướng không, các em ?
+ ...
- Chúng ta có Chúa là Cha yêu thương và mọi người là anh chị em của nhau! Chúng ta vỗ một tràng pháo tay thật kêu để mừng khám phá mới này (vỗ tay). Là anh chị em của nhau, nên từ nay, chúng ta có chửi nhau, đánh nhau không ?
+ ...
- Là anh chị em của nhau, chúng ta sẽ yêu thương nhau mà cụ thể, chị đề nghị với các em, chúng ta sẽ gọi bạn khác bằng “Chị”, bằng “anh” và xưng mình là “em”. Các em có nhất trí không ? (giơ tay nhất trí - vỗ tay). Chính Chúa Giê-su cũng đã dạy chúng ta như thế khi Người nói : ”Thầy của các ngươi chỉ có một, còn các ngươi đều hết thảy là anh em” (Mt 23,8). Em nào nhắc lại lợi ích thứ hai của việc học Giáo lý ?
+ ... (Học giáo lý để biết mọi người là anh chị của nhau).
- Đố các em : Học Giáo lý còn ích lợi nào nữa không ?
+ ...
- Các em vừa đăng ký vào học giáo lý cấp (khối) mấy đây ?
+ ... (Cấp I).
- Kết thúc của Giáo lý cấp I này, các em sẽ được lãnh nhận Bí tích nào ?
+ ... (Rước lễ lần đầu).
- Đúng rồi. Khi học hết cấp (Khối) I, những em nào học giỏi, ngoan, đạo đức, ... sẽ được Rước lễ lần đầu. Rước lễ là gì, có em nào biết không ?
+ ...
- Là đón nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su vào linh hồn để Chúa ở với các em, phù trợ, che chở các em và nhất là dẫn đưa các em đến hạnh phúc đời đời. Chính Chúa Giê-su đã dạy : (mời các em đứng) “Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống Máu tôi thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống.” (Ga 6, 53 - 55) (Mời các em ngồi).
- Nhờ học giáo lý, các em sẽ được rước lễ, đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúa Giê-su đã nói : ai ăn thịt và uống máu Người thì sẽ được điều gì?
+ ... (sống muôn đời và sống lại vào ngày sau hết).
- Đó là ích lợi thứ ba : Học Giáo lý để được rước lễ, nhờ đó sẽ được sống đời đời. Em nào có thể kể lại 3 lợi ích của việc học giáo lý ?
+ ... (Một là, nhờ học giáo lý, em được biết Thiên Chúa là Cha yêu thương - Hai là, nhờ học giáo lý, em được biết mọi người là anh chị em của nhau - Ba là, nhờ học giáo lý, em được rước Mình Máu Chúa Giê-su để được sống hạnh phúc muôn đời).
D. Cầu nguyện :
(GLV động viên các em sốt sắng cầu nguyện :)
Lạy Chúa, hôm nay ngày đầu tiên chúng con được gặp gỡ làm quen với nhau, nhất là được học biết Chúa là Cha yêu thương và mọi người là anh chị em với nhau. Chúng con sung sướng dâng lời tạ ơn Chúa. Xin dạy chúng con biết chuyên chăm học Giáo lý để yêu mến Chúa và sống tốt với mọi người. Amen.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
(GLV có thể củng cố bài để hình thành câu Giáo lý ngay sau khi diễn giải từng ý chính và Lời Chúa :)
“Phúc cho kẻ nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28).
01. H. Em học giáo lý để làm gì ?
T. Em học giáo lý để biết Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em.
02. H. Em biết như thế làm chi ?
T. Em biết như thế để mến Chúa, yêu người, cho ngày sau được hưởng phúc đời đời.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
(Ngay sau khi diễn giải từng ý chính của bài trong bước thứ hai trên đây, GLV đã có thể vận dụng bài hát, băng reo, hay câu hò... vừa để các em thư giãn, vừa giúp các em hiểu bài và áp dụng vào cuộc sống. Về bài hát, có thể tập cho các em hát “Bốn phương một nhà” cùng với băng reo thích hợp. - Xin xem trong tập Sinh hoạt).
2. Thực hành :
- Hồi nãy (lần trước) chúng ta đã biết khi học giáo lý, ai chúc phúc cho chúng ta.
+ ...
- Chúa Giê-su ban cho chúng ta phúc lành lớn hơn cả khi được cưu mang, bú mớm cho Chúa. Vì thế, chúng ta đã cùng nhau quyết tâm điều gì ?
+ Quyết tâm chăm học giáo lý.
- Hơn nữa, khi học giáo lý chúng ta được chính Chúa Giê-su giảng dạy và Người giảng dạy cho ta biết :
* Thiên Chúa là Cha quyền năng và yêu thương.
* Mọi người là anh chị em của nhau.
* Được rước Mình máu Thánh Chúa để được sống đời đời.
- Như vậy, chúng ta có quyết tâm chăm học giáo lý không ?
+ ... (có) (giơ tay nhất trí và vỗ tay để khắc sâu điều quyết tâm).
3. Bài làm ở nhà :
Để tỏ ra yêu thích giáo lý của Chúa, các em bao sách giáo lý và đi học về để sách giáo lý lên bàn thờ ở nhà em nhé.
V. KẾT THÚC.
(GLV có thể nhắc nhớ các em các ý chính trong bài và việc thực hành sống bài Giáo lý rồi mời các em đứng lên kết thúc với kinh Sáng danh và lời chào nhau).
Phần I : TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
Bài 1
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO TRỜI ĐẤT MUÔN VẬT
Lời Chúa : “Từ ban đầu Thiên Chúa sáng tạo trời và đất” (St 1,1).
Ý chính : 1. Thiên Chúa sáng tạo từ hư không nhờ Lời quyền năng.
2. Thế giới hữu hình.
3. Thế giới vô hình.
Tâm tình : Cảm tạ và chúc tụng Chúa, vì Người đã làm bao việc lạ lùng cho chúng ta.
Chuẩn bị : Tranh tạo dựng, động vật, hoa đẹp, trái ngon.
**********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (tương tự bài trước).
2. Thánh hóa :
Các em quý mến, cùng với Chúa Giê-su, chúng ta dâng lên Chúa Cha lời ca tụng và ngợi khen : Lạy Cha là Chúa tể trời đất, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã tạo dựng toàn thể trái đất đẹp đẽ này cho chúng con. Xin cho chúng con biết gìn giữ và làm cho trái đất này ngày càng đẹp hơn.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong bài mở đầu chúng ta đã thấy được Chúa chúc phúc khi học Giáo lý vì nhờ Học Giáo lý chúng ta biết Thiên Chúa là Cha quyền năng yêu thương, mọi người là anh chị em của nhau và được dẫn đến cuộc sống vĩnh hằng. Hôm nay, chúng ta bắt đầu vào bài 1 : Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trời vừa sáng, Dũng hăng hái chuẩn bị hành lý để cùng với các bạn trong lớp Giáo lý tới khu du lịch Đầm Sen sinh hoạt một ngày.
Sau khi mua vé vào cổng, Dũng và các bạn bắt đầu tung tăng trên những con đường nho nhỏ dẫn vào khu vực dành cho thiếu nhi, hai bên là những hàng cây xanh được cắt tỉa công phu lắm. Cả bọn cùng xúm lại một vườn thật đẹp, những cánh hoa hồng đủ màu mướt nhẹ như nhung, trên cánh còn đọng lại những giọt sương trong như pha lê. Bỗng Dũng reo lên và chỉ :
- Ô, kìa kìa, các bạn ơi, nhiều bướm quá, những cánh bướm sặc sỡ tuyệt với ! Ô, có cả chuồn chuồn nữa, chúng mình bắt đi.
- Không được đâu, coi chừng làm gẫy cây đó nghe. Này các bồ ơi, mình dẫn các bồ vô “thuỷ cung” nghe, trong đó có nhiều loại cá lắm.
Cả bọn đồng ý tiến bước qua vườn cây có lồng sắt, những chú chim đủ loại bay nhảy hót líu lo tạo cảm giác phấn khởi như những dạo khúc âm nhạc kỳ diệu.
Các bạn băng qua những con suối nhỏ để dẫn vào “thủy cung”, nơi có đủ mọi loại cá đại dương ! Thật tuyệt với, gần như đi vào giữa lòng biển. Các bạn cứ trợn tròn mắt vì vẻ đẹp muôn màu của biết bao loại cá ... Không ai muốn ra khỏi đó nữa...
Các em ơi, thế giới của chúng ta đẹp lắm, và có rất nhiều điều mà các em chưa biết. Nhưng tất cả bởi đâu mà có?
Để trả lời thích đáng, mời các em đứng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa (St 1,1-5)
Lời Chúa trong sách Sáng thế.
“Từ khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời và đất, Thiên Chúa phán : Hãy có ánh sáng và ánh sáng đã có. Thiên Chúa thấy ánh sáng thật tốt lành, và Thiên Chúa đã tách ánh sáng với tối tăm, và Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, còn tối tăm là đêm. Và đã có một buổi chiều và một buổi mai. Đó là ngày thứ nhất”.
Đó là Lời Chúa.
- Tạ ơn Chúa.
(Thinh lặng giây lát, GLV hướng ý :)
Cảm tạ Thiên Chúa là Cha rất quyền năng, ngay từ giây phút đầu tiên của việc tạo dựng, Chúa đã ban cho chúng ta ánh sáng, vì Chúa là ánh sáng. Chúng ta sẽ tiếp tục nghe sách Sáng Thế thuật lại công trình tạo dựng.
(mời các em ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Thiên Chúa sáng tạo từ hư không :
Lời Chúa mà các em vừa nghe, mới chỉ là 5 câu đầu trong đoạn dài của sách Sáng thế kể lại công trình sáng tạo trời đất muôn vật. Từ hư không Thiên Chúa đã làm nên tất cả : Người đã sáng tạo nên mặt trời soi sáng ban ngày, trăng sao tỏa sáng ban đêm, đất, biển, cỏ, cây, chim, cá, loài vật v.v... Thiên Chúa đã sáng tạo nên tất cả và tất cả đều tốt đẹp !
- Qua công trình sáng tạo này, các em thấy có nhiều điều kỳ diệu. Điều kỳ diệu thứ nhất, chị đố các em : Thiên Chúa lấy gì mà làm nên trời đất muôn vật ?
+ ... (GLV trố mắt nhìn các em, vừa để thu hút sự chú ý của các em, vừa để xem các em có thái độ nào ?)
- Các em có biết : muốn có cái bàn, cái ghế cho các em ngồi, bác thợ mộc cần phải có những gì ?
+ ... (gỗ, đinh, cưa, đục, bào, thước... )
- Muốn may cho các em chiếc áo đẹp, má phải có những gì ?
+ ... (vải, thước, kéo, chỉ, máy may...)
- Muốn tạo mặt trời, mặt trăng, tinh tú trên trời, Thiên Chúa phải có những gì ?
+ ...
- Muốn sáng tạo bầu trời, đất, biển ... Thiên Chúa phải có những gì ?
+ ...
- Muốn sáng tạo cây cối, chim, cá, muôn vật ... Thiên Chúa phải có những gì ?
+ ...
- Muốn sáng tạo tất cả những thứ đó, các em có biết Thiên Chúa phải có những gì không ?
+ ... (không).
- Điều kỳ diệu, khác với bất cứ ông thợ nào ! Khi sáng tạo, Thiên Chúa không cần vật tư gì cả ! Bởi không, Thiên Chúa đã làm nên có ! Không cần gì cả mà Thiên Chúa đã sáng tạo nên mặt trời, mặt trăng... và tất cả mọi loài ! Có ai làm được như thế không ?
+ ... (không).
- Có em nào làm được như Thiên Chúa không ?
+ ... (không).
- Vậy Thiên Chúa làm cách nào ?
+ ...
- Lời Chúa đã kể cho chúng ta đó : Thiên Chúa phán thế nào ?
+ ... (hãy có ánh sáng).
- Hãy có ánh sáng, tức thì liền có ánh sáng. Muốn có bầu trời, Thiên Chúa làm gì ?
+ ...
- Thiên Chúa phán : “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước để phân rẽ nước với nước” tức thì liền có bầu trời. Muốn có cây cối, Thiên Chúa làm gì ?
+ ...
- Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh thảo mộc xinh tươi và cây trên mặt đất có trái” tức thì liền có như vậy ! Kỳ diệu không các em ?
+ ...
- Và tất cả muôn vật đều được Chúa sáng tạo theo kiểu đó : Hãy có, liền có. Thiên Chúa chúng ta thờ có quyền năng không, các em ?
+ ... (thưa chị, có).
- Chúng ta cùng nhau tuyên dương Chúa quyền năng bằng tràng pháo tay thật kêu nào (vỗ tay) (GLV hát biểu diễn cùng với vũ điệu bài “Thiên Chúa tạo dựng” - số 13 sách hát ĐBTT cũ tr. 9).
- Chính vì Thiên Chúa làm được những điều kỳ diệu như thế nên chúng ta không nói Thiên Chúa chế tạo, như nhà máy Bitis chế tạo giầy dép, nhà máy Cogido chế tạo giấy, mà nói Thiên Chúa sáng tạo, nghĩa là Thiên Chúa tạo dựng muôn vật từ hư không vì Thiên Chúa tạo dựng nhờ Lời quyền năng - Sau này các em sẽ còn dịp học biết khi nói Lời quyền năng chúng ta muốn nói gì.
- Qua tiết học hôm nay, các em đã cùng chị tuyên xưng rằng : Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật / từ hư không / nhờ Lời quyền năng.
- Đó là điều kỳ diệu thứ nhất. Chị đố các em điều kỳ diệu thứ hai : Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật để làm gì ?
+ ...
- Có phải để khoe tài không ?
+ ...
- Có phải để Thiên Chúa hưởng dùng cho sướng không ?
+ ...
- Thiên Chúa sáng tạo nên mặt trời để làm gì, các em ?
+ ...
- Để soi sáng ban ngày, không những soi sáng mà còn để giúp cho sự sống của chúng ta. Không có ánh sáng mặt trời, chúng ta sẽ xanh xao, gầy guộc. Thiên Chúa sáng tạo nên khí trời để làm gì ?
+ ...
- Để nuôi dưỡng sự sống muôn loài. Các em không thở, có sống được không ?
+ ... (không).
- Hàng ngày chúng ta ăn gì vậy ?
+ ... (cơm).
- Các em biết cơm từ hạt lúa do cây lúa đâm bông mà Thiên Chúa đã sáng tạo từ xưa. Các em có thích ăn trái cây không ? (chuối - cam - xoài ... ?)
+ ...
- Trái cây đó từ đâu mà có ?
+ ...
- Từ cây cối do Thiên Chúa sáng tạo. Như vậy, Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật để làm gì ?
+ ...
- Để phục vụ con người, phục vụ các em, phục vụ chị và mọi người. Như thế, có nghĩa là Thiên Chúa có yêu thương chúng ta không ?
+ ... (có).
- Đây là điều kỳ diệu thứ hai chúng ta khám phá hôm nay : Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật vì yêu thương loài người chúng ta. Được Thiên Chúa yêu thương như vậy, chúng ta phải có thái độ nào ?
+ ... (cảm tạ Thiên Chúa).
- Đúng rồi, chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa đã yêu thương ta mà sáng tạo trời đất muôn vật. Để cảm tạ Thiên Chúa, chúng ta không phá hoại công trình Thiên Chúa đã sáng tạo, cụ thể, khi đi qua vườn cây, vườn hoa, nhất là những cây kiểng chung quanh nhà thờ và nhà riêng, các em có bứt lá, bẻ cành không ?
+ ... (không).
- Trái lại, mỗi khi nhìn cảnh vật thiên nhiên, em biết ca tụng Chúa.
2. Thiên Chúa sáng tạo thế giới hữu hình (Tv 104, 24-28 ; Tm 4,4).
Trong phần trên (tiết trước) chúng ta đã được lời Chúa dạy cho biết Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật. Mời các em đứng cùng đọc với chị (anh) câu đầu của kinh Tin kính :
“Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng,
Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình”.
Mời các em ngồi, các em trả lời chị (anh) :
- Trời đất muôn vật do đâu mà có ?
+ ... (do Thiên Chúa sáng tạo).
- Em nào cho cả lớp nghe Thiên Chúa đã sáng tạo những vật nào ?
+ ... (GLV khuyến khích mỗi em kể ra ít nhất một tạo vật).
- Tất cả những tạo vật ấy, các em có thấy không ?
+ ...
- Đến gần, các em có sờ được không ?
(GLV giúp các em vận dụng các giác quan để khám phá thế giới hữu hình).
+ ...
- Tất cả những tạo vật ấy và các tạo vật khác tương tư như mặt trời, mặt trăng, tinh tú... được gọi chung là THẾ GIỚI HỮU HÌNH. Hữu là có, hình là hình ảnh, hình thể, có kích thước, có thể xem, nghe, sờ, đụng, ngửi, quan sát, khảo sát được.
- Trong phần trên (tiết trước), chúng ta đã khám phá được mấy điều kỳ diệu rồi ?
+ ... (GLV động viên các em phát biểu những điều kỳ diệu đã khám phá).
- Khi các em lên cấp II giáo lý (Thêm sức), các em sẽ biết điều kỳ diệu thứ ba là Thiên Chúa chăm sóc và hướng dẫn mọi loài thụ tạo để vũ trụ tiến dần đến mức hoàn hảo. Đó là sự quan phòng.
3) Thiên Chúa sáng tạo thế giới vô hình. (Mt 18,1-3.10 ; Lc 2,8-14 ; Cv 12,6-11 ; Kh 12,7-9 ; Tb 5,4 ;...).
Có lẽ các em cảm thấy niềm vui khi học về thế giới hữu hình vì các em như thấy được, sờ được và cảm thấy Thiên Chúa yêu thương, khi ban tặng cho chúng ta mọi tạo vật trong thế giới này. Hôm nay, chúng ta còn khám phá ra một loài thụ tạo khác mà chúng ta không thấy được, không sờ được, mời các em đứng lên nghe lời Chúa :
Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời ?” Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo : “Thầy bảo thật anh em : nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
“Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; Quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,1-3.10) .
(Thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
Trong đoạn Tin mừng này, Thầy Giê-su của chúng ta đã cho chúng ta biết về một thế giới, khác với thế giới hữu hình của chúng ta : thế giới vô hình - Vô là không, hình là hình ảnh, hình thể. Thế giới đó không có vật chất. Đó là các thiên thần. Đây là điều mới lạ và khó hiểu đối với các em, chúng ta sẽ từng bước nhận biết qua những năm học giáo lý và đọc Kinh thánh.
(GLV có thể minh hoạ câu chuyện Tổng sứ thần Raphael giúp Tobia đi đòi nợ (Tb 5,1-22) hoặc chữa mắt cho cha già (Tb 6,1-9.11,1-8.12,6-21).
Kinh Thánh không kể cho chúng ta biết Thiên Chúa sáng tạo các thiên thần khi nào, bằng cách nào. Nhưng Kinh Thánh nói rất nhiều lần đến các thiên thần.
Các ngài được Thiên Chúa sai đến trần gian để làm các công việc của Thiên Chúa. Những vị được sai đi làm những công việc lớn thì gọi là Tổng thiên thần như Tổng thiên thần Ra-pha-el được sai đến để dẫn đường cho To-by-a, giúp chàng cưới vợ và chữa mắt cho cha già To-by-a, hoặc như Tổng thiên thần Ga-bri-el được sai đến để truyền tin cho Đức Ma-ri-a v.v... Mỗi người chúng ta cũng được một thiên thần giúp đỡ phù trợ, gọi là thiên thần bản mệnh.
- Khi học bài, các em có muốn ai giúp các em không ?
+ ... (có)
- Khi đi học, các em có muốn có người đưa các em đến trường không ?
+ ... (có).
- Khi làm việc gì khó khăn, các em có muốn ai cộng tác với các em không?
+ ... (có).
- Cả khi chơi, các em có muốn có bạn chơi cùng không ?
+ ... (có).
- Trước khi các em muốn như vậy, thì Thiên Chúa, Cha của chúng ta, đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta rồi, đó là các thiên thần ! Sung sướng không các em ? Các em thấy Thiên Chúa có thương yêu chúng ta không ?
+ ... (có).
Được Thiên Chúa là Cha yêu thương gửi cho chúng ta những người bạn tốt, các thiên thần, nhất là thiên thần bản mệnh, luôn ở với chúng ta, và cùng tôn thờ Thiên Chúa với chúng ta. Các em nên tập thói quen cầu nguyện với thiên thần bản mệnh. Tối trước khi đi ngủ, em nhớ xin thiên thần bản mệnh gìn giữ em được ngủ an lành. Khi thức dậy, em hãy cùng thiên thần cảm tạ Thiên Chúa, xin Thiên Chúa là Cha yêu thương chúc lành cho ngày mới. Và ngay bây giờ, các em cùng chị (anh) sung sướng và sốt sắng cầu nguyện :
(mời đứng).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, Chúa cao cả và tốt lành. Chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã dựng nên trời đất muôn vật, và ban cho chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết ca tụng Chúa và biết dùng mọi vật theo ý Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Từ ban đầu Thiên Chúa sáng tạo trời và đất” (St 1,1).
03. H. Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng điều gì về Thiên Chúa sáng tạo ? (GLCG.39)
T. Ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình.
04. H. Thiên Chúa đã sáng tạo muôn vật cách nào ? (GLCG.40)
T. Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng của Người mà sáng tạo mọi sự từ hư không. Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được như vậy.
05. H. Thế giới hữu hình là gì ? (GLCG.41)
T. Là mọi loài thụ tạo mà ta thấy được, trong đó con người là chóp đỉnh. Tất cả những gì Thiên Chúa đã sáng tạo đều tốt đẹp và có liên hệ mật thiết với nhau (x. St 1,31).
06. H. Thụ tạo vô hình là loài nào ? (GLCG.42)
T. Là các thụ tạo thiêng liêng không có thể xác, gọi là thiên thần. Các ngài được tạo dựng để phụng sự Thiên Chúa và giúp đỡ loài người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : (tương tự bài Mở đầu)
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại điều thực hành các em đã nhất trí ở trên :)
Mỗi khi nhìn cảnh vật thiên nhiên em ca tụng Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
(GLV hướng dẫn bài làm ở nhà chẳng hạn hỏi ba mẹ hay anh chị một câu chuyện về thiên thần).
V. KẾT THÚC.
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ và muôn vật, mọi sự đều rất tốt đẹp, để nói lên Thiên Chúa là Đấng tốt lành và hoàn hảo vô cùng. Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả cho con người. Chúa tặng ban thế giới này cho chúng ta như một món quà quý giá. Chúa cũng sai Thiên Thần của Chúa đến ở với mỗi người chúng ta, và giúp chúng ta sống tốt.
Cầu chúc các em luôn biết chăm chỉ làm việc tốt để góp phần tô điểm vũ trụ thêm xinh đẹp hầu làm vinh danh Chúa.
Sáng danh …
Bài 2
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI
Lời Chúa : “Thiên Chúa phán : Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh của Ta và để cho họ làm chủ trên mặt đất” (St 1,26).
Ý chính : 1. Thiên Chúa tạo dựng loài người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26).
2. Sự cao trọng của con người (Tv 8 ; Cv 17,28-29 ; Ga 4,11).
3. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa. (Mt 4,10).
Tâm tình : Vui mừng vì được Chúa yêu thương và ao ước nên giống Chúa.
Chuẩn bị : Tranh số 6 (bộ tranh ĐBTT cũ).
*********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài 1)
2. Thánh hóa :
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Cha đã quá yêu thương loài người, và đã tạo dựng loài người giống hình ảnh Cha. Chúng con rất vui mừng và cám ơn Cha. Xin Cha chúc lành cho chúng con trong giờ học này.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong thế giới hữu hình mà Thiên Chúa sáng tạo, có con người. Con người là nội dung của bài học hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Mô#t hôm cô giáo lớp Lá hỏi các cháu :
- Các con có biết trong gia đình, má thương ai nhất không ?
Như có phản xạ tự nhiên của tuổi thơ, các cháu giơ tay hầu hết, mọi con mắt đều hướng tới cô giáo để được cô gọi tên.
Cô mời bạn Bi :
Bi hân hoan đứng và nói lớn tiếng :
+ Thưa cô,ở nhà má thương Bi nhất.
- Tại sao má thương Bi nhất ?
+ Tại vì ai cũng nói Bi có con mắt giống má, và có khuôn mặt giống ba.
Cô cám ơn con ! Cô biết tất cả các bạn trong lớp đều có câu trả lời tương tự như bạn Bi, vì tất cả các con đều được cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi người đều có những nét giống cha hay giống mẹ. Chính vì thế cha mẹ rất yêu thương các con.
Sau khi nghe cô giáo nói, mấy nhỏ lanh trí liền hát bài ca dí dỏm dễ thương : cũ, để Thiên Chúa đưa chúng ta vào sự sống mới của Chúa Giê-su tức là sống trong ơn thánh. Vì thế, Bí tích Rửa tội còn gọi là Phép Rửa Tái Sinh, tức là làm cho sinh lại. Các em đã được Rửa tội chưa ?
+ ... (rồi).
- Nhờ Bí tích Rửa tội, các em đã được tham dự vào đời sống mới của Chúa Giê-su, các em được làm con Thiên Chúa, mỗi người đều là anh em với nhau. Các em nghĩ các em phải sống thế nào ?
+ ...
- Chúng ta phải quyết tâm xa lánh dịp tội, để sống cho Thiên Chúa, sống cho Đấng đã cứu mình khỏi chết, bằng cách sống tốt với mọi người và sống như Chúa Giê-su đã làm gương.
(GLV nên gợi ý giúp các em tìm ra những việc tốt, người tốt, thích hợp với lứa tuổi của các em, để các em có thể thực hiện trong nếp sống mới)
Xin kể cho các em nghe một mẫu người thực sự được đổi mới nhờ Đấng phục sinh :
Ông Sao-lô một người rất căm ghét Chúa Giê-su, ông tình nguyện đi bắt những người theo Chúa. Đang khi ông hùng hổ phóng ngựa săn lùng những Ki-tô hữu, ông bị Chúa phục sinh quật ngã trên đường đến Đa-mas ! Ông bàng hoàng sợ hãi vì tiếng hỏi từ cao vọng xuống : “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta ?” (x. Cv 9,1-19). Ông sấp mình tạ tội và sẵn sàng vâng lời Chúa. Ông đã thay đổi hẳn đời sống, từ chỗ thù địch với Chúa, ông đã trở thành môn đệ nhiệt thành rao giảng Tin mừng Chúa Giê-su phục sinh. Ông đã sống đời sống mới thật sự và trở thành vị thánh tức là thánh Phao-lô tông đồ. Thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm sâu xa để dạy chúng ta : mỗi người phải chết đi cho tội để chỉ sống cho Thiên Chúa, Phao-lô đã trở thành người mới như ngài nói : “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mỗi người chúng ta đều đã được Chúa đưa vào đời sống mới qua Bí Tích Rửa Tội, nhưng chúng ta có sống theo sự hướng dẫn của Chúa hay không ? ví dụ : hôm nay là sáng Chúa nhật, bên ngoài trời lạnh, nằm trên giường ấm áp hơn, em muốn ngủ thêm - nhưng không, em chỗi dậy ngay để đi lễ với các bạn, đó là điều đẹp lòng Chúa ...
- Ý nghĩa thứ hai của sự sống lại nơi Chúa Giê-su là gì, chị (anh) đố các em ?
+ ...
- Thánh Phao-lô tông đồ nói : “Nếu Chúa Giê-su đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi là trống rỗng và cả đức tin của anh em là vô ích” (1 Cr 15,14).
Các em biết tại sao thánh Phao-lô lại nói thế không ?
+ ...
Vì nếu Chúa Giê-su không sống lại thì lấy gì bảo đảm cho thân xác chúngta được sống lại ? Và nếu Chúa Giê-su không sống lại, thì chúng ta chết là hết thôi, tội gì mà chúng ta phải hy sinh, phải chịu khó vì có gì đằng sau cái chết đâu !? Nhưng không, qua bài học hôm nay, các em đã học, các em đã tin : Chúa Giê-su đã sống lại thật. Chúa chính là người đầu tiên từ cõi chết sống lại thật. Chính Chúa khơi nguồn và bảo đảm cho sự sống lại sau này của thân xác chúng ta.
Các em sẽ được sống lại với Chúa, nếu ngay từ bây giờ, trong từng phút giây của ngày sống, các em luôn sẵn sàng hy sinh chết đi cho tội lỗi và sống cho Chúa. Các em đừng bỏ lỡ cơ hội này nhé.
3. Chúa Giê-su lại đến.
(Cv 1,11 ; Mt 16,27).
(GLV treo tranh 21 ĐBTT cũ và diễn giải).
Suốt 40 ngày sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra nhiều lần để thăm viếng, an ủi và dạy dỗ các môn đệ. Cuối cùng Chúa đã sai các ông đi rao giảng Tin mừng để cho mọi người nhận được ơn cứu độ. Một hôm môn đệ lên núi Chúa đã truyền trước đây tại Galilê, Chúa Giê-su tỏ lòng yêu thương các môn đệ lắm, Chúa giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang lúc đó, Chúa Giê-su rời khỏi mặt đất và cứ từ từ lên cao khuất dần vào đám mây, các môn đệ như bị cuốn hút theo bóng Thầy, các ông nhìn không chớp mắt.
(x. Mt 28,10-20).
Các em thân mến,
Chúa Giê-su đã về trời, nhưng Chúa Giê-su luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Hội thánh của Người, và việc Chúa lên trời là niềm vui cho mỗi người chúng ta, vì Chúa đi dọn chỗ cho chúng ta đó.
Đang khi các môn đệ nhìn theo Chúa về trời, bỗng có hai người mặc áo trắng đẹp lắm, nói với các ông : “Kìa những người Galilêa, sao còn cứ ngước mắt lên trời làm chi vậy ! Chúa Giê-su, Đấng vừa bỏ các ông đã được rước lên trời thế nào thì cũng sẽ ngự đến cách oai nghi như các ông đã thấy Người hôm nay” (Cv 1,9-11).
Các môn đệ giật mình vì tiếng nói đó, các ông nhìn nhau và xuống núi tụ họp nhau lại để cầu nguyện.
Trong câu chuyện của sách Công vụ mà các em vừa nghe chị (anh) kể, thì hai người mặc áo trắng đã nói cho các môn đệ biết rằng : “Một ngày kia Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang”.
- Ngày Chúa trở lại trong vinh quang là ngày nào ?
+ ...
Đó là ngày tận thế, tức là ngày tận cùng, ngày cuối cùng của thế giới, không ai còn làm được việc gì nữa, vì đó là ngày kết thúc chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta còn gọi đó là ngày phán xét chung, vì Chúa Giê-su sẽ đến phán xét công khai, việc tốt cũng như việc xấu của tất cả mọi người, từ Adam - Evà cho tới những người sống vào giờ phút cuối cùng, để mọi người nhận ra sự công bình và tình yêu thương của Thiên Chúa.
- Các em có tin rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại thế giới này không ?
+ ... (có).
- Em nào nhớ trong kinh tin kính chúng ta đọc trong thánh lễ, có câu nói về việc Chúa Giê-su trở lại
+ ... (“ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”).
Đúng, chúng ta tin vì chính Chúa Giê-su đã báo cho biết trước : Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang của Chúa Cha, cùng với thiên thần để thưởng phạt tùy công việc của mỗi người (x. Mt 16,2).
Chúa Giê-su còn dùng cả những câu chuyện dễ hiểu để nói về ngày Chúa trở lại : Chúa sánh ví mình như một ngư phủ tung lưới xuống biển cả, ông bắt hết mọi thứ cá, con to con nhỏ, rồi kéo lên bờ, ông ngồi chọn cá tốt bỏ vào giỏ, cá xấu ném ra ngoài. Và Chúa Giê-su giải nghĩa : đến ngày tận thế, các thiên thần sẽ xuất hiện mà tách biệt người tốt với kẻ xấu như vậy đó. (x. Mt 13,47-49).
- Các em ơi, các em muốn thuộc loại người tốt hay người xấu ?
+ ... (tốt).
Vậy thì chúng ta phải chuẩn bị ngay từ bây giờ bằng chính cuộc sống của mình nhé.
(Nếu thời giờ rộng rãi, GLV có thể kể câu chuyện vui sau :)
Chuyện kể rằng : trong triều đình của một hoàng đế rất giàu sang, có một anh hề được nhà vua yêu thích. Với những trò hề và những câu nói dí dỏm thông minh, anh đã làm thư giản hoàng triều và giúp vui cho mọi người. Ngày kia, nhà vua gọi anh lại và trao cho anh phủ việt bằng vàng nói : “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi tìm được một tên hề ngây ngô ngốc ngết hơn ngươi, và ngươi có thể tặng làm quà cho hắn”.
Mấy năm sau, vua lâm trọng bệnh. Biết mình cũng sắp qui tiên vua cho gọi anh hề lại, thân mật nói :
- Ngươi biết không, ta sắp phải lên đường bắt đầu một cuộc hành trình thật dài thật xa.
- Tâu hoàng thượng, khi nào hoàng thượng trở về ?
- Ta đi và sẽ không bao giờ trở lại.
- Thế hoàng thượng đã chuẩn bị gì cho cuộc hành trình này chưa ?
- Rất tiếc là ta chưa chuẩn bị gì !
Anh hề cười hóm hỉnh lễ phép tâu :
Đây hạ thần xin trả lại thủ việt cho hoàng thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người khác ngây ngô ngốc ngết hơn hạ thần rồi, người đó chính là hoàng thượng !
Câu chuyện vui mà các em vừa nghe giúp cho các em hiểu :
Người không biết chuẩn bị cuộc sống để sẵn sàng gặp gỡ Chúa, đó là người ngây ngô ngốc ngếch nhất.
Cầu chúc các em luôn sống ngoan, sống tốt, sống vui với mọi người, nhất là với những bạn nghèo, những bạn tật nguyền không được may mắn như các em. Vì phần phúc ưu tiên trong ngày Chúa trở lại sẽ dành cho những ai sống yêu thương (x. Mt 25,40).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con ca mừng Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, Chúa về Thiên đàng hưởng vinh quang bên Chúa Cha, và cũng để dọn chỗ cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống tốt lành, ngoan ngoãn để sau này được sống lại và về trời với Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
“Chúa Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi ; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Is-ra-el ơn sám hối và ơn tha tội”(Cv 5,30-31).
21. H. Sau khi Chúa Giê-su chết và được mai táng trong mồ, điều kỳ diệu gì đã xảy ra ? (GLCG.88)
T. Sau khi chết chưa đủ ba ngày, Chúa Giê-su đã sống lại như Người đã báo trước.
22. H. Sự sống lại của Chúa Giê-su có ý nghĩa nào đối với chúng ta ? (GLCG.93)
T. Sự sống lại của Chúa Giê-su có nhũng ý nghĩa này :
- Một là mở lối cho chúng ta bước vào sự sống mới.
- Hai là khơi nguồn và bảo đảm sự sống lại sau này của chúng ta.
23. H. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su làm gì ? (GLCG.94)
T. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày rồi Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha.
24. H. Chúa Giê-su còn đến thế gian nữa không ? (GLCG.97)
T. Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
GLV nhắc lại nội dung bài, nhấn mạnh vào cuộc trở lại của Chúa Giê-su để phán xét mà gợi ý cho các em nhất trí thực hiện : em nhất quyết chừa tội để được sống với Chúa luôn.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi vào tập bài làm những lầm lỗi đã phạm trong tuần này và thái độ của em đối với tội đó.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến,
Qua những giờ học vừa qua, chúng ta cảm thấy niềm vui phấn khởi vì Chúa Giê-su đã sống lại thật. Đó là phép lạ lớn nhất minh chứng Chúa là Thiên Chúa.
Chúa Giê-su đã sống lại thật, Người chiến thắng tội lỗi và sự chết, để đưa con người vào đời sống mới trong ân sủng.
Và Chúa Giê-su vẫn trở lại với chúng ta trong thánh lễ, khi truyền phép Thánh Thể. Đó chính là Chúa chuẩn bị cho các em có đủ điều kiện đón Chúa trong ngày Rước lễ lần đầu và trong ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Chúng ta cùng cảm tạ và cầu xin :
Sáng danh ....
(chào nhau).
Lời Chúa : “Thánh thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).
Ý chính : 1. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ? (Ga 15,26 ; Lc 3,22).
2. Chúa Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giê-su (Lc 3,22 ; Mt 4,1).
3. Chúa Thánh Thần xây dựng Hội thánh (Cv 2,1-47).
4. Thái độ đối với Chúa Thánh Thần (1 Cr 3,16-17 ; Ep 4,30 ; Gl 5,25).
Tâm tình : Vui mừng cảm tạ và luôn tin theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Chuẩn bị : Tranh số 23,24,25 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài 1).
2. Thánh hóa :
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi về Chúa Thánh Thần, Người là Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng được Cha sai đến để thánh hóa con người. Tất cả chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa bài hát này : “Lạy Chúa xin ban xuống trên chúng con thần trí tác tạo...
3. Giới thiệu bài mới :
(tương tự như bài trước).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
- Chị hỏi các em câu này nhé : chắc trong các em có nhiều người đã tham dự những cuộc chơi vui thật là vui. Các em hãy nhớ xem, để cuộc chơi tốt đẹp thì cần có những gì ?
+ …
(GLV lắng nghe và tóm lại trong ý tưởng chính này :)
Cần có người hướng dẫn, điều động, tạo bầu khí và giải thích cho mọi người hiểu ý nghĩa và luật chơi.
(GLV có thể vận dụng hình ảnh ông huấn luyện viên của các đội túc cầu trong các cuộc tranh giải).
Tương tự như thế, khi chúng ta sống trong gia đình Thiên Chúa - vì chúng ta là con một Cha trên trời - Chúa Giê-su cũng muốn cho gia đình của Thiên Chúa được tràn niềm vui hạnh phúc, nên Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần cho Hội thánh, cho tất cả chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ điều động nếp sống mới của gia đình Thiên Chúa để mọi người đón nhận được Tin mừng cứu độ.
Mời các em đứng và lắng nghe Lời Chúa Giê-su nói với các tông đồ, cũng là nói với chúng ta :
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 15,26)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Khi Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(GLV hướng ý :)
Tình yêu Chúa Giê-su luôn luôn ở với chúng ta bằng chính Thánh Thần của Người. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn ngoan thảo vâng nghe lời Thánh Thần hướng dẫn.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ? (Ga 15,26 ; Lc 3,22)
- Các em có thuộc kinh tin kính chúng ta vẫn đọc ngày Chúa nhật không ? Những bạn nào thuộc xin giơ tay ?
(GLV có thể chọn 4 em mỗi em một câu tiếp nối nhau, sau đó sẽ mời cả lớp đọc chung để nhờ đó các em dễ thuộc hơn).
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống.
Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra
Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con
Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”.
Dựa theo lời tuyên xưng của Hội thánh, chúng ta cùng tìm hiểu :
- Chúa Thánh Thần có phải là Thiên Chúa không ?
+ ... (phải).
- Chúa Thánh Thần bởi đâu mà ra ?
+ ... (bởi Chúa Cha và Chúa Con)
- Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ mấy ?
+ ... (Ngôi thứ ba).
- Chúng ta có phải thờ phượng Chúa Thánh Thần như Chúa Cha và Chúa Con không ?
+ ... (có).
- Tại sao ?
+ ... (vì Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa).
- Chúa Thánh Thần có cùng bản tính như Chúa Cha và Chúa Con không ?
+ ... (có).
- Chúa Thánh Thần có cùng quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con không ?
+ ... (có).
(GLV có thể treo tranh số 24 ĐBTT cũ, kể câu chuyện ngày lễ Ngũ tuần để củng cố niềm tin của các em vào Chúa Thánh Thần nhưng không đi quá xa).
2. Chúa Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giê-su (Lc 3,22 ; Mt 4,1).
(GLV nên có bản đồ Palestina để chỉ cho các em).
Các em thân mến,
Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, ta không thấy Người. Nhưng ta có thể thấy hoạt động của Người.
Trước tiên, hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giê-su. Thánh Lu-ca đã cho ta thấy một trong những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giê-su như sau, mời các em đứng nghe Lời Chúa : (Lc 3,21-22).
“Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Chúa Giê-su cũng chịu phép rửa ; sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
(thinh lặng một phút - GLV :)
Chúa Thánh Thần đã luôn hướng dẫn mọi hoạt động của Chúa Giê-su, như Kinh Thánh đã ghi lại một số lần :
* Tại Na-da-rét khi sứ thần Gabriel báo tin cho Đức Ma-ri-a sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ rất khiêm tốn nghĩ rằng : việc ấy không thể xảy ra được. Nhưng khi nghe sứ thần nói : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và Quyền Năng Đấng Tối Cao sẽ phủ trên Bà” thì Đức Mẹ đáp lại bằng tiếng “xin vâng”. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai và sinh hạ Chúa Giê-su.
* Khi bước vào cuộc đời công khai, lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giordan, Chúa Thánh Thần đã xuất hiện dưới hình gì ?
+ ... (Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình dáng chim bồ câu, đỗ xuống trên Chúa Giê-su).
* Trước khi đi rao giảng Tin mừng Nước Trời thì cũng chính Chúa Thánh Thần đem Chúa Giê-su vào sa mạc 40 ngày để ăn chay cầu nguyện và chịu cám dỗ (Lc 4,1).
* Sau khi Chúa chiến thắng cám dỗ thì Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, tức là soi sáng trong tâm hồn, trong trí khôn, để trở về miền Galilêa rao giảng Tin mừng (Lc 4,14).
* Một hôm, Chúa vào Hội đường Na-da-rét, được mời lên đọc sách Thánh, Chúa Giê-su cầm sách mở ra thì gặp ngay câu :
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong cho tôi, để loan báo Tin mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,16-18).
Và Chúa Giê-su đã nói cho cả Hội đường biết : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”.
- Khi đi giảng đạo, dân chúng ngạc nhiên lắm, vì Chúa Giê-su nói như một người có quyền năng chứ không như những thầy luật sĩ của họ. Rồi thấy Chúa Giê-su làm phép lạ chữa nhiều bệnh tật, cho người chết sống lại... Các em có biết tại sao không ?
+ ...
Vì Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho Chúa Giê-su cách vô ngần vô hạn (x. Ga 3,34) nghĩa là luôn luôn dư tràn, không một phút giây nào trong đời sống của Chúa Giê-su mà không có Thánh Thần tác động. Chính Thánh Thần đã nâng đỡ Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn và dẫn đưa Chúa Giê-su tới sự phục sinh vinh hiển.
Các em nhớ nhé, trong bài học này, chúng ta ghi nhận : Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống của Chúa Ki-tô từ khi Nhập thể cho đến khi Phục sinh.
3. Chúa Thánh Thần xây dựng Hội thánh (Cv 2,1-47).
Sau khi Chúa Giê-su về trời, mặc dầu đã tin Chúa sống lại, nhưng các tông đồ vẫn sợ. Các ông co cụm trong nhà Tiệc ly. Tất cả các cửa đóng lại vì sợ người Do Thái. Hôm đó, thình lình có một tiếng động như cơn gió mạnh lùa vào nhà. Và có hình tựa như lưỡi lửa ngự trên đầu các tông đồ. Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Họ bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng và ca tụng Chúa.
Họ cảm thấy có một sức mạnh ở trong lòng họ. Họ tràn đầy niềm vui và bình an. Họ đã làm những điều mà trước kia họ sợ và không dám làm : Họ mở tung cửa nhà ra và đi nói về Chúa Giê-su cho mọi người.
Phê-rô đứng trước cổng và nói với đám đông. Mọi người im lặng lắng nghe.
Phê-rô nói : Thưa các bạn, tôi muốn nói với các bạn về Chúa Giê-su. Người luôn làm điều tốt cho mọi người, nhưng Người đã bị các nhà lãnh đạo của chúng ta kết án tử hình. Người đã chết và đã được mai táng, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Các bạn hãy tin vào Chúa Giê-su. Hãy sửa đổi đời sống để nhận ơn Chúa Thánh Thần.
Nhiều người đã xúc động khi nghe Phê-rô giảng. Hơn ba ngàn người tin theo Chúa Giê-su và được rửa tội.
(x. Cv 2,14-41)
- Chúa Thánh Thần đã ban cho các tông đồ ơn can đảm khác thường : khi các thượng tế và kỳ lão ra lệnh cho các ông không được rao giảng về Chúa Giê-su khổ nạn và phục sinh, các tông đồ đã thẳng thắn trả lời : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,19-20).
- Chúa Thánh Thần tác động nơi thầy phó tế Stê-pha-nô khiến ông can đảm rao giảng Tin mừng và sẵn lòng chịu chết (x. Cv 6.8-60).
- Chúa Thánh Thần sai Phi-lip-phê đuổi kịp viên thái giám để rao giảng về Chúa Ki-tô và rửa tội cho ông (x. Cv 8,26-40).
- Còn rất nhiều hoạt động nữa của Chúa Thánh Thần để xây dựng Hội thánh. Có thể nói Chúa Thánh Thần là hồn sống của Hội thánh và cuốn sách Công vụ tông đồ là sách Tin mừng về Chúa Thánh Thần. Không chỉ lúc ban đầu mà suốt thời gian từ khi Chúa Giê-su về trời cho đến hôm nay và cho đến tận thế. Chúa Thánh Thần vẫn hằng xây dựng Hội thánh bằng cách ban sức sống cho Hội thánh, hợp nhất các tín hữu nên một và thúc đẩy Hội thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Ki-tô giao phó.
4. Thái độ với Chúa Thánh Thần.
(1 Cr 3,16-17 ; Ep 4,30 ; Gl 5,25)
Chúa Thánh Thần không chỉ được ban cho các vị lãnh đạo trong Hội thánh (Đức Giáo Hoàng - Đức Giám Mục - Linh mục) mà cho cả người giáo dân. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho các tín hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Chúa Thánh Thần được ban cho cả dân ngoại (x. Cv 2,44-48)...
Ngày nay, chúng ta, mỗi người tín hữu đều được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Chính Chúa Thánh Thần đang tác động trên mọi tín hữu để cùng nhau xây dựng Hội thánh và loan báo Tin mừng cứu độ. Vậy chúng ta phải sống với Chúa Thánh Thần thế nào ?
Người ta kể rằng : một cậu bé Châu Phi và một số người lớn ở Phương Tây được sống sót trong một vụ rơi máy bay ở một khu rừng già. Đối với khu rừng này, cậu bé Châu Phi thạo đường lắm. Cậu bé chỉ đường cho mọi người ra khỏi khu rừng, nhưng nhiều người lớn khinh cậu không thèm nghe. Họ cứ đi theo con đường của họ và họ đã chết, trong khi cậu bé và những người theo cậu được thoát chết, sống vui vẻ.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu, chúng ta đừng cưỡng lại Thánh Thần và sự soi sáng của Người.
Trái lại, em phải tin kính, thờ phượng, yêu mến và cầu xin Chúa Thánh Thần.
- Hơn nữa, muốn trở thành người con ngoan trong gia đình Thiên Chúa, trong gia đình của em. Em phải vâng theo ơn soi sáng của ai ?
+ ... (của Chúa Thánh Thần).
Các em thử suy nghĩ xem : rất nhiều lúc các em cần Chúa Thánh Thần giúp sức lắm, có thể là khi em gặp khó khăn trong việc lựa chọn điều gì - có thể là khi em muốn nhận biết điều nào đúng, điều nào tốt để làm.
Ví dụ, Tâm muốn mua một cái cặp đeo, nhưng không đủ tiền để mua - lúc mẹ Tâm đi làm, Tâm vào phòng mẹ, mở ngăn kéo nơi mẹ cất tiền. Nhưng rồi Tâm lại nghĩ đến mẹ, nghĩ đến cái cặp muốn mua. Tâm thấy như có cái gì làm Tâm phân vân, vì hành động như thế là không đẹp lòng Chúa và làm cha mẹ buồn. Tâm liền bước ra khỏi phòng mẹ.
- Vậy ai đã giúp Tâm nhận ra hành động sai trái của mình ?
+ ... (Chúa Thánh Thần).
Vì Chúa Thánh Thần ở trong em, nên con người em trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, em phải biết tôn trọng hồn xác em cũng như của các bạn.Em gắng sống vui tươi, bác ái với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, vì đó là hoa trái của Thánh Thần. Ai có Chúa Thánh Thần sẽ sống bình an - vui tươi - và bác ái.
Em nhớ nhé :chúng ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi sáng cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đốt lửa kính mến Chúa trong lòng chúng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22)
25. H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?(GLCG.101)
T. Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy
26. H. Chúa Thánh Thần làm gì trong đời sống và hoạt động của Chúa Ki-tô ? (GLCG.105)
T. Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Ki-tô từ khi nhập thể cho đến Phục sinh.
27. H. Chúa Thánh Thần xây dựng Hội thánh thế nào ? (GLCG.107)
T. Chúa Thánh Thần ban sức sống cho Hội thánh, hợp nhất các tín hữu nên một trong Chúa Ki-tô và thúc đẩy Hội thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Ki-tô giao phó.
28. H. Ta phải sống với Chúa Thánh Thần thế nào ? (GLCG.109)
T. Ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
GLV nhắc lại hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Hội thánh và nơi từng tín hữu để các em nhất trí :
Em sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần trước khi học bài.
3. Bài làm ở nhà :
Để tôn trọng hồn xác em là đền thờ của Chúa Thánh Thần, em tự tắm rửa sạch sẽ và cuối tuần ghi số bài làm đã tự tắm rửa mấy lần.
V. KẾT THÚC.
Qua bài học về Chúa Thánh Thần, các em hãy dâng lời ca tụng Chúa Cha, Đấng đã ban Thánh Thần xuống trên Chúa Giê-su.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa Giê-su, Đấng đã xin Cha ban Thánh Thần cho Hội thánh và cho từng người chúng ta.
Chúng ta luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, vì Người được sai đến với chúng ta như Đấng bảo trợ và hướng dẫn, để giúp chúng ta chống lại các cám dỗ, nhận ra điều hay lẽ phải, và chọn lựa điều tốt hơn là điều xấu.
Chúc các em tràn đầy niềm vui trong Chúa Thánh Thần.
Sáng danh… - chào nhau.
Lời Chúa : “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men” (2 Cr 13,13).
Ý chính : 1. CG dạy cho biết mầu nhiệm TC Ba Ngôi (Mc 1,10-11 ; Mt 28,16-19).
2. Hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa (Ga 14,23.24.26 ; Mt 3,16-17).
3. Mầu nhiệm hiệp thông (2 Cr 13,13).
Tâm tình : ôn thờ, yêu mến Chúa Ba Ngôi.
Chuẩn bị : tranh 36 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như các bài trước)
2. Thánh hóa :
(GLV cùng với các em nghiêm trang kính cẩn làm dấu thánh giá).
Lạy Chúa khi làm dấu Thánh giá, con tuyên xưng Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Xin dạy con biết Chúa hơn, yêu mến Chúa hơn và sống đẹp lòng Chúa hơn. Chúng con cám ơn Chúa. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
3. Giới thiệu bài mới :
- Ai đã sai Chúa Giê-su đến trần gian ?
+ ... (Chúa Cha)
- Chúa Giê-su có phải là Thiên Chúa không ?
+ ... (có)
- Các em vừa học về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
+ ... (đọc lại câu 25)
- Đạo công giáo thờ mấy Thiên Chúa ?
+ ... (một Thiên Chúa)
- Khi làm dấu Thánh giá, chúng ta tuyên xưng điều gì ?
+ ...
Tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi : Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Đó là điều chúng ta học hôm nay. Nhưng trước khi vào bài, chị kể cho các em nghe một câu chuyện nhé.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một hôm, thánh Augustinô đi dạo trên bờ biển, giữa cảnh trời đất bao la. Ngài suy nghĩ triền miên với dáng vẻ trầm tư ưu sầu. Bỗng Ngài thấy một cậu bé đang hí hoáy chạy đi chạy lại, tay cầm cái vỏ sò tí ti để múc nước đổ vào một lỗ nhỏ trên cát. Dừng lại quan sát em một hồi lâu, thánh nhân đến bên và hỏi em :
- Bé ơi, bé làm gì đó ?
Chú bé trả lời :
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân mỉm cười và dịu dàng nói :
- Không thể làm như vậy được đâu.
Chú bé đáp lại :
- Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn điều ông đang suy nghĩ.
Nói xong chú bé biến mất.
Thánh nhân bừng tỉnh, vì Ngài đang suy tư về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi : mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của loài người mà ngài đòi hiểu thấu đáo. Quả thực, Chúa đã cho thiên thần hiện đến để cho ngài biết tính cao cả, sâu nhiệm của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Phần các em, các em còn nhỏ, trí khôn các em non nớt hơn thánh Au-gus-ti-nô nhiều lắm. Cả chị cũng vậy, chúng ta không thể nào hiểu được mầu nhiệm này đâu. Tuy nhiên, Chúa Giê-su sẽ dạy chúng ta biết. Mời các em đứng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 14,23-26)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây, không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Chúa Giê-su dạy cho biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (x.Mc 1,10-11 ; Mt 28,16-19).
Trong suốt những ngày tháng rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã dạy cho ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đoạn Tin mừng các em vừa lắng nghe là một trong những lần Chúa Giê-su tỏ cho ta biết về mầu nhiệm ấy.
(GLV tùy thời lượng mà quảng diễn dài hay ngắn về mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi :)
a) Chúa Giê-su dạy về Chúa Cha :
Chúa Giê-su gọi Thiên Chúa là Cha của Người. Trong nhiều lần cầu nguyện, Chúa thưa với Chúa Cha :
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha...” (Lc 10,21)
“Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con...” (Ga 11,41) v.v…
- Qua những đoạn Lời Chúa vừa nêu trên, Chúa Giê-su cho ta biết Thiên Chúa là ai ?
+... (Thiên Chúa là Cha)
- Chúa Giê-su tỏ cho ta biết Thiên Chúa Ngôi Cha (gọi vài em lặp lại).
b) Chúa Giê-su dạy về chính Mình Người :
Khi Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan, biến cố mở đầu cuộc sống công khai, Người thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,10-11).
(Cho các em xem tranh và giải thích sự kiện Chúa chịu phép rửa).
- Tiếng từ trời phán : “Này là Con Ta yêu dấu” là lời của ai ?
+... (của Chúa Cha)
- Bài trước các em đã học trong kinh tin kính ta tuyên xưng điều gì về Chúa Giê-su ?
+ … (cho ít em phát biểu, rồi GLV đúc kết :)
Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Người được Chúa Cha sai đến để cứu độ loài người. Người cũng là Thiên Chúa. Chúa Giê-su nói rõ : “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
- Vậy, Chúa Giê-su dạy gì về chính mình Người ?
+... (Người là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa...)
c) Chúa Giê-su dạy về Chúa Thánh Thần.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su nói với các môn đệ, Người sẽ gởi Thánh Thần đến “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
- Chính Chúa Giê-su tỏ cho ta biết về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
+ …
(GLV ôn lại cho các em câu GL 25 bài 7).
d) Ba Ngôi là Một Chúa :
Trước khi về trời, Chúa Giê-su nói với các tông đồ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
(Mt 28,19)
Như thế Chúa Giê-su tỏ cho ta biết: Cha, Con và Thánh Thần là Một Thiên Chúa. Thiên Chúa duy nhất : Cha là Thiên Chúa, Con là Thiên Chúa, Thánh Thần là Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi là một Thiên Chúa. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất : là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Ki-tô giáo, mầu nhiệm nền tảng, suối nguồn của mọi mầu nhiệm Ki-tô giáo.
- Ba Ngôi Một Chúa, Một Chúa Ba Ngôi, điều này khó hiểu quá, phải không các em ? Đúng rồi, chị cũng như các em, và ngay cả thánh Augustinô trong câu chuyện đầu giờ. Chúng ta khó hình dung được, phương chi là hiểu. Song chúng ta vẫn tin ! Tại sao ?
+... (Vì chính Chúa Giê-su dạy cho ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi).
- Em nào trả lời cho các bạn biết : mầu nhiệm trung tâm của đức tin Ki-tô giáo là mầu nhiệm nào ?
+... (nhiều em được hỏi)
- Nhờ đâu ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?
+ … (Cho nhiều em trả lời để khắc sâu).
2. Hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa. (Lc 10,21 ; Gc 10,17-18).
(GLV có thể gợi lại đoạn Tin mừng Ga 14,23,24.26 hoặc biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa để hình thành hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cha và Thánh Thần hằng hiện diện và hoạt động nơi Con).
- Ai đã tạo dựng trời đất muôn vật ?
+... (Chúa Cha tạo dựng trời đất muôn vật).
- Thế còn ai xuống thế làm người, cứu chuộc chúng ta ?
+... (Chúa Con xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta).
- Và khi Chúa Giê-su lên trời, ai tiếp tục hướng dẫn, thánh hóa Hội thánh?
+... (Chúa Thánh Thần).
(GLV giảng rõ thêm :)
Công trình tạo dựng và cứu độ là của Thiên Chúa, Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, nên cùng thực hiện mọi công trình. Tuy nhiên mỗi Ngôi biểu lộ một nét riêng của mình như các em vừa trả lời - Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần thánh hóa.
- Vậy khi nói đến Chúa Cha tạo dựng là chúng ta tuyên xưng điều gì ?
+... (Thiên Chúa tạo dựng).
- Khi nói đến Chúa Con cứu chuộc là chúng ta tuyên xưng điều gì ?
+... (Thiên Chúa cứu chuộc).
- Khi nói đến Chúa Thánh Thần thánh hóa là chúng ta tuyên xưng điều gì ?
+... (Thiên Chúa thánh hóa).
Các em thấy đó ! Thiên Chúa là tình yêu, Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người chúng ta, Người yêu thương dựng nên mọi loài cho ta được hưởng dùng. Rồi khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đến cứu chuộc, và tiếp tục hiện diện để gìn giữ, hướng dẫn, thánh hóa chúng ta, cho chúng ta luôn sống trong tình thương và ân sủng của Người. Như lời cầu chúc của Thánh Phaolô : (2 Cr 13,13).
3. Mầu nhiệm hiệp thông. (Ga 14, 23.26).
(GLV đọc chậm câu Lời Chúa : 2 Cr 13,13)
“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần . Amen”
(GLV cho các em lặp lại từng câu, đồng thanh).
Thiên Chúa luôn yêu thương ta, Người là Cha chúng ta, hằng mong muốn cho ta được thông phần vào sự sống của Người nên đã tỏ cho ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Trong đó, mỗi Ngôi hướng về Hai Ngôi khác bằng tất cả tình yêu trao ban và đón nhận.
- Trong các em đây, em nào đã rửa tội rồi ?
+ … (cho các em giơ tay hoặc phát biểu).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi tham dự vào cuộc sống chung của Ba Ngôi Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Các em có muốn xứng đáng là Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi không ?
+...
Chắc chắn là em nào cũng muốn Chúa Ba Ngôi luôn ở mãi trong tâm hồn mình. Vậy chúng ta phải làm gì nào ?
Các em thấy Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hiệp nhất, yêu thương. Ba Ngôi là một Thiên Chúa duy nhất. Do đó, ta cũng biết sống yêu thương, biết vui tươi sống hòa đồng với người khác. Biết dẹp đi những tự ái, ích kỷ, nhất là biết yêu mến và lắng nghe, tuân giữ Lời Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, và Chúa Ba Ngôi sẽ đến ngự mãi trong tâm hồn như Lời Chúa Giê-su nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
- Các em có muốn được như Lời Chúa vừa nói không ?
+ … (Cho các em lặp lại câu Lời Chúa).
- Thiên Chúa tỏ cho ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi để làm gì ?
+... (Để mời gọi ta thông phần vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi, và góp phần làm cho gia đình ta cũng như dân tộc và Hội thánh, thành cộng đoàn hiệp thông theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi - câu 32 ĐBTT).
D. Cầu nguyện :
Các em thân mến. Chỉ nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, ta mới biết được Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa duy nhất, là Cha của chúng ta, luôn yêu thương và muốn chúng ta được sống hạnh phúc với Người. Chúng ta cùng dâng lên Chúa tâm tình ca ngợi, biết ơn : Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh : là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con ca ngợi Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn nhớ mọi người là Đền thờ của Chúa Ba Ngôi để chúng con biết tôn trọng nhau.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
Củng cố bài sau khi diễn giải từng ý chính của bài cùng với Lời Chúa.
“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men” (2 Cr 13,13)
29. H. Mầu nhiệm trung tâm của Đức tin Ki-tô giáo là mầu nhiệm nào ? (GLCG.34)
T. Là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
30. H. Nhờ đâu ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ? (GLCG.35)
T. Nhờ Chúa Giê-su mặc khải mà ta biết mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi (x. Mt 28,19).
31. H. Ba Ngôi hoạt động thế nào ?(GLCG.37)
T. Ba Ngôi cùng hoạt động trong mọi công trình, nhưng mỗi Ngôi biểu lộ nét riêng biệt : Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá.
32. H. Thiên Chúa tỏ cho ta biết mầu nhiệm Ba Ngôi để làm gì? (GLCG.38)
T. Để mời gọi ta thông phần vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi, và góp phần làm cho gia đình ta cũng như dân tộc và Hội thánh, thành cộng đoàn hiệp thông theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Chọn trong tập Sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
Em luôn kính cẩn mỗi khi làm dấu thánh giá.
3. Bài làm ở nhà :
Em tô 3 màu khác nhau hình của bài 8 diễn tả Thiên Chúa Ba Ngôi.
V. KẾT THÚC.
Qua giờ học giáo lý này, chúng ta tin có một Chúa Ba Ngôi luôn yêu thương ta và vì thế, chúng ta cố gắng sống đẹp lòng Chúa.
Từ nay, chúng ta nhớ làm dấu Thánh Giá thật nghiêm trang trước khi đọc kinh, cầu nguyện và cả trước khi ăn nữa, các em có nhớ không ?
Rồi, các em cũng luôn nhắc nhở mình sống ngoan ngoãn, dễ thương với cha mẹ, gia đình và biết giúp đỡ bạn bè, luôn hiệp nhất yêu thương nhau để nên giống Chúa và tâm hồn các em xứng đáng là nơi Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Bây giờ chúng ta cùng đứng lên cám ơn Chúa Ba Ngôi với kinh Sáng danh thật sốt sắng.
(Chào nhau)
Bài 9
CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH
Lời Chúa :
“Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3,14-15).
Ý chính : 1. Chúa Giê-su thiết lập Hội thánh (Mc 3,13-19).
2. Hội thánh gồm những yếu tố nào ? (Cl 1,18 ; Ga 15,4-5).
3. Ơn gọi của dân Thiên Chúa (1 Pr 2,9-10).
Tâm tình : Vui mừng sung sướng được thuộc về Hội thánh Chúa Ki-tô.
Chuẩn bị : tranh 18 ĐBTT cũ - Hình ảnh về sinh hoạt trong Hội thánh.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin Chúa đến ở giữa chúng con và dạy chúng con biết về Hội thánh trong giờ giáo lý này.
3. Giới thiệu bài mới :
Cùng với việc rao giảng Tin mừng, Chúa Giê-su đã thiết lập Hội thánh. Hôm nay chúng ta học về cộng đoàn Hội thánh.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Hôm ấy, ở một nơi vắng vẻ, sau khi cầu nguyện xong, Chúa Giê-su quay sang hỏi các tông đồ đang ở bên cạnh : các con nghe họ nói gì về Thầy không? Người ta nói Thầy là ai ? Các tông đồ kể lại cho Chúa nghe những dư luận về Chúa : người bảo Thầy là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, người khác bảo là một tiên tri nào đó. Chúa Giê-su hỏi các tông đồ : “Còn chúng con, chúng con nói Thầy là ai ?”
Nghe Chúa hỏi, ông Phê-rô nhanh nhảu đáp lại ngay : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
- Các em thử đoán xem câu trả lời của ông Phê-rô có đúng không ?
+...
Đúng rồi, chính Chúa Giê-su khen là Phê-rô giỏi lắm, Phê-rô đã trả lời trúng câu hỏi của Chúa và để thưởng cho Phê-rô, Chúa Giê-su đã hứa rằng : “Này anh Si-mon, con ông Giô-na, Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16,18).
Thánh sử Mác-cô đã tóm tắt việc Chúa Giê-su thành lập Hội thánh như sau, mời các em đứng nghe Lời Chúa : Mc 3,13-19.
B. Công bố Lời Chúa :
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.
“Chúa Giê-su lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỉ. Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Simon là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê, - Người đặt tên cho hai ông là Bo-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi -, rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-mon thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt chính là kẻ nộp Người.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Chúa Giê-su thiết lập Hội thánh. (Mc 3,13-19)
(GLV treo tranh 18 và diễn giải :)
- Qua đoạn Tin mừng này, các em trả lời xem : ai lập Hội thánh ?
+... (Chúa Giê-su thiết lập Hội thánh).
- Chúa Giê-su đặt ai làm đầu Hội thánh ?
+... (Thánh Phê-rô làm đầu Hội thánh, khi Người nói : Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”).
- Các em có biết Chúa Giê-su lập Hội thánh để làm gì ?
+... (Để qui tụ những người đón nhận và tin vào lời Thiên Chúa : tức là tin vào Chúa Giê-su - đón nhận lời Chúa Giê-su - đón nhận Nươc Thiên Chúa).
(GLV nói rõ thêm :)
Khi rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su khởi đầu thiếp lập Hội thánh. Người qui tụ những ai tin Người thành một nhóm, một cộng đoàn Hội thánh, trở thành dân Chúa và thành thân thể Chúa Ki-tô.
- Hội thánh là cộng đoàn nào ? (Cho nhiều em trả lời)
+... (Hội thánh là một cộng đoàn những người được lời Thiên Chúa qui tụ thành dân Chúa và thành thân thể Chúa Ki-tô).
(củng cố cho các em khắc sâu).
2. Hội thánh gồm những yếu tố nào? (Cl 1,18 ; Ga 15,4.5).
a) Hội thánh bao gồm 2 yếu tố :
- Yếu tố nhân loại : Hội thánh là một tổ chức hữu hình (hữu là có, hình là ảnh, hình thể) gồm những con người với các chức bậc : đứng đầu Hội thánh là Đức Giáo Hoàng, đứng đầu mỗi Giáo phận có Đức Giám Mục, trong mỗi Giáo xứ có cha xứ, và chúng ta là những giáo dân.
(Nếu có tranh ảnh, tài liệu, cho các em xem một số sinh hoạt trong Hội thánh. Để hiểu rõ hơn Hội thánh là một tổ chức hữu hình, có luật lệ hướng dẫn, có sinh hoạt như một tổ chức xã hội).
- Yếu tố thần linh : Cùng với tổ chức bên ngoài, Hội thánh còn có sự sống bên trong, một thực tại thiêng liêng đầy sức sống thần linh mà chỉ với con mắt đức tin chúng ta mới có thể nhận ra được.
Hội thánh còn là cộng đoàn thiêng liêng, mọi người được liên kết với nhau do đức tin khi chịu phép rửa tội. Hội thánh là một thân thể mà “Chúa Giê-su là Đầu của thân thể, nghĩa là Đầu của Hội thánh” (Cl 1,18).
Chúa Giê-su làm cho ta thấy mối liên kết thân tình hơn, hiệp thông giữa Chúa và những ai theo Chúa : “Hãy ở lại trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con. Thầy là cây nho, các con là ngành” (Ga 15,4.5). Các em nhắc lại :
- Hội thánh gồm những yếu tố nào ?
+ … (GLV gợi nhớ để các em có thể trả lời).
Hội thánh hình thành do hai yếu tố nhân loại và thần linh. Đó là mầu nhiệm Hội thánh, chỉ niềm tin mới có thể đón nhận.
b) Vì sao gọi Hội thánh là dân Thiên Chúa.
- Hội thánh là cộng đoàn nào ?
+ … (Để các em trả lời và từ đó GLV giải thích :)
“Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng lẽ, thiếu liên kết. Nhưng Người muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết Người trong chân lý và phụng sự Người trong thánh thiện. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn dân Do thái làm dân riêng, đã thiết lập một giao ước và dần dần hướng dẫn họ. Đây là giai đoạn chuẩn bị. Chính Chúa Ki-tô qui tụ một dân gồm những người Do thái và lương tâm sống hiệp nhất. Những người tin theo Chúa Ki-tô và chịu phép rửa (Hc.HT 9).
- Các em đã được gia nhập dân Thiên Chúa chưa ? Khi nào ?
+... (rồi, khi chịu Bí tích rửa tội).
Nhờ Bí tích rửa tội, chị và các em đã thuộc về dân Thiên Chúa, tức là Hội thánh. Thật là sung sướng phải không các em ! Đó là một diễm phúc lớn lao mà nhiều bạn khác chung quanh trong chưa được. Chúng ta được sống liên kết, hiệp nhất trong tình anh em, con cùng một Cha là Thiên Chúa, được nên Thân thể duy nhất của Chúa Ki-tô. Được làm Con Chúa, được Chúa yêu thương, em phải luôn biết cám ơn Chúa và sống tốt xứng đáng với hồng ân cứu rỗi. Em luôn cầu nguyện cho nhiều người nhất là các bạn bè của em cùng biết Chúa, yêu mến Chúa, gia nhập vào Hội thánh nhé.
3. Ơn gọi của dân Thiên Chúa trong Hội thánh (1 Pr 2,9-10).
Mỗi người trong Hội thánh đều được tham gia chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Giê-su, tức là được dự phần vào việc tế lễ, rao giảng Lời Chúa và sắp đặt mọi việc theo ánh sáng Tin mừng.
(tùy theo thời lượng mà GLV diễn giải về 3 chức năng này), thí dụ :
- Được tham dự vào chức năng Tư tế, em thực thi những gì ?
+... (làm những việc thờ phượng Thiên Chúa như : tham dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, lúc em cầu nguyện, khi em sống từ bỏ ý mình, hy sinh và làm việc bác ái).
Em tham gia vào chức năng Ngôn sứ, hăng say nói về Chúa, về tình yêu Chúa, nhất là với bạn bè của em.
Bằng đời sống : em sống ngoan, chăm chỉ học tập và ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, thầy cô, các anh chị trong những điều phải đạo. Biết lưu tâm và giúp đỡ bạn bè, làm cho họ nhận ra Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em của nhau.
Em tham gia chức năng Vương giả của Chúa Ki-tô bằng cách nào ?
Cả cuộc đời Chúa Giê-su đến trần gian là để phục vụ “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
( GLV có thể kể dụ ngôn người mục tử đi tìm chiên lạc Lc 15,4-10)...
Các em thấy đó, Chúa Giê-su chính là Mục tử, hy sinh phục vụ vì đoàn chiên, tìm từng con chiên là chúng ta để chúng ta thuộc về đoàn chiên là Hội thánh (xem tranh Chúa Giê-su mục tử - đàn chiên - trong TB phóng lớn).
Noi gương phục vụ của Chúa, em cũng tìm đến những bạn yếu kém, nghèo khổ hơn em. Em cần yêu mến và hy sinh cho bạn nhiều hơn nữa, nhất là những người chưa nhận biết Chúa.
D. Cầu nguyện :
Các em thân mến ! được sống trong Hội thánh nhờ Bí tích Rửa tội, sống trong gia đình Hội thánh có Chúa là Cha, chúng ta sung sướng hãnh diện, đồng thời phải sống ngoan ngoãn, để xứng đáng là con ngoan của Chúa. Bây giờ, các em cùng với chị hiệp lời tạ ơn Chúa : Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã thương cho chúng con được sống trong Hội Thánh. Chúng con vô cùng sung sướng. Xin cho chúng con biết mến yêu Hội Thánh hơn nữa và biết vâng theo những điều Hội Thánh truyền dạy.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Người lập Nhóm Mười hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3,14-15).
33. H. Hội thánh là cộng đoàn nào ? (GLCG.110)
T. Hội thánh là một cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa qui tụ thành Dân Chúa và thành Thân Thể Chúa Ki-tô.
34. H. Hội thánh gồm những yếu tố nào ? (GLCG.112)
T. Hội thánh gồm 2 yếu tố này :
- Một là yếu tố nhân loại : là một tổ chức hữu hình với cơ cấu phẩm trật.
- Hai là yếu tố thần linh : là một cộng đoàn thiêng liêng và là Nhiệm Thể Chúa Ki-tô.
35. H. Vì sao gọi Hội thánh là Dân Thiên Chúa ? (GLCG.114)
T. Hội thánh được gọi là Dân Thiên Chúa, vì nhờ giao ước mới trong Máu Chúa Ki-tô, Hội thánh tiếp tục và hoàn tất những gì Người đã khởi sự nơi dân Do Thái ngày xưa.
36. H. Ơn gọi của Dân Thiên Chúa là gì ? (GLCG.115)
T. Ơn gọi của Dân Thiên Chúa là tham dự vào chức năng Tư Tế - Ngôn Sứ và Vương Đế của Chúa Ki-tô, tức là thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin mừng và phục vụ mọi người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nói lên ý muốn của Chúa Ki-tô cứu rỗi mọi người để động viên các em :)
Siêng năng cầu nguyện cho nhiều người gia nhập Hội thánh.
3. Bài làm ở nhà :
Thi hành chức vương giả (phục vụ): Em làm được việc gì giúp người khác thì viết vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
GLV nhắc các em sống tốt và kết bằng kinh Sáng danh.
(Chào nhau).
Lời Chúa : “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng ; thì chúng ta cũng vậy : tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, ai nấy liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5).
Ý chính : 1. Tín hữu Chúa Giê-su là những ai ? (Rm 12,4-8).
2. Các thành phần trong Hội thánh (1 Cr 12,27-28).
Tâm tình : Yêu mến và sống liên kết với mọi thành phần trong Hội thánh.
Chuẩn bị : ình Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II.
hoặc hình Đức Giám Mục - Một số hình chụp sinh hoạt của tu sĩ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con yêu mến Chúa, xin Chúa mở lòng mở trí chúng con để chúng con biết ngoan ngoãn lắng nghe tiếng Chúa dạy chúng con trong giờ học giáo lý này.
3. Giới thiệu bài mới :
- Hôm trước các em đã học bài gì ?
+... (Cộng đoàn Hội thánh).
Hôm nay, chúng ta sẽ học về tổ chức Hội thánh, các em cùng chú ý lắng nghe.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Hôm Chúa nhật vừa qua, lớp của Dũng được cô giáo dẫn vào tham quan sở thú. Vào đến cổng, Dũng thấy có người đeo băng đỏ bước ra trao đổi với cô giáo rồi anh vui vẻ mở cổng to cho bọn Dũng vào. Mới đi được mươi bước, cô giáo bảo đứng lại. Cô lại vào gian phòng mở cửa sẵn gặp một ông ăn mặc lịch sự, vui vẻ, rồi chính ông ra gặp học sinh lớp Dũng. Cô giáo giới thiệu ông là Giám đốc sở. Ông vui vẻ hỏi han từng người rồi bảo một cô tiếp viên đứng bên dẫn lớp đi tham quan. Cô tiếp viên đi đầu, vui vẻ cầm tay bé Thảo dẫn đi từng chuồng thú, lồng chim. Nhờ cô tiếp viên này cả lớp được đi giáp vòng sở thú mà không mất giờ. Trong khi đi tham quan, Dũng còn thấy có những người đàn ông mặc đồng phục đi vào trong các chuồng thú để chăm sóc cho thú, có các bà mặc đồng phục cắt cỏ, quét đường... Sở thú thật rộng mà chỗ nào cũng sạch sẽ, đẹp đẽ... khác với vườn bông hôm trước đi tham quan. Cây lá mọc um tùm, cây kiểng tuy nhiều nhưng xờ xạc, cỏ thì chết khô... Sự khác biệt này đã được cô giáo lý giải là do sở thú có tổ chức, còn vườn bông thiếu tổ chức.
Các em coi nơi nào có tổ chức có khác. Bước vào Hội thánh các em thấy ngay một tổ chức qui củ, vì Hội thánh là “cộng đoàn có tổ chức”. Hội thánh có tổ chức như thế nào, mời các em đứng lên nghe lời Thánh Phao-lô giải bày :
B. Công bố Lời Chúa : Rm 12,4-8
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
“Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy : tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
- Các em nhìn vào thân thể của mình : thân thể mỗi người gồm có những gì?
+... (GLV có thể chỉ vào từng phần trong thân thể cho các em cùng phát hiện ; đầu - cổ - thân mình - tay - chân...)
Các phần thân thể này tuy khác nhau : đầu không phải là vai, tay không phải là chân, nhưng tất cả đều ăn khớp với nhau theo sự hướng dẫn của đầu : mắt thì nhìn, tai thì nghe, mũi thì ngửi, tay thì cầm, chân thì đi.. Thiếu phần nào thì khổ phần đó. Tay mà đau thì toàn thân đều đau...
Hiểu như thế rồi, bây giờ chúng ta tìm hiểu tổ chức Hội thánh nhé.
1. Tín hữu công giáo là những ai ?
(Rm 12, 4-8).
- Các em cho chị biết các em được gia nhập vào Hội thánh từ khi nào ?
+... (từ khi được rửa tội).
Như vậy, các em và cả chị nữa, chúng ta là thành phần của Hội thánh công giáo. Được gọi là tín hữu công giáo hay Ki-tô hữu.
Tất cả những ai tin vào Chúa Giê-su, đã chịu phép rửa tội và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng đều là tín hữu công giáo.
- Tín hữu công giáo là những ai ?
+... (các em lần lượt trả lời theo gợi ý của GLV).
- Các em có phải là tín hữu công giáo không ?
+... (Chúng ta là tín hữu công giáo hay còn gọi là Ki-tô hữu).
Hội thánh là Thân thể mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Tín hữu là những chi thể trong thân thể Chúa Ki-tô. Mà các em cũng thấy đó, trong một thân thể thì mỗi bộ phận có một công việc riêng. (ví dụ : trong thân thể các em - mắt, mũi, miệng, tay, chân đều làm công việc khác nhau, nhưng tất cả đều liên kết, bổ túc cho nhau để làm cho thân thể được phát triển).
Chính Chúa muốn những nét khác biệt giữa các chi thể của thân mình để giúp thân mình hiệp nhất và làm tròn sứ mạng. Mỗi người đều có một trách nhiệm nhưng tất cả nhằm phục vụ lợi ích chung.
2. Các thành phần của Hội thánh
(1 Cr 12,27-28)
- Hàng giáo sĩ gồm những ai ?
+... (Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, Linh mục và Phó tế).
- (Cho các em xem hình Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II), GLV hỏi : Các em có biết ai đây không ?
+... (Đây là hình Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, vị Giáo Hoàng, cũng gọi là Đức Thánh Cha, là đầu Hội thánh).
- Ai coi sóc Giáo phận chúng ta ?
+... (Cho các em biết Đức Giám Mục Giáo phận).
- Ai thay mặt Đức Giám mục coi sóc trong Giáo xứ chúng ta ?
+... [Cha xứ, và các cha phó, phụ tá (nếu có) chăm lo, coi sóc xứ đạo chúng ta ? (cho coi hình)]
- Hàng giáo sĩ còn có các Phó tế, cũng gọi là thầy sáu, các em ít thấy thầy phó tế xuất hiện.
Như vậy, Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, Linh mục, Phó tế, gọi chung là Giáo sĩ. Các Ngài được chọn lựa và lãnh nhận Bí tích Truyền chức thánh để phục vụ dân Thiên Chúa, và làm cho Hội thánh tăng trưởng không ngừng. Các Ngài nhận những chức vụ khác nhau trong Hội thánh và trở thành thừa tác viên có chức thánh, hầu mưu ích cho toàn thể Hội thánh.
- Em nào nhắc lại xem, Hàng Giáo sĩ gồm những ai ?
+... (GLV giúp các em hình thành câu GL 39).
(Tiếp theo GLV cho các em xem một số hình về tu sĩ, hay liên hệ đến các Dì phước, các dòng tu rồi hỏi :)
- Trong giáo xứ chúng ta có ai đi tu không ?
+ … (nếu có thì giới thiệu cho các em, rồi tiếp :)
Các anh, các chị đi vào nhà dòng tập luyện nhân đức, khi khấn rồi thì được gọi là tu sĩ. Đó là những người hiến dâng cuộc đời cho Chúa trong những cộng đoàn tu được Hội thánh phê chuẩn, sống 3 lời khuyên phúc âm : Trinh khiết - vâng lời và khó nghèo.
Các tu sĩ không làm nên một bậc sống riêng :
* Các nam tu có chức thánh thì gọi là tu sĩ giáo sĩ.
* Các tu sĩ không có chức linh mục thì gọi là tu sĩ giáo dân.
- Các em nhắc lại, thành phần thứ hai là ai ?
+ … (tu sĩ).
- Thành phần thứ ba là ai ?
+ … (giáo dân).
Đây là thành phần đông nhất trong Hội thánh. Đó là toàn bộ các tín hữu không có chức thánh, không đi tu. Như ba má, ông bà nội ngoại... các em và cả chị (anh) nữa chúng ta đều là giáo dân. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta được vào Hội thánh, được tham dự chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức riêng của mình.
- Các em thuộc thành phần nào ?
+ … (giáo dân).
- Tóm lại, trong Hội thánh có mấy thành phần ?
+ …
- Chị đố các em : trong Hội thánh, thành phần nào đông nhất ?
+ … (giáo dân).
Đúng rồi, thành phần giáo dân đông nhất. Đây là thành phần cốt yếu và đông nhất của Hội thánh. Giáo sĩ và tu sĩ cũng xuất phát từ giáo dân và có nhiệm vụ phục vụ giáo dân.
Để dễ hiểu, chị kể cho các em nghe một câu chuyện, các em cùng nghe nhé.
Để chuẩn bị cho kỳ thi “Cây cọ tuổi thơ”, bé Cát mua về một hộp màu mới tinh. Sau nhiều ngày luyện tập, chiều nay, bé Cát hoàn thành bức tranh tuyệt vời của mình. Cậu yên tâm cất hộp màu nước và cây bút lông cũ vào hộc bàn, rồi thoải mái chạy đi đá banh với các bạn.. Trong khi đó, sau khi giúp cậu chủ của mình một cách tích cực, các màu nước bắt đầu kể công và tranh luận với nhau về vai trò của mình :
- Màu vàng tự kiêu nói :
“Tớ là màu đẹp nhất, nhờ có tớ, cậu chủ mới vẽ được mặt trời chiếu sáng rực rỡ...”
- “Nhưng bầu trời còn to hơn mặt trời nhiều, thiếu tôi thì bầu trời sẽ ra sao ?” màu xanh da trời hãnh diện nói?
- “Còn không có mình thì chẳng có cây cối đâu !” màu xanh lá cây lên tiếng “và khu vườn còn gì là tươi đẹp, sống động nếu thiếu cỏ cây nào ?”
- “Còn tuyết nữa chứ ? Các bạn quên mất tuyết rồi sao ?” màu trắng nói to.
- “Chẳng lẽ tôi không cần thiết sao ?” màu đen vội vã nói.
Và rồi, không ai chịu cho mình là thua kém người khác, tưởng chừng như có cuộc xô xát lớn xảy ra.
Nghe đầu đuôi câu chuyện, lúc này, cây bút lông cũ mới lên tiếng :
Này, các em hãy xem đây : cậu chủ đã vẽ một bức tranh tuyệt đẹp, trong đó, có rất nhiều trẻ em với đủ màu da: trắng, vàng, đen, đỏ... người thì mắt nâu, người thì mắt xanh, mắt xám... còn mái tóc thì có người màu vàng, người màu hạt dẻ, người màu hung hung... nhưng các em bé này đều chơi với nhau, cùng ca hát, cùng học hành, và cùng giúp đỡ nhau... có ai trong họ ghen tị, gây hấn với nhau đâu ? Còn các em, cùng ở trong một hộp màu, cùng được góp phần để hoàn thành bức tranh thật đẹp, thật ý nghĩa... mà các em không thể sống chung hòa bình được sao ? Các em lại không nhận biết rằng mỗi người đều có vai trò, giá trị riêng không thể thay thế và không thể bị nhầm lẫn với bất kỳ ai khác sao ?
Bầu khí trở nên yên lặng .. Từ đó trở đi, không ai còn nghe các màu nước tranh luận với nhau : ai quan trọng hơn ai nữa...
- Các em thấy câu chuyện có hay không ?
+...
Các em biết đó, trong Hội thánh cũng tương tự, mỗi người có một ơn gọi riêng, một chỗ đứng riêng … Điều quan trọng là mỗi người biết cộng tác góp phần mình vào công cuộc chung và ý thức rằng mình mà xấu thì cũng làm cho Hội thánh xấu lây và mình tốt thì làm cho Hội thánh tốt hơn.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, nhờ Bí tích Rửa tội chúng con được làm con Hội Thánh. Xin ban cho tất cả chúng con, được trung thành yêu mến Chúa và Hội Thánh, đoàn kết yêu thương nhau, thực hành công bình và bác ái, thánh hoá cuộc sống hằng ngày, và đưa dẫn mọi người về với Chúa, để ngày sau được hưởng hạnh phúc và chúc tụng Chúa muôn đời. A-men.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng ; thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, ai nấy liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5).
37. H. Tín hữu Công giáo là những ai ? (GLCG.129)
T. Đó là những người tin vào Chúa Ki-tô, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng.
38. H. Hội thánh Công giáo có những thành phần nào ? (GLCG. 130)
T. Hội thánh Công giáo gồm có Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân.
39. H. Hàng Giáo sĩ gồm những ai ? (GLCG. 131)
T. Hàng Giáo sĩ gồm có Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục và Phó tế.
40. H. Các Tu sĩ là ai ? (GLCG.136)
T. Là những Ki-tô hữu muốn bước theo Chúa Giê-su cách triệt để, nên tự nguyện khấn khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, theo những hình thức đã được Hội thánh phê chuẩn.
41. H. Giáo dân là ai ? (GLCG.138)
T. Giáo dân là các tín hữu không có chức thánh và không ở trong bậc tu trì. Nhờ phép Rửa tội họ được dự phần theo cách của họ vào chức Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Ki-tô.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Em vâng phục các vị chủ chăn trong Hội thánh.
3. Bài làm ở nhà :
Em lau chùi bức hình Đức Thánh Cha, hay Đức Cha hoặc cha xứ cho sạch để tỏ lòng tôn kính hàng giáo sĩ.
V. KẾT THÚC.
Như thế, hôm nay chúng ta đã biết về tổ chức Hội thánh, các em nhớ ngoan ngoãn vâng lời các vị chủ chăn trong Hội thánh và cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh biết tích cực góp phần xây dựng Hội thánh ngày một tốt hơn.
Bây giờ, chúng ta cùng cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta giờ học giáo lý này.
Sáng danh... (chào nhau ra về).
Bài 11
ĐỨC MA-RI-A MẸ CHÚA GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH
Lời Chúa : “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14).
Ý chính : 1. Những đặc ân của Mẹ Ma-ri-a. (Lc 1,26-31.38).
2. Vị trí của Đức Mẹ trong Hội thánh (Cv 1,14).
3. Lòng tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (Lc 1,48-49).
Tâm tình : Yêu mến, và tôn kính Mẹ Ma-ri-a.
Chuẩn bị : tranh truyền tin (số 12 ĐBTT cũ) - ảnh Đức Mẹ...
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giê-su, hôm nay chúng con lại đến đây để học giáo lý, xin Chúa chúc lành cho giờ học này của chúng con để mỗi ngày chúng con biết Chúa hơn, yêu Chúa hơn và chúng con sống tốt hơn.
3. Giới thiệu bài mới :
- Hôm trước chúng ta đã học bài gì nào?
+... (Tổ chức Hội thánh).
- Đúng rồi, chúng ta học về tổ chức Hội thánh, em nào nhớ giáo sĩ là những ai ?
+...
- Giỏi lắm, còn giáo dân là ai ?
+...
Các em rất thuộc bài, chị khen tất cả các em, chúng ta cùng vỗ tay nào.
Hôm nay các em học về một thành viên tốt đẹp nhất của Hội thánh, đó là Đức Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su và Mẹ Hội thánh.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
(GLV cho các em xem ảnh về Đức Mẹ. Hỏi :)
- Các em có biết ai đây không ?
+... (Đức Mẹ Ma-ri-a)
- Nhà thờ nào cũng có ảnh tượng Đức Mẹ, và tại gia đình các em cũng vậy, ngoài tượng ảnh Chúa Giê-su, thế nào cũng có đặt ảnh tượng Đức Mẹ, phải không các em ?
+...
Rồi mỗi tối, trong giờ kinh gia đình. Gia đình em cùng nhau đọc “kính mừng Ma-ri-a”. Như vậy, Đức Mẹ được nhiều người biết đến, yêu mến và hết lòng tôn kính. Tại sao vậy ? Các em sẽ được Thánh Lu-ca cho biết một số nét đặc biệt về Mẹ Ma-ri-a. Mời các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Lc 1,26-31.38)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.
“Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Sau đó GLV tóm ý :)
Một hôm thiên thần Gáp-ri-en, hiện đến với Đức Ma-ri-a và báo tin : bà sẽ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, sẽ sinh một con trai, đặt tên là Giê-su. Người sẽ là Con Đấng tối cao. Khi đã biết ý Thiên Chúa, Đức Mari-a mau mắn thưa lời “xin vâng”.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Những đặc ân của Mẹ Ma-ri-a.
(Lc 1,26-31.38)
- Đoạn Tin mừng các em vừa nghe, thuật lại cho chúng ta biến cố thiên thần đến truyền tin cho Đức Ma-ri-a. Thiên thần chào Đức Mẹ thế nào ?
+... (“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” - Lc 1,28).
- Lời chào đó cho chúng ta biết Đức Ma-ri-a là Đấng đầy ân sủng, được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu thế. Như bài 4, các em đã biết : Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người như thế nào ?
+... (Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai “Nhập thể trong lòng Trinh Nữ
Ma-ri-a và đã làm người).
- Vậy Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a là Mẹ của ai ?
+... (Mẹ của Chúa Giê-su)
- Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a sinh ra Chúa Giê-su là Thiên Chúa nên Mẹ Ma-ri-a cũng là Mẹ Thiên Chúa. Đây là đặc ân cao trọng mà Chúa ban cho Mẹ. Các em lặp lại : Thiên Chúa ban cho Mẹ đặc ân nào ?
+... (Đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa - GLV cho nhiều em trả lời).
- Vì được làm Mẹ Thiên Chúa, nên Thiên Chúa ban cho Mẹ đầy tràn ân phúc như lời chào của thiên thần. Trước hết là ơn vô nhiễm nguyên tội. Các em biết nguyên tổ Adam - Evà đã phạm tội gì ?
+... (ăn quả trái cấm)
- Tội đó gọi là tội gì ?
+... (tội tổ tông)
- Tội ấy có truyền lại cho ta không ?
+... (có)
- Gọi là tội gì ?
+... (tội tổ tông truyền)
- Mọi người sinh ra đều mắc tội này. Chị và các em đều có tội tổ tông. Thế nhưng Chúa gìn giữ Đức Mẹ không vướng mắc tội này, gọi là ơn vô nhiễm nguyên tội (vô là không, nhiễm là lây, nguyên tội là tội của tổ tông loài người). Em nào nhắc lại : Chúa ban cho Đức Mẹ đặc ân nào nữa ?
+... (ơn vô nhiễm nguyên tội).
- Đức Mẹ đã thụ thai Chúa Giê-su bởi quyền phép của ai ?
+... (bởi phép Chúa Thánh Thần).
- Như thế, Chúa ban cho Mẹ ơn Đồng Trinh trọn đời. Đây là ơn thứ ba. Các em nhắc lại ơn thứ ba của Mẹ ?
+ … (ơn Đồng trinh trọn đời)
- Đặc ân thứ tư là Đức Mẹ được ơn Hồn Xác lên trời : nghĩa là sau khi chết, Mẹ được Chúa đưa về trời cả Hồn và Xác. Sau Chúa Giê-su Mẹ là người đầu tiên được Chúa cho về trời cả hồn và xác vì Đức Mẹ đã sống hoàn toàn vâng theo ý Chúa.
Các em lặp lại : Chúa ban cho Mẹ Ma-ri-a những đặc ân nào ?
+... (gợi ý cho các em nhớ lại từng đặc ân, sau đó đúc kết lại :)
Chúa ban cho Mẹ những đặc ân này:
* Một là ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.
* Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
* Ba là ơn Đồng Trinh trọn đời.
* Bốn là ơn Hồn Xác lên trời.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho Mẹ chúng ta những đặc ân cao trọng.
2. Vị trí của Đức Mẹ trong Hội thánh (Cv 1,14).
Mẹ được chúc phúc là Đấng đầy ơn phúc, nhưng Mẹ cũng thuộc con cái loài người, được cứu độ nhờ công nghiệp của Chúa Giê-su. Mẹ là người đã tin vào Thiên Chúa và kết hợp với những kẻ tin để tôn thờ Thiên Chúa, và là thành phần cao cả trổi vượt nhất, là gương mẫu sáng ngời cho Hội thánh. Tại sao Đức Ma-ri-a có vị trí cao cả như vậy ?
Các em tìm hiểu xem nhé ?
- Ai đã sáng lập nên Hội thánh ?
+... (Chúa Giê-su)
- Chúa Giê-su đã thiết lập Hội thánh. Người là Đầu của Hội thánh. Ai là Mẹ của Chúa Giê-su ?
+... (Mẹ Ma-ri-a)
- Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đầu (là Chúa Ki-tô) thì cũng là Mẹ của toàn thân (tức Hội thánh). Mà chúng ta là chi thể của Hội thánh. Vậy Mẹ Ma-ri-a có phải là Mẹ chúng ta không ?
+... (Có, Đức Ma-ri-a là mẹ của chúng ta)
- Tất cả chúng ta đây được diễm phúc làm con Mẹ nhờ công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô.
- Các em còn nhớ khi sứ thần truyền tin, đề nghị Mẹ làm Mẹ của Chúa Giê-su Đấng Cứu thế, thì Mẹ đã đáp lời thế nào ?
+... (Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói).
Suốt cuộc đời Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa, nhất là Mẹ đã hiệp thông với những đau khổ của Chúa Giê-su Con Mẹ trên thập giá. Và cuối cùng, chính Chúa Giê-su lúc hấp hối trên thập giá đã trối Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của Hội thánh khi nói với môn đệ Gioan : “Thưa bà, này là con bà” (Ga 19,25).
Rồi sau khi Chúa Giê-su về trời, Đức Ma-ri-a đã ở giữa các tông đồ, cùng với các tông đồ cầu nguyện. Điều này được nêu rõ trong sách công vụ tông đồ (GLV đọc chậm rãi :)
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14).
(Cho các em xem tranh minh hoạ cho câu Lời Chúa hoặc xem ảnh Đức Mẹ).
Đức Mẹ đã cộng tác rất tích cực vào công trình của Chúa cứu thế, Mẹ là người thánh thiện, tốt lành và sống đẹp lòng Chúa nhất nên Mẹ trở thành gương mẫu cho mọi người tín hữu trong Hội thánh. Các em lặp lại :
- Đức Ma-ri-a có vị trí nào trong Hội thánh ?
+... (GLV giúp các em củng cố để hình thành câu GL 43).
3. Lòng tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (Lc 1,48-49)
Vì Mẹ Ma-ri-a là thành phần trổi vượt trong Hội thánh và là gương mẫu sáng ngời cho mọi tín hữu nên Hội thánh luôn dành cho Đức Mẹ lòng yêu mến và tôn kính đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh.
Chính Mẹ cũng đã thốt lên : “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,48-49).
Vì thế, Hội thánh khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Ma-ri-a như tình con thảo đối với Mẹ hiền và noi gương các nhân đức của Mẹ.
- Chúng ta phải tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a như thế nào ?
+ … (cho các em phát biểu...).
- Chúng ta phải hết lòng tôn kính, mến yêu Mẹ, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ.
+ … (GLV giúp các em lặp lại).
Tuy Mẹ cao trọng như vậy, nhưng Mẹ rất gần gũi, thông cảm và yêu thương chúng ta, nên chúng ta hãy luôn luôn chạy đến với Mẹ, trong những lúc vui hay lúc buồn, nhất là trong những lúc gặp khó khăn, đau buồn, bệnh tật, hết lòng cầu xin và trông cậy, Mẹ sẽ cứu giúp chúng ta.
- Chúng ta cần bắt chước Mẹ những điểm nào ?
+... (cố gắng sống như Mẹ : hiền hòa, giữ mình xa tránh dịp tội, biết giúp đỡ mọi người, biết vâng lời, nhất là luôn biết lắng nghe và thi hành Lời Chúa như Mẹ).
Vì chính Mẹ đã từng ghi nhớ và suy niệm cùng thực hành Lời Chúa (x. Lc 2,19.51)
- Các em có quyết tâm như thế không?
+ …
- Em nào có thể nói lại cho các bạn mình : chúng ta phải tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thế nào ?
+... (gợi ý các em trả lời từng phần - sau đó gộp cả câu)
- Đức Mẹ luôn nghe lời cầu xin của con cái Người, nhất là những ai thành tâm yêu mến, tôn kính Mẹ. Các em có muốn được Đức Mẹ yêu mến không ?
+ …
Muốn thế, ngay từ bây giờ, còn nhỏ, các em hãy chứng tỏ lòng yêu mến Mẹ bằng việc làm sau đây : khi tham dự giờ kinh chung hay đọc riêng, em cố gắng đọc kinh Kính Mừng cách chậm rãi, sốt sắng, vì đây là lời kinh Hội thánh ca tụng tôn kính Mẹ. Thiên Chúa rất hài lòng khi chúng ta hết lòng tôn kính và yêu mến Mẹ. Bây giờ các em và chị cùng nhau cầu nguyện với Mẹ nhé.
D. Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Ma-ri-a, chúng con cám ơn Mẹ đã hạ sinh Chúa Giê-su cho chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa : luôn yêu mến, vâng lời và đơn sơ như em bé trong tay mẹ hiền.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14)
42. H. Thiên Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a những đặc ân nào? (GLCG.165)
T. Thiên Chúa đã ban cho Đức Ma-ri-a những đặc ân này :
- Một là ơn Vô nhiễm Nguyên tội.
- Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
- Ba là ơn Đồng Trinh trọn đời.
- Bốn là ơn Hồn Xác lên Trời.
43. H. Đức Ma-ri-a có vị trí nào trong Hội thánh ? (GLCG.165)
T. Đức Ma-ri-a là chi thể trổi vượt và là gương mẫu sáng ngời của Hội thánh, vì Người đã là Mẹ của Đầu là Chúa Ki-tô thì cũng là Mẹ của toàn thân là Hội thánh.
44. H. Chúng ta phải tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thế nào? (GLCG.168)
T. Chúng ta phải đặc biệt tôn kính, mến yêu, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ. Nhất là chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi để được đến nơi Mẹ đã đến.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập Sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV hướng dẫn các em nhất trí :)
Siêng năng đọc kinh Kính Mừng.
3. Bài làm ở nhà :
Em lau sạch chuỗi Mân côi và treo vào chỗ xứng đáng.
V. KẾT THÚC.
Để kết thúc buổi học hôm nay, chúng ta đọc kinh kính mừng thật sốt sắng để tôn vinh Mẹ.
Kính Mừng Ma-ri-a …
(chào nhau)
Lời Chúa : “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23)
Ý chính : 1. Quyền tha tội (Ga 20,19-23).
2. Lãnh nhận ơn tha tội (Ga 3,5).
Tâm tình : Cảm tạ và tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa :
Chúa ơi ! như những người con ngoan được ôm ấp trong vòng tay yêu thương của Cha hiền, xin đón nhận và dạy bảo chúng con trong giờ giáo lý này. Xin mở lòng chúng con để chúng con được hiểu biết điều Chúa muốn dạy.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong kinh tin kính, sau khi đọc tuyên xưng đức tin về Hội thánh, chúng ta tuyên xưng về ơn tha tội. Đây là đề tài của bài giáo lý hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trong bộ chuyện sưu tập về các vị ẩn tu, có một chuyện kể rằng : có hai tội nhân nọ quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội cầu nguyện. Ngày ngày các tu sĩ của một nhà dòng mang thức ăn và nước uống cho hai ông.
Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người : một người thì khoẻ mạnh vui vẻ - một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước bề trên của cộng đoàn chờ đợi sự phán quyết họ có xứng đáng gia nhập vào cộng đoàn không.
Khi được hỏi trong suốt năm qua đã suy niệm và nghĩ những gì, ông ốm o buồn phiền trả lời như sau : trong suốt một năm qua ngày ngày tôi nhớ lại tội tôi đã phạm, từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu. Tôi sợ hãi đến độ mất ăn mất ngủ. Tôi nghĩ tội tôi quá nhiều, sợ Thiên Chúa không tha thứ cho tôi.
Đến lượt mình, ông kia trình bày như sau : suốt năm qua từng giây từng phút tôi hằng nhớ đến những ơn lành và tình thương của Chúa. Dù biết rằng tôi tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, tôi vẫn tin rằng Chúa đầy khoan nhân sẽ tha thứ cho tôi. Tôi được an bình và tôi cảm thấy đời vui sướng hạnh phúc.
Các em thân mến,
Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, chúng ta càng cần nhìn nhận tình yêu của Thiên Chúa. Dù chúng ta có tội lỗi xấu xa thế nào, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và đón nhận chúng ta. Chúa sẵn sàng tha thứ cho ta, vì chính Chúa Giê-su Phục sinh đã ban cho Hội thánh tha tội chúng ta như Lời Chúa sau đây. (Mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 20,19-23)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Chúa Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Quyền tha tội (Ga 20,19-23).
- Như Lời Chúa các em vừa nghe, Chúa Giê-su đã ban quyền tha tội cho ai ?
+... (cho các tông đồ)
- Khi nào ?
+... (sau khi Chúa sống lại).
- Chúa nói với các tông đồ thế nào ?
+... (Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha).
- Các em đọc lại câu Lời Chúa vừa rồi:
+...
- Lời này minh chứng cho ta thấy ai mới có quyền tha tội ?
+... (chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội)
Thật vậy, lần kia khi hay tin Chúa Giê-su trở lại thành Ca-phar-na-um, người ta đem đến cho Chúa Giê-su một kẻ bại liệt có 4 người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà làm thành một lỗ hổng rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giê-su bảo người bại liệt : “Này con, con đã được tha tội rồi”. Có mấy kinh sư đang ngồi đó nghĩ thầm rằng : “Sao ông này lại dám nói như vậy ! ngoài một mình Thiên Chúa ra, ai có quyền tha tội” (x. Mc 2,1-7). Quả thật, chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chúa Giê-su không phủ nhận điều đó, nhưng Chúa cho thấy Người có quyền tha tội vì Người là Thiên Chúa : “Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội” (Mc 2,10). Chúa Ki-tô phục sinh đã ban quyền tha tội cho các tông đồ khi Người phán : “Anh em hãy lãnh nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha” (Ga 20,23).
Sau này, những người kế vị các tông đồ là các Giám mục, linh mục, được quyền ban ơn tha tội.
Các em nghe chị hỏi lại nhé :
- Ai có quyền tha tội ?
+... (Thiên Chúa).
- Chúa Giê-su có quyền tha tội không?
+... (có).
- Tại sao ?
+... (vì Chúa Giê-su là Thiên Chúa).
- Chúa Giê-su ban cho Hội thánh quyền tha tội khi nào ?
+... (sau khi sống lại, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền tha tội khi ban Thánh Thần cho các ông).
- Chúa nói điều gì với các tông đồ khi ban cho các ngài quyền tha tội ?
+... (anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha).
- Các em đọc lại Lời Chúa đó.
+ … (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”).
Thánh Au-gus-ti-nô đã nói : “Hội thánh đã nhận được chìa khóa của Nước Trời, để thực hiện ơn tha tội nhờ Máu Chúa Ki-tô và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần”
(Thánh Aug. Bài giảng 214,11).
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã ban một hồng ân lớn lao như thế cho Hội thánh của Người.
2. Lãnh nhận ơn tha tội (Ga 3,5).
- Các em có biết tại sao chúng ta cần lãnh nhận ơn tha tội không ?
+...
- Chúng ta cần ơn tha tội. Thiên Chúa là Đấng Thánh thiện tốt lành, mà chúng ta là người có tội, tội lỗi làm ta xa Chúa, mất ơn nghĩa với Chúa. Vì thương ta, Chúa muốn cứu ta khỏi tội. Nên chúng ta cần được tha thứ tội lỗi để được giao hòa với Thiên Chúa và được sống đời đời. Vậy, chúng ta lãnh nhận ơn tha tội bằng cách nào ?
+...
- Các em đã được rửa tội rồi phải không ?
+... (rồi).
- Khi mới sinh chừng một tháng, mẹ bế các em bé đến nhà thờ để làm gì ?
+... (để được rửa tội)
- Các em có biết vì sao ta cần lãnh nhận Bí tích rửa tội không ?
+...
Chúa Giê-su đã nói : “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).
Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta được lãnh nhận ơn tha tội, tội tổ tông (nếu là người lớn thì cũng được tha các tội riêng), và các hình phạt do tội gây ra. Chúng ta được Chúa ban cho ta một đời sống mới, đời sống làm con Thiên Chúa, được kết hợp với Chúa Ki-tô khổ nạn và phục sinh.
- Chúa còn ban ơn tha tội nơi Bí tích nào, các em biết không ?
+ …
- (Có thể chỉ cho các em thấy tòa giải tội trong nhà thờ), các em thấy những người lớn hay các anh chị đến đó làm gì vậy ?
+... (đến xưng tội).
Khi chúng ta phạm tội, gọi là tội riêng, thì chúng ta lãnh nhận ơn tha tội nơi Bí tích Hòa giải. Như vậy sau khi lãnh nhận bí tích rửa tội, người tín hữu còn được tha các tội riêng nhờ Bí tích Hòa giải. Đó là Bí tích mà liền sau thời gian học giáo lý “Đến Bàn Tiệc Thánh” các em sẽ được lãnh nhận.
- Các em nhắc lại : chúng ta lãnh nhận ơn tha tội bằng cách nào ?
+... (bằng cách lãnh nhận Bí tích rửa tội và Bí tích hòa giải).
Mọi người có thể lãnh nhận ơn tha tội trước hết nhờ Bí tích rửa tội. Và sau đó còn được tha các tội riêng nhờ Bí tích hòa giải.
- Như vậy, các em thấy Chúa Giê-su có yêu thương quan tâm đến chúng ta không ?
+... (có)
Thiên Chúa luôn yêu thương và lo lắng cho chúng ta. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Người sẵn sàng tha thứ nếu chúng ta thật lòng ăn năn trở về với Chúa. Không có tội nào, dù nặng nề đến đâu mà Hội thánh không thể xá giải. Không có người nào dù độc ác, dù tội lỗi nặng và nhiều đến đâu mà không có hy vọng chắc chắn sẽ được tha thứ miễn là sự sám hối của người đó chân thành. Chúa Ki-tô đã chết cho mọi người và Người muốn rằng trong Hội thánh của Người, các cửa của ơn tha thứ phải luôn rộng mở cho tất cả những ai từ bỏ tội lỗi. Chúa đã dùng mọi phương thế thích hợp và hằng mong chờ ta đến lãnh nhận ơn tha thứ. Các em sẽ học kỹ về Bí tích Rửa tội và Bí tích Hòa giải ở phần III.
Biết điều này, các em càng cố gắng học hỏi Giáo lý hơn để biết Chúa yêu thương ta thế nào, biết cách xưng thú tội lỗi để được ơn tha tội.
Các em hãy cùng chị cảm tạ Chúa đã ban ơn tha tội cho ta.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha nhân từ ! Xin giúp chúng con luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà mau mắn trở về cùng Chúa mỗi khi phạm tội.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23).
45. H. Chúa Giê-su ban cho Hội thánh quyền tha tội khi nào ? (GLCG.170)
T. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su hiện ra thổi hơi trên các Tông đồ và ban cho các Ngài quyền tha tội : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha” (Ga 20, 22-23).
46. H. Chúng ta lãnh nhận ơn tha tội bằng cách nào ? (GLCG.171)
T. Mọi người có thể lãnh nhận ơn tha tội trước hết nhờ Bí tích Rửa tội là Bí tích kết hợp họ với Chúa Ki-tô khổ nạn và Phục sinh. Sau đó, người tín hữu còn được tha các tội riêng nhờ Bí tích Hoà giải.
47. H. Quyền tha tội của Hội thánh nhắc ta nhớ điều gì ? (GLCG.172)
T. Nhắc ta nhớ Thiên Chúa giầu lòng thương xót đã ban cho những phương thế thích hợp để ta được ơn tha tội. Vì thế, ta luôn vững tin đến với lòng thương xót ấy trong Tâm tình biết ơn.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt.
2. Thực hành :
Biết Chúa Giê-su yêu thương ta, đã chết vì tội ta và sẵn sàng tha thứ tội lỗi nên ta đáp lại tình Chúa bằng cách quyết tâm : thà chết chứ không phạm tội.
3. Bài làm ở nhà :
Tìm một Lời Chúa nói lên Chúa sẵn sàng tha tội cho ta.
V. KÊ#T THÚC.
- Đọc kinh Sáng danh
- (chào nhau).
Bài 13
ƠN PHỤC SINH VÀ ĐỜI SỐNG VĨNH CỬU
Lời Chúa : “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40)
Ý chính : 1. Tín điều thân xác con người sẽ sống lại (Rm 8,11 ; 1 Cr 15,52-53).
2. Thiên đàng - luyện ngục - hỏa ngục (Lc 16,19-31 ; Mt 13,41-42.47-50).
3. Phán xét chung (Mt 25,31-32.46 ; Ga 5,28-29).
Tâm tình : Tạ ơn Chúa vì Chúa cho em có thể được sống mãi với Chúa.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giê-su, giữa lúc nhiều bạn cùng trang lứa với con, vì hoàn cảnh, vì môi trường, không có điều kiện để được đến với Chúa, thì chúng con được diễm phúc lắng nghe và học hỏi Lời Chúa. Xin nâng đỡ và an ủi các bạn của chúng con. Xin ban ơn cho chúng con trong giờ giáo lý này, để chúng con khi đã hiểu về Chúa thì biết yêu mến Chúa hơn, và cũng biết yêu mến anh em mình hơn.
3. Giới thiệu bài mới :
- Đố các em bài 12 chúng ta vừa học lần trước có tựa đề là gì ?
+... (ơn tha tội).
- Chúa sẵn sàng tha thứ tội lỗi để ta được sống hạnh phúc mãi mãi với Chúa. Đây là nội dung bài giáo lý hôm nay : Ơn Phục sinh và đời sống vĩnh cửu.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một hôm ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi : “Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì ?”
Có nhiều câu trả lời khác nhau :
- Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.
- Tôi sẽ dọn mình xưng tội.
- Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.
- Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi !
Câu trả lời ấy của cậu Aloysio Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.
- Làm sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi ?
- Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy !
Aloysio thường nói : “Tôi nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh “đời đời” ; cái nhìn không có giá trị “đời đời”, không xây dựng cuộc sống “đời đời”, không hướng dẫn ta tới cùng đích “đời đời” thì đối với tôi đó là hư vô cả”.
Các em thân mến, dù các em còn trẻ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rồi đây sẽ chết, chúng ta không biết khi nào chết, nhưng chắc chắn sẽ chết. Vì thế chúng ta phải noi gương thánh Gonzaga đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời mà Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa : Ga 6,35.38-40
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Chúa Giê-su bảo họ : “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !
Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Tín điều thân xác con người sẽ sống lại. (Rm 8,11 ; 1 Cr 15,52-53).
“Đấng làm cho Chúa Giê-su sống lại... cũng sẽ làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).
- Đố các em, ở trần gian này có ai sống hoài, sống mãi không, các em ?
+ ...
- Không ai có thể sống mãi được. Ông bà chúng ta sống thọ lắm là 100 tuổi, nhưng cuối cùng thì cũng phải chết thôi, phải không các em ? Nhưng sau khi chết, thân xác ta được mang đi
đâu ? Rồi sẽ ra sao ?
+ ...
- Thân xác ta được chôn vào lòng đất hay hỏa táng, và trở thành mục nát tro bụi. Nhưng trong Lời Chúa các em vừa nghe, Chúa Giê-su cho chúng ta biết gì về thân xác ta vào thời sau hết ?
+ ... (Được sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giê-su tuyên bố : “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” - Ga 6,54).
- À, đúng rồi, Chúa sẽ cho thân xác đã chết được sống lại vào ngày sau hết, nghĩa là ngày tận thế đó ! Các em có tin điều này không ?
+ …
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô cũng nói rõ : “Đấng làm cho Chúa Giê-su sống lại cũng sẽ làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Người còn khẳng định : “Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1 Cr 15,53).
Chúng ta tin không phải do tự mình nghĩ ra, nhưng do chính Chúa Giê-su dạy cho ta biết. Điều này chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh tin kính : “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại...”
Cho dù sau khi chết, thân xác có mục nát thành tro bụi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại trong ngày sau hết. Đó là quyền năng của Chúa.
- Các em còn nhớ : thân xác chúng ta do ai tạo nên ?
+ ...
- À do Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không chỉ có xác, mà còn có gì nữa các em ?
+ ...
- Còn có linh hồn. Vậy khi ta chết, mắt nhắm lại, không còn thở nữa, sau đó đem đi chôn. Còn linh hồn có chết không ?
+ ...
- Lúc ta chết thì chỉ có xác chết mà thôi, linh hồn thiêng liêng nên không chết được. Vậy thì lúc đó linh hồn đi đâu ?
+ ... (Linh hồn đến gặp Chúa Ki-tô để được xét xử về quãng thời gian sống chúng ta đã làm được gì. Chúng ta có thực hiện những điều Chúa dạy không, và thực hành như thế nào !)
Tin thân xác con người sẽ sống lại, nên ta phải tôn trọng thân xác của mình cũng như của tất cả mọi người.
Các em hãy vui sướng và tạ ơn Chúa vì Người đã dựng nên em giống hình ảnh Chúa để em có thể được sống mãi với Chúa.
2. Thiên đàng - luyện ngục - hỏa ngục. (Lc 16,19-31;Mt 13,41-42.47-50).
(GLV lược kể dụ ngôn người giàu có và anh nghèo La-da-rô trong Lc 16,19-26, rồi nói tiếp :)
Chúa Ki-tô được Chúa Cha trao quyền xét xử để thưởng phạt mọi người. Dụ ngôn người giàu và anh nghèo La-da-rô các em vừa nghe nói đến việc thưởng phạt khi con người chết. Người giàu có keo kiệt nên bị phạt trong hỏa ngục, còn La-da-rô biết sống nghèo khổ, được thiên thần rước lên thiên đàng.
- Như vậy ngay sau khi chết, linh hồn đến trươc tòa Chúa Ki-tô để làm gì ?
+ ...(chịu phán xét riêng về quãng đời đã sống trên trần gian).
- Chúa phán xét về những gì ?
+ … (về tất cả cuộc đời ta sống trên trần gian).
- Sau đó linh hồn đi đâu ?
+ ...(sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng hoặc chịu phạt đời đời trong hỏa ngục, hoặc phải thanh luyện trong luyện ngục.
a) Thiên đàng là gì ?
(Mt 13,41 ; 1 Pr 1,3-5)
Thiên đàng hay còn gọi là Nước trời không phải là ở trên tầng mây xanh đâu, nhưng là một tình trạng hạnh phúc, được sống hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ Ma-ri-a, với các thiên thần, với các thánh. Tình trạng sung sướng hạnh phúc mà trong đoạn Tin mừng cho ta thấy ông La-da-rô được hưởng sung sướng, vinh quang, được nhìn thấy Chúa cách trọn vẹn. Thánh Phao-lô diễn tả hạnh phúc ấy như sau : “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9).
(Nếu có thời giờ, GLV có thể quảng diễn về Thiên đàng dựa vào 2 Cr 12,2-4 hoặc hạnh phúc của người con được sống với cha mẹ).
- Ai được lên thiên đàng ?
+ ... (Những người đã chết trong ân nghĩa Chúa và được thanh luyện toàn hảo, nghĩa là không còn vướng mắc tội lỗi. Khi sống ở trần gian thực thi trọn vẹn Lời Chúa dạy).
Các em thân mến, thiên đàng tốt đẹp vô cùng, đây mới thật là quê hương của chúng ta. Nơi đó, chúng ta được sống với Chúa. Đó chính là Nước Trời mà Chúa Giê-su hứa ban cho những ai biết sống đúng theo lời Người : kính mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người.
b) Hỏa ngục là gì ? (Lc 16,19-31 ; Mt 13,41-42 ; Mc 9,42-49.47-50).
Chúa Giê-su đã nhiều lần nhắc tới hỏa ngục bằng những hình ảnh : nơi “khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,42), nơi “lửa không hề tắt” (Mc 9,42.48). Thật ra, hỏa ngục không phải là nơi nào đó, mà là tình trạng đau khổ vì con người phải sống xa cách Thiên Chúa, không được nhìn thấy Chúa đời đời. Đó là hình phạt khủng khiếp nhất.
(GLV lược kể các đoạn Tin mừng Lc 16,19-31; Mt 13,41-42 ; Mc 9,42-43 v.v… để giúp các em có ý niệm về hoả ngục).
- Các em có biết ai phải vào hỏa ngục không ?
+ ... (Những ai cố tình từ chối Thiên Chúa. Không muốn hiệp thông với Chúa và Hội thánh. Đó là những người cố tình phạm tội nặng, xúc phạm đến Thiên Chúa, đến mọi người mà không chút ăn năn hối cải. Thiên Chúa không muốn cho ai phải xuống hỏa ngục. Nhưng chính mỗi người tự lựa chọn điều này).
- Các em có sợ phải xuống hỏa ngục không ?
+...
Sợ thì chúng ta phải tôn thờ Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực mình. Cụ thể, luôn cố gắng làm theo ý Chúa, tránh xa dịp tội và dứt khoát với tội lỗi.
c) Luyện ngục là gì ?
(1 Cr 3,13-15 ; Mt 3,12)
Ngoài thiên đàng, hỏa ngục còn một tình trạng linh hồn phải được thanh luyện trong một thời gian ta gọi là luyện ngục. Đây là việc thanh luyện sau cùng của những người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những người bị án phạt hoả ngục. (GLV có thể vận dụng những đoạn Kinh Thánh 1 Cr 3,13-15 ; Mt 5,26 để giúp các em có ý niệm về luyện ngục).
- Những ai phải vào luyện ngục ?
+... (Những người đã chết trong ân nghĩa Chúa nhưng chưa đạt tới sự thánh thiện cần thiết để hưởng hạnh phúc thiên đàng, phải có thời gian để thanh luyện).
Hội thánh khuyên ta nên cầu nguyện, làm việc hy sinh giúp cho các linh hồn nơi luyện ngục được sớm lên thiên đàng.
Các en thân mến, các em cũng như chị, chắc chắn sẽ chết, mà chết không phải là hết, thân xác tan rữa nhưng sẽ sống lại vào ngày tận thế. Còn linh hồn sẽ đến trước Chúa Ki-tô để chịu phán xét riêng. Tùy theo tội phúc ở trần gian mà chúng ta sẽ lên thiên đàng hoặc phải thanh tẩy trong luyện ngục hoặc phải sa hoả ngục. Chắc chắn các em cũng như chị, đều muốn lên thiên đàng, sợ luyện ngục và kinh hãi hoả ngục. Vậy chúng ta cố gắng sống thánh, lập nhiều công phúc bằng đời sống con thảo tìm kiếm và thực hiện ý Chúa là Cha yêu thương. Sống được như vậy chắc chắn chúng ta sẽ được lên thiên đàng khi chấm dứt cuộc sống trần gian.
3. Phán xét chung.
(Mt 25,31-32.46 ; Ga 5,28-29)
Ngay sau khi chết mỗi người được phán xét riêng, nhưng sẽ còn một cuộc phán xét chung mà Lời Chúa trong Tin mừng Mát-thêu sẽ cho chúng ta biết.
Các em đứng nghe Lời Chúa (Mt 25,31-40).
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom ; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng : “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống ; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước ; hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?” Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng : “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát, rồi mời ngồi).
- Cuộc phán xét chung xảy ra khi nào ?
+... (khi Đức Ki-tô vinh quang trở lại).
Đúng rồi, đoạn Tin mừng vừa rồi cho ta biết sẽ có phán xét chung khi Chúa Ki-tô đến trong vinh quang có các thiên thần hộ tống.
- Lần này Chúa đến để làm gì ?
+...
Để xét xử công khai mỗi người trước mặt mọi dân nước. Mỗi dân tộc sẽ trình diện trước Chúa và Chúa tách biệt người lành, kẻ dữ. Lúc đó, Chúa sẽ phán với người lành : “Hỡi những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm cho anh em”.
- Như vậy, người lành sẽ đi đâu ?
+... (được Chúa thưởng thiên đàng).
- Rồi Chúa phán với người dữ thế nào?
+ … (Hỡi các kẻ khốn nạn, hãy đi khuất mặt Ta mà vào lửa đời đời, đã sắm sẵn cho ma quỷ và các thần dữ).
- Vậy kẻ dữ phải vào đâu ?
+... (vào hỏa ngục nơi vĩnh viễn xa Chúa, đó là nơi đau khổ nhất của con người).
Các em thấy đó, ngày phán xét chung, mọi người không trừ ai, những người sống và những kẻ đã chết đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về những hành vi của mình trong cuộc sống trần gian.
- Vậy các em có muốn vào thiên đàng không ?
+...
Chắn chắn ai trong chúng ta cũng muốn vào thiên đàng, được sống hạnh phúc vĩnh viễn với Chúa ?
- Muốn vào thiên đàng, từ bây giờ em phải làm gì ?
+... (cho các em tự ý trả lời, càng nhiều em tìm được ý trả lời khác nhau càng tốt theo hướng tích cực, rồi GLV tóm ý :)
Ta phải nghe và thực hành Lời Chúa dạy : kính mến Chúa và yêu thương người, biết tránh xa dịp tội, sống ngoan, làm tròn bổn phận của một người con trong gia đình, một em học sinh, một tín hữu Công giáo. Tóm lại là phải sẵn sàng như thái độ của Thánh Gonzaga : tôi chơi thì tôi chứ chơi.
D. Cầu nguyện.
Các em thấy Chúa yêu thương ta như thế nào ! Người luôn mong muốn mời gọi chúng ta sống và thực hiện Lời Chúa để được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Giờ đây, chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa :
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chết và đã sống lại hiển vinh. Xin Chúa dạy chúng con biết chết đi cho tội lỗi và sống trong ân sủng, để sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
“Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
48. H. Khi tuyên xưng : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, ta phải hiểu thế nào ? (GLCG.173)
T. Ta phải hiểu là thân xác con người sau khi chết sẽ hư nát, nhưng Thiên Chúa sẽ cho thân xác ấy được sống lại trong ngày tận thế.
49. H. Khi chết, con người sẽ ra sao ? (GLCG.176)
T. Khi ấy linh hồn đến trước toà Chúa Ki-tô để chịu phán xét riêng về quãng đời đã sống trên trần gian. Sau đó linh hồn lên thiên đàng hoặc vào hoả ngục hay chịu thanh tẩy trong luyện ngục.
50. H. Thiên đàng là gì ? (GLCG.177)
T. Là tình trạng hạnh phúc tràn đầy và vĩnh viễn, vì được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi và cộng đoàn các thánh.
51. H. Hỏa ngục là gì ? (GLCG.178)
T. Là tình trạng đau khổ cùng cực vì phải vĩnh viễn xa cách Thiên Chúa là nguồn sự sống và hạnh phúc.
52. H. Luyện ngục là gì ? (GLCG.179)
T. Là tình trạng thanh tẩy dành cho những người chết trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa đạt tới sự thánh thiện cần thiết để được hạnh phúc thiên đàng.
53. H. Có phán xét chung nữa không ? (GLCG.180)
T. Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Ki-tô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước toà Chúa Ki-tô để trả lẽ về các hành vi của mình.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
(GLV có thể sinh hoạt sau khi diễn giải mội dung mỗi Ý chính của bài theo tập Sinh hoạt ĐBTT).
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại tình trạng mỗi người sau khi chết để động viên các em nhất trí :)
Em quyết tâm chu toàn bổn phận hằng ngày để được sống hạnh phúc.
3. Bài làm ở nhà :
Ghi bản xét mình hằng ngày vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
Các em thân mến,
Bài học hôm nay đã cho chúng ta biết cuộc đời mình không chấm dứt sau cái chết, nhưng có đời sống khác sau khi chết. Đó là những tình trạng thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục. Vậy thì ngay từ bây giờ, các em cố gắng sống tốt, ngoan ngoãn, vâng nghe và thực thi Lời Chúa dạy, để đáng được hưởng phúc thiên đàng nha các em.
- Đọc kinh Sáng danh - (Chào nhau).
Phần II : SỐNG TRONG CHÚA KI-TÔ
Bài 14
CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,23).
Ý chính : 1. Con người là hình ảnh Thiên Chúa Ep 4,23).
2. Con người làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa (2 Cr 11,3).
3. Chúa Ki-tô phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người (Rm 8,2-3).
4. Sống như môn đệ Chúa Ki-tô (Mt 5,1-12).
Tâm tình : Sung sướng và cảm ơn Chúa vì Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa.
Chuẩn bị : - Bàn Lời Chúa.
- Tranh vẽ hình ảnh một em bé xinh đẹp.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
- GLV tươi cười đón tiếp các em, trò chuyện thăm hỏi.
- GLV cùng các em chuẩn bị giờ học.
2. Thánh hóa :
GLV nói một vài lời hướng các em về Chúa cùng nhau đọc kinh lạy Cha.
3. Giới thiệu phần II :
“Sống trong Chúa Ki-tô”.
Suốt năm tháng học Giáo lý này, chúng ta học hỏi về mầu nhiệm Chúa Ki-tô để khám phá ra Thiên Chúa là Cha quyền năng, đầy yêu thương và mọi người là anh chị em với nhau.
Trong Phần I, Đức tin mà chúng ta tuyên xưng không chỉ là một hiểu biết, một lời nói suông nhưng đức tin mà chúng ta tuyên xưng là đức tin sống động, hiểu biết và thực hiện trong đời sống. Trong phần II này chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Chúa Ki-tô : Chúa Ki-tô đã sống và dạy thế nào, chúng ta cố gắng đón nhận và sống như vậy. Trước tiên, chúng ta cùng nhau nhìn lại phẩm giá con người chúng ta : con người là hình ảnh Thiên Chúa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ất là một cậu út của gia đình ông bà Tuấn. Ất có khuôn mặt giống ba, đôi mắt giống má, lại ngoan ngoãn.
Ất lớn lên, vẫn đạo đức, ngoan ngoãn khiến mọi người yêu quí và thèm cái diễm phúc của gia đình ông bà Tuấn : con giống cha là nhà có phúc. Không những giống diện mạo mà cả tính tình !
Nhưng từ ngày bà Tuấn chết, Ất buồn chán, lại gặp một số bạn xấu. Dần dần nghe theo bạn, học “mốt” của các bạn xấu đó. Thấy Ất thay đổi cách sống … Ông Tuấn rất khổ tâm, hết sức khuyên nhủ, thuyết phục. Ất không những không nghe lại còn trộm cắp tiền của gia đình, bỏ nhà đi chơi hoang với các bạn. Cuộc đời phong sương làm cho khuôn mặt Ất mất cả những nét giống cha, giống mẹ. Ông Tuấn hết nước mắt khóc con, nhọc công tìm kiếm. Nhờ báo đài và người thân tìm mãi, ông mới gặp Ất trong một túp lều tranh lụp xụp bên đường, đang lên cơn sốt nặng mà chẳng có ai chăm sóc. Ông Tuấn vội vàng chở Ất vào bệnh viện cấp cứu. Nhờ các bác sĩ, y tá tận tâm và nhất là nhờ tình thương chăm sóc của ông Tuấn, Ất bình phục. Trên giường bệnh Ất có giờ suy nghĩ và thấy được cái sai, cái lỗi của mình. Ất hối hận thưa với ba : “Con xin lỗi ba, con đã phạm tội trái lời ba. Xin ba tha thứ cho con”. Ất chưa dứt lời, ông Tuấn đã ôm chầm lấy Ất... ông rút chiếc khăn mặt ở đầu giường nhẹ lau những giọt nước trên mặt Ất và cả trên mắt ông nữa !
Các em thân mến. Câu chuyện này không chỉ đúng ở trường hợp của Ất mà có lẽ đúng cho cả chúng ta, cho chị và cho các em nữa đó. Chúng ta hãy sớm tỉnh ngộ nghe lời khuyên của thánh Phao-lô (mời các em đứng) :
B. Công bố Lời Chúa (Ep 4,23).
Lời Chúa trong thư thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô.
“Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.”
Đó là Lời Chúa
+ Tạ ơn Chúa.
(GLV đặt sách lên bàn lời Chúa, thong thả nhắc lại Lời Chúa vừa đọc bằng ngôn ngữ phù hợp với trình độ hiểu biết của các em).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Con người là hình ảnh Thiên Chúa (Ep 4,23).
- Trong hai bài đầu của ĐBTT, các em đã học Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật : mặt trời, mặt trăng, tinh tú, sông núi, muôn vật, muôn loài... đều do Thiên Chúa sáng tạo. Khi đã sáng tạo tất cả mọi sự tốt đẹp rồi, Thiên Chúa tạo dựng con người. Các em còn nhớ Thiên Chúa tạo dựng con người theo mấy bước không ?
+ ... (GLV gợi ý cho các em nhớ lại 5 bước trong việc tạo dựng con người :)
* Bước 1 : có ý định : “Ta hãy làm ra con người”.
* Bước 2 : chọn kiểu mẫu : “giống hình ảnh Ta”.
* Bước 3 : thực hiện : lấy đất nắn nên hình người.
* Bước 4 : ban sự sống : thổi hơi vào mũi.
* Bước 5 : đặt con người vào cuộc sống hạnh phúc : cho ông bà ở vườn địa đàng và làm chủ muôn loài.
- Kinh Thánh đã diễn tả công cuộc tạo dựng con người theo cách thế của chúng ta (từng bước, từng bước) để giúp chúng ta khám phá ra sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa dành cho con người. Khi nói Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Kinh Thánh muốn nói gì, các em ?
+ ...
Kinh Thánh muốn nói Thiên Chúa ưu ái con người, muốn thông ban cho con người chính sự tốt lành của Thiên Chúa. Cụ thể là : trí khôn tài giỏi, ý chí vững vàng, tình yêu nồng thắm và nhất là linh hồn thiêng liêng. Nhờ những tài năng này, ngay từ trong lòng mẹ, con người đã hướng về sự thiện đích thực và hạnh phúc muôn đời. Cha ông chúng ta đã nhận định rất đúng khi nói : nhân chi sơ, tính bản thiện (con người từ nhỏ vốn có bản chất là tốt)
- Khám phá lại con người ban đầu của chúng ta như thế, chúng ta thấy thế nào ?
+ ...
- Thiên Chúa yêu hay ghét con người ?
+ ... (yêu)
- Yêu nhiều hay yêu ít ?
+ ... (nhiều)
- Nhiều vừa hay nhiều lắm ?
+ ... (nhiều lắm)
- Em nào có thể kể lại cho các bạn những biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người ?
+ ... (GLV gợi ý và khích lệ các em phát biểu. Nếu có bảng đen, GLV ghi lên những phát hiện theo một thứ tự hợp lý :)
* Thiên Chúa sáng tạo tất cả những gì cần thiết và tốt đẹp cho con người rồi mới tạo dựng con người.
* Khi tạo dựng con người. Kinh Thánh diễn tả lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho con người qua 5 bước (như trên).
Vậy chúng ta hãy cảm tạ Chúa, yêu mến Chúa và cố gắng sống tốt để hình ảnh Thiên Chúa tốt mãi trong cuộc đời chúng ta, đừng như em Ất làm hoen ố danh giá và hình ảnh cha mẹ trên khuôn mặt và đời sống mình.
2. Con người làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa (2 Cr 11,3).
- Thiên Chúa đã yêu thương con người như thế đó ! Đã ưu ái trao ban cho con người những sự chăm sóc ân cần, những điều tốt đẹp, làm cho con người trổi vượt hơn tất cả mọi tạo vật trong thế giới hữu hình này. Tuy nhiên, như các em đã biết, con người có giữ được nguyên vẹn hình ảnh Thiên Chúa nơi mình không ?
+ ... (không)
- Con người đã sa ngã, nghe theo ma quỉ xúi dục, Adam-Evà, tổ tông loài người đã từ bỏ Chúa, làm theo ý thích của mình giống như Ất đã bỏ tình thương của ba là ông Tuấn, đi theo bạn bè làm hoen ố danh giá bản thân và gia đình, làm cho khuôn mặt và con mắt chẳng còn giống ai ! Các em thấy có đáng buồn không ?
+ ... (có)
- Quả thật, rất đáng buồn vì từ khi con người sa ngã, hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người bị hoen ố, phai mờ. Con người bị dục tình xúi bẩy làm điều xấu, lòng trí dễ hướng về điều xấu và dễ bị sai lầm. Cụ thể, chúng ta, các em cũng như chị , đi chơi thì thích hơn hay đi học thích hơn ?
+ ...
- Đang ngủ ngon mà má kêu đi lễ, các em có dễ bỏ giấc ngủ để đi lễ không?
+ ...
- Đang chơi vui với bạn, ba kêu về đi học. Các em vui hay buồn ?
+ ...
- Nhìn 2 người, một giàu sang, ăn mặc bảnh bao, mặt mày sáng sủa, tay đeo đầy vàng và một người nghèo, ăn mặc bẩn thỉu, mặt mày lem luốc tay cầm gậy, đầu đội nón. Các em thường quí trọng ai hơn ?
+ ...
- Đấy con người sau nguyên tội là thế đó : lòng trí dễ hướng về điều xấu và dễ bị sai lầm. Thánh Phao-lô đã nói lên tình trạng suy thoái của con người sau nguyên tội như sau :”tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà Evà thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Chúa Ki-tô như vậy.” (2 Cr 11,3). Chúng ta phải thẳng thắn nhìn ra sự thật này để biết sống khiêm tốn, dễ lắng nghe lời dạy của Chúa qua cha mẹ, thầy cô, và nhất là vâng lời các Cha, các Thầy, Dì, GLV... Các em có nhất trí không ? Em nào nhất trí giơ tay !
+ ... (giơ tay, vỗ tay nhất trí)
3. Chúa Ki-tô phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người
(Rm 8,2-3).
Qua 2 ý chính (tiết) trên đây, chúng ta đã lần lượt thấy :
- Con người đầu tiên tốt đẹp hay xấu xa ?
+ ... (tốt đẹp vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa).
- Nhưng rồi con người có giữ được nguyên vẹn hình ảnh Thiên Chúa nơi mình không ?
+ ... (không, tội lỗi đã làm tổn thương hình ảnh ấy nơi con người)
- Dù vậy, Thiên Chúa có bỏ mặc con người không ?
+ ... (không, Thiên Chúa chẳng bỏ mà lại hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người).
- Tình yêu của Thiên Chúa còn lớn lao hơn cả tội lỗi của con người. Dù con người không đón nhận sự chăm sóc, lòng yêu thương cao vời và thiết thực của Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn yêu thương và như các em biết Thiên Chúa đã sai ai đến trần gian để phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người ?
+ ... (Chúa Giê-su Ki-tô)
- Phải. Thiên Chúa đã sai Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người đến trần gian để khôi phục hình ảnh Thiên Chúa đã bị tổn thương nơi con người, như thánh Phao-lô dạy (mời các em đứng).
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma (Rm 8,3-4).
“Điều mà lề luật không thể làm được, vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm : khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình. Thiên Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa. (mời ngồi).
- Chúa Giê-su Ki-tô đã làm người để khôi phục hình ảnh nào nơi loài người chúng ta ?
+ ...
Chúa Giê-su Ki-tô đến mang thân xác giống như thân xác chúng ta để đền tội chúng ta. Chúa đã chết và sống lại để phục hồi hình ảnh ấy cho những ai tin vào Người và sống như môn đệ Người.
4. Sống như môn đệ Chúa Ki-tô
(Mt 5,1-12)
- Chúa Giê-su đã đến trần gian chưa ?
+ ... (rồi)
- Trong biến cố nào ?
+ ... (Giáng sinh)
- Hàng năm chúng ta mừng lễ Giáng sinh thật linh đình để tưởng nhớ biến cố Chúa Giê-su đến trần gian phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Chúa Giê-su đã chết và sống lại chưa ?
+ ... (rồi)
- Trong biến cố nào ?
+ ... (biến cố Chúa chịu chết và sống lại)
- Hội thánh tưởng niệm biến cố này vào dịp nào trong năm ?
+ ... (tuần thánh, lễ phục sinh).
- Hằng ngày, nhất là Chúa nhật, Hội thánh tưởng niệm biến cố này khi nào ?
+ … (khi cử hành Thánh lễ).
- Như vậy, Thiên Chúa đã phục hồi hình ảnh Chúa nơi loài người chưa ?
+ ... (rồi)
- Ta đã được phục hồi, và Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được phục hồi hình ảnh đó. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phục hồi chưa ?
+ ... (chưa)
- Chỉ những ai tin vào Chúa Ki-tô sống như môn đệ Chúa Ki-tô. Thế nào là sống như môn đệ Chúa Ki-tô ?
+ ...
Chúa Giê-su đã chỉ dạy cho con người cách sống làm môn đệ Chúa và thánh Mát-thêu đã ghi lại trong sách Tin mừng I : (mời đứng)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu (Mt 5,1-12).
“Thấy đám đông, Chúa Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì nước trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành vì họ được nước Chúa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính vì nước trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(GLV có thể cho các em đọc và học thuộc kinh 8 mối phúc thật)
Các em cố gắng học thuộc kinh 8 mối phúc thật và hàng ngày sống theo 8 mối phúc thật để được trở thành môn đệ Chúa Ki-tô.
D. Cầu nguyện :
Cảm nhận được tình Chúa yêu thương ta ngay cả khi chúng ta phạm tội. Chúng ta cùng dâng lên Chúa Tâm tình cảm tạ và cầu xin. “Lạy Cha là Thiên Chúa yêu thương, Cha đã dựng nên con theo hình ảnh Cha. Xin giúp con luôn biết sống đẹp lòng Cha, đừng bao giờ phạm tội làm hoen ố hình ảnh Cha”.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA
(GLV cũng cố bài về con người qua ba thời kỳ để giúp các em hình thành bài học)
“Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”(Ep 4,23).
54. H. Tại sao con người là hình ảnh Thiên Chúa ? (GLCG.287)
T. Vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, ban cho có linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ và ý chí tự do. Cho nên ngay từ trong lòng mẹ, con người đã hướng về sự thiện đích thực và hạnh phúc muôn đời.
55. H. Con người có giữ được nguyên vẹn hình ảnh Thiên Chúa nơi mình không ? (GLCG.288)
T. Không, tội lỗi đã làm tổn thương hình ảnh ấy nơi con người, khiến họ dễ hướng về điều xấu và dễ bị sai lầm.
56. H. Chúa Ki-tô đã làm gì để phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con người? (GLCG.289)
T. Chúa Ki-tô đã chết và sống lại để phục hồi hình ảnh ấy cho những ai tin vào Người và sống như môn đệ Người.
57. H. Sống như môn đệ Chúa Ki-tô là thế nào ? (GLCG.290)
T. Là thực hiện tinh thần bài giảng trên núi được gồm tóm trong các mối phúc thật.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
GLV nhắc lại con người là hình ảnh của Thiên Chúa để gợi ý cho các em nhất trí một việc thực hành, ví dụ :
“Ban sáng khi thức dậy, em nhớ mình là hình ảnh của Thiên Chúa”.
3. Bài làm ở nhà :
Nhớ mình là hình ảnh của Thiên Chúa, em tự tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày.
V. KẾT THÚC.
GLV nhắc lại các Ý chính trong bài và việc thực hành bài giáo lý, sau đó đọc kinh Sáng danh, chào nhau ra về.
Lời Chúa : “Dân ngoại là những người không có Luật Môi sê, nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy thì họ là Luật cho chính mình” (Rm 2,14).
Ý chính : 1. Lương tâm là gì ? (Rm 2,14).
2. Nghĩa vụ nghe theo tiếng lương tâm.(Tl 30,11-14 ; 1 Tm 1,5).
3. Huấn luyện lương tâm (Rm 12,1-2)
Tâm tình : - Cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho lương tâm ngay thẳng.
- Khao khát được sống trong tình yêu của Chúa.
Chuẩn bị : Bàn Lời Chúa.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
- GLV vui vẻ đón tiếp các em, vui tươi gần gũi.
- GLV hướng dẫn các em chuẩn bị vào lớp.
2. Thánh hóa :
Các em đứng nghiêm trang dâng buổi học giáo lý đọc kinh Chúa Thánh Thần.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong tâm trí chúng ta luôn có tiếng nói nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng. Đó là lương tâm. Hôm nay chúng ta học về lương tâm.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Tuấn và Phương là đôi bạn chơi với nhau rất thân nhưng khác tôn giáo. Tuấn thường khoe và cũng hay thắc mắc với ba má : “Phương là người ngoại giáo không được học 10 giới răn của Chúa, cũng như 6 điều răn Hội thánh, bạn mình cũng chẳng biết gì về luật Chúa, sao bạn mình sống rất tốt. Ai gặp khó khăn, bạn sẵn sàng giúp đỡ. Bạn không biết chửi bậy, nói dối, gian tham...”
Má Tuấn thong thả giải thích :”Con đã học con người là tạo vật mang hình ảnh và sự sống của Thiên Chúa. Nên con người luôn hướng về sự thiện và hạnh phúc muôn đời. Biết được sự thiện, đó là nhờ lương tâm mà Chúa đã đặt trong mỗi người, dù công giáo hay ngoại giáo”.
Lương tâm là gì, chúng ta nghe Chúa dạy trong sách thánh sau :
(mời các em đứng :)
B. Công bố Lời Chúa :
Bài trích thơ thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma (Rm 2,14).
“Dân ngoại là những người không có Luật Môi-sê, nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy thì họ là Luật cho chính mình”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Sau khi công bố Lời Chúa, GLV đặt sách lên bàn Lời Chúa).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Lương tâm là gì ? (Rm 2,14)
- Trong đoạn thư của thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Rô-ma vừa nghe, Thánh Phao-lô đã nói tới dân ngoại. Dân ngoại là ai ?
+ ...
Họ là những người không thuộc dân Do thái nên không biết luật Mô-sê, các em sẽ học ở bài 19 về luật Mô-sê. Đây là 10 điều luật Thiên Chúa ban cho dân Do thái khi họ ký hợp đồng (giao ước) với Thiên Chúa tại núi Si-nai để giúp họ sống đúng hợp đồng (giao ước) đó. Người Do thái gọi những người thuộc các dân tộc khác, là dân ngoại.
Những dân ngoại này không biết luật Mô-sê nên họ không sống theo luật Mô-sê. Ngày nay, ta gọi là dân ngoại những người chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Tuy nhiên, trong suy nghĩ, tâm trí và hành động, họ cũng biết điểm nào là đúng, việc gì là sai. Họ cũng được mời gọi làm lành tránh ác. Điểm gì tốt thì người Do thái hay dân ngoại, Công giáo hay không công giáo đều được thúc giục tự trong lòng, trong trí phải làm ; điều gì xấu thì con người cảm thấy bị ngăn cản không được làm. Những điều tốt xấu này gọi là luật tự nhiên. Luật tự nhiên Chúa đã ghi khắc vào tâm trí của mọi người được gọi là lương tâm, thí dụ : bạn Tuấn trong túi có hai ngàn đồng. Người bạn nghèo hỏi mượn 500đ mua cây viết. Trong sâu kín của lòng mình, Tuấn nghe như có tiếng nói : cho đi, bạn ấy nghèo đang cần cây viết để viết bài.
(GLV có thể lấy nhiều thí dụ khác để giúp các em hiểu lương tâm là gì và cùng nhau củng cố định nghĩa lương tâm là gì - câu 58 ĐBTT).
Thiên Chúa đã đặt sẵn nơi lòng mỗi người một luật tự nhiên để hướng dẫn con người làm lành, xa tránh điều xấu, tức là điều gì tốt thì thúc giục con người phải làm, điều gì xấu thì ngăn cản không được làm.
2. Nghĩa vụ nghe theo tiếng lương tâm (Tl 30,11-14 ; 1 Tm 1,5).
- Trong thí dụ trên, nếu Tuấn nghe theo tiếng lương tâm mà cho bạn nghèo 500đ thì tự nhiên Tuấn cảm thấy làm sao ?
+ ... (vui)
- Ngược lại, nếu Tuấn tàn nhẫn nói : tớ không có đồng nào cả. Dù không ai biết Tuấn có tiền, không ai biết Tuấn nói dối nhưng Tuấn vẫn cảm thấy làm sao ?
+ ... (buồn)
- Như thế, chúng ta có nghĩa vụ nghe theo tiếng lương tâm không ?
+ ... (có)
[GLV có thể minh hoạ bằng câu chuyện Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra gian dối và chết tức tưởi (x. Cv 5,1-10)].
3. Huấn luyện lương tâm.
(Rm 12,1-2)
- Tuy nhiên, con người chúng ta hôm nay là con người sau nguyên tội hay trước nguyên tội ?
+ ... (sau nguyên tội)
- Tội lỗi đã làm cho hình ảnh Thiên Chúa nơi con người ra thế nào, các em ?
+ ... (GLV giúp các em đọc lại câu 55 ĐBTT)
- Mọi người chung quanh chúng ta có tốt lành tất cả không ?
+ ... (không)
- Trái lại có nhiều bạn xấu, người xấu luôn xúi giục chúng ta làm bậy, chẳng hạn, xúi chúng ta nói dối, ăn cắp, ăn trộm, gây gỗ nhau... Gần mực thì làm sao các em ?
+ ... (thì đen)
- Vì thế lương tâm chúng ta dễ bị lu mờ, dễ bị lệch lạc : điều tốt lại cho là xấu, điều xấu lại bảo là tốt... Vì thế, cần phải đào tạo, huấn luyện lương tâm. Các em có biết cách huấn luyện lương tâm không ?
+ …
Thánh Phao-lô đã chỉ cho ta cách thế đào tạo lương tâm. Mời các em đứng nghe Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma (Rm 12,1-2).
“Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa. (mời ngồi)
- Thánh Phao-lô đã chỉ cho ta cách thế huấn luyện lương tâm. Em nào phát hiện những cách thế huấn luyện nào?
+ ... (GLV dựa theo câu Rm 12,2 để giúp các em xác định :)
* Đừng rập theo đời này : xa tránh tội lỗi, xa tránh dịp tội, sách báo, phim ảnh xấu, bạo lực...
* Cải biến con người bằng cách đổi mới tâm hồn : cầu nguyện - học hỏi Lời Chúa, nghe theo giáo huấn Hội thánh, vâng lời những người có trách nhiệm dạy dỗ, năng bàn hỏi với những người đạo đức khôn ngoan.
Riêng đối với các em, những người chuẩn bị để đón rước Chúa vào lòng lần đầu tiên trong đời, các em cần phải siêng năng hơn nữa trong việc đi dâng lễ, siêng năng cầu nguyện học hỏi giáo lý để huấn luyện lương tâm, và để Chúa thêm ơn, giúp sống theo luật Chúa. Giờ đây các em hãy thinh lặng và cầu xin Chúa.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin giúp con luôn nghe theo tiếng lương tâm mà tuân giữ các giới răn Chúa, để con hằng ở trong tình yêu của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
GLV củng cố bài sau khi dẫn giải các ý chính.
“Dân ngoại là những người không có luật Mô-sê ; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình”(Rm 2, 14).
58.H. Lương tâm là gì ? (GLCG.303)
T. Lương tâm là luật tự nhiên mà Thiên Chúa đã đặt sẵn nơi đáy lòng mỗi người để soi dẫn họ làm lành lánh dữ.
59. H. Ta phải nghe theo tiếng lương tâm thế nào ? (GLCG.304)
T. Ta buộc phải luôn lắng nghe và làm theo tiếng lương tâm.
60. H. Ta phải làm gì để đào tạo lương tâm mình ? (GLCG.306)
T. Ta phải xa lánh tội lỗi, phải cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, nghe theo các giáo huấn của Hội thánh, vâng lời những người có trách nhiệm dạy dỗ ta và năng bàn hỏi với những người đạo đức khôn ngoan.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
GLV vận dụng bài hát, câu hò, băng reo giúp các em thư giãn và dễ hiểu bài.
2. Thực hành :
Luôn sống theo lương tâm ngay thẳng.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi vào tập bài làm một câu giúp huấn luyện lương tâm.
V. KẾT THÚC.
GLV nhắc nhở các em học bài, nhất là việc thực hành sống giáo lý. Sau đó mời các em đứng lên kết thúc bằng kinh Sáng danh.
(chào nhau).
Lời Chúa : “Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
Ý chính : 1. Nhân đức là gì ? (Pl 4,8 ; 1 Tm 4,8)
2. Ba nhân đức đối thần (1 Cr 12,31 ; 13,1-13 ; Yc 2,17).
Tâm tình : Cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho ta được làm con Chúa và được Chúa ban cho Đức Tin - Cậy - Mến.
Chuẩn bị : Bàn Lời Chúa. Sách thánh mở đoạn Pl 4,8.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV hỏi thăm các em sau đó chuẩn bị cho các em vào lớp.
2. Thánh hóa :
GLV hướng dẫn các em đứng nghiêm trang làm dấu Thánh giá và đọc kinh Lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
(Tương tự như bài trước).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Hảo, một bé trai 7 tuổi, rất thèm thuồng khi thấy các bạn đi xe đạp ngon lành. Ngày nọ, Hảo xin Thái cho mượn xe. Vừa ngồi lên đã bị té khiến Hảo sợ nhưng nhờ Thái khuyến khích và giữ cho, Hảo ngồi được một quãng. Thái buông ra làm Hảo té nhào và bị trầy chân. Hôm sau, Hảo lại xin Thái tập cho. Chỉ hai ngày sau Hảo biết đi xe. Tới nay, Hảo đi xe thạo chẳng thua ai cùng trang lứa.
Các em thân mến, có nhiều em đã từng có kinh nghiệm đau xót khi tập xe đạp nhưng nhờ kiên nhẫn đã thành công. Về nhân đức cũng vậy, nếu chúng ta cố công tập luyện, chúng ta sẽ thực hiện được, như Thánh Phao-lô khuyến khích chúng ta. Mời các em đứng nghe Lời Chúa :
B. Công bố Lời Chúa : Pl 4,8-9
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi cho Phi-líp-phê.
“Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(mời các em ngồi)
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Nhân đức là gì ? (Pl 4,8;1 Tm 4,8)
Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta cố công tìm kiếm những gì là chân thật, cao quí, chính trực, tinh tuyền, những gì đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh. Những gì đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe ở nơi thánh nhân thì hãy đem ra thực hành. Và như vậy là người có nhân đức. Vậy nhân đức là gì ?
- Sáng nào khi thức dậy, việc đầu tiên các em thường làm là gì ?
+... (đọc kinh dâng ngày)
- Trong 10 ngày thì đến 9 ngày, khi thức dậy em đều đọc kinh dâng ngày trước tiên rồi sau đó mới làm gì thì làm. Người ta nói : em có thói quen dâng ngày mỗi sáng. (GLV có thể dùng thí dụ khác để giúp các em hiểu thế nào là THÓI QUEN). Vậy thói quen là gì ?
+ …
- Những việc chúng ta thường làm và làm một cách dễ dàng mỗi ngày hoặc mỗi tuần. Thí dụ : Ba em có thói quen đi lễ buổi sáng tức là mỗi ngày ba thường đi lễ và đi lễ buổi sáng. Còn em, có thói quen nào ?
+... (GLV cho các em phát biểu những thói quen của mỗi em và giúp các em phân biệt thói quen với việc bất thường, đột xuất)
- Một em khi gặp ai, em cũng chào. Em đó có trong thói quen không ?
+... (có).
- Thói quen đó tốt hay xấu ?
+... (tốt).
- Một em cứ bước vào nhà thờ là đi nghiêm trang, không nói chuyện. Em đó có thói quen không ?
+... (có).
- Thói quen đó tốt hay xấu ?
+... (tốt).
Thói quen tốt ấy gọi là nhân đức : nhân đức thờ phượng. (GLV có thể lấy nhiều thí dụ giúp các em hiểu thế nào là nhân đức).
- Hảo trong câu chuyện dẫn nhập đã kiên nhẫn nên đã biết chạy xe đạp như các bạn đồng trang lứa. Ta bảo Hảo có nhân đức gì ?
+... (nhân đức kiên nhẫn).
- Một người luôn can đảm làm mọi việc khó khăn. Ta bảo anh đó có nhân đức gì ?
+... (nhân đức can đảm)
(GLV có thể cho nhiều thí dụ về nhân đức nhân bản : khôn ngoan, công bằng, tiết độ, dũng cảm...)
- Tóm lại, nhân đức là gì ?
+... (GLV giúp các em củng cố thành câu giáo lý 61 ĐBTT : nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn).
2. Ba nhân đức đối thần
(1 Cr 12,31 ; 13,1-13 ; Yc 2,17 ; Dt 10,23.13,29 ; 1 Pr 5.7 ; Ga 4,9-16)
Những nhân đức mà các em vừa phát hiện trên đây là do công sức luyện tập của con người. Còn có những nhân đức mà tự sức con người không thể luyện tập được nếu tiên vàn không có ơn Chúa. Những nhân đức này ta gọi là NHÂN ĐỨC SIÊU NHIÊN mà đứng đầu là 3 nhân đức Đối Thần (Đối Thần, là hướng thẳng tới Chúa, lấy Chúa làm đối tượng).
Để giúp các em hiểu chút xíu về nhân đức đối thần, mời các em nghe Thánh Phao-lô viết trong thư gởi Cô-rin-tô : (1 Cr 12,31 ; 13,13). (Mời đứng).
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
“Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
- Thánh Phao-lô nói đến mấy nhân đức đối thần ?
+... (3 nhân đức đối thần : đức tin, đức cậy, đức mến)
a) Đức tin là gì ?
Mt 8,5-13 ; Rm 4.18-22)
Lần kia khi Chúa Giê-su đến vùng gần thành Xê-da-rê Phi-lip-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Còn anh em, anh em bảoThầy là ai ? Ông Si-mon Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, con Thiên Chúa hằng sống”.
Chúa Giê-su nói với ông : “Này anh Simon, anh thật là người có phúc, vì không phải loài người tỏ cho anh biết điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,13-17).
- Các em thấy trong khi những người khác nói Chúa Giê-su là Ê-li-a, là tiên tri, còn Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là gì, các em ?
+... (Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống).
- Ai tỏ cho Phê-rô biết như thế ?
+... (Cha của Chúa Giê-su, Đấng ngự trên trời).
- Như vậy, đức tin, trước tiên là ơn Thiên Chúa ban. Các em lặp lại đức tin là ơn Thiên Chúa ban.
+...
Khi Chúa Giê-su vào Ca-phar-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Chúa và nài xin : thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm. Chúa Giê-su nói : “Tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội trưởng đáp : “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi. Nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Nghe vậy, Chúa Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng : “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế” và ngay sau đó, người đầy tớ được khỏi bệnh. (x. Mt 8,5-13).
- Các em thấy viên đại đội trưởng đã xin Chúa Giê-su điều gì ?
+... (xin chữa lành cho tên đầy tớ bị tê bại)
- Chúa Giê-su nói gì với ông ta ?
+... (Tôi sẽ đến chữa nó).
- Viên đại đội trưởng đáp lại thế nào ?
+... (tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời thì đầy tớ tôi được khỏi bệnh).
- Chúa Giê-su tuyên dương ông ta cái gì ?
+... (lòng tin).
- Rồi Chúa nói với ông ta thế nào ?
+... (ông cứ về đi, ông tin thế nào thì được như vậy).
- Đứa đầy tớ có được khỏi bệnh không?
+... (có).
- Viên đại đội trưởng được toại nguyện là nhờ có gì ?
+... (lòng tin).
- Như vậy đức tin là gì ?
+... (GLV gợi ý giúp các em hình thành câu giáo lý 62 : Đức Tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội thánh truyền lại cho ta).
- Thiên Chúa đã ban đức tin cho các em chưa ?
+... (rồi).
- Khi nào ?
+... (khi lãnh nhận Bí tích rửa tội).
Đúng rồi,khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta đức tin. Chúng ta phải cảm tạ Chúa và cố gắng làm cho đức tin đó thêm vững mạnh nhờ học giáo lý và siêng năng lãnh nhận Bí tích nhé.
b) Đức cậy là gì ?
(Dt 10,21-23 ; 1 Pr 5,7)
- Cũng như đức tin, đức cậy là ơn Thiên Chúa ban. Thiên Chúa đã ban khi ta lãnh nhận Bí tích rửa tội. Các em còn nhớ, lời hứa đầu tiên mà Thiên Chúa hứa cho loài người là lời nào ?
+... (là hứa ban ơn cứu độ, tiền Tin mừng)
- Thiên Chúa có thực hiện lời hứa đó không ?
+... (có).
- Khi nào ?
+... (khi sai Con Một Người là Chúa Ki-tô xuống thế làm người chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta).
(GLV có thể minh hoạ câu chuyện Ab-ra-ham nhận được lời hứa có con nối dõi dòng họ và I-sa-ac đã được sinh ra cho ông trong tuổi già - St 18,1-14 ; 21,1-7).
- Chúa Giê-su đã nói : ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu rỗi (x. Mt 28,16-20). Chúng ta đã tin và đã chịu phép rửa, chúng ta có được cứu rỗi không ?
+... (có).
Chúa Giê-su còn hứa ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời (x. Ga 6,24). Các em hãy cố gắng học chăm và sống ngoan, đạo đức để được rước lễ, được ăn thịt và uống máu Chúa Ki-tô, các em sẽ được sống đời đời nhé.
c) Đức mến là gì ? (Ga 25,12-17)
Sau khi sống lại Chúa Giê-su đã hiện ra ở bờ biển Hồ. Chúa hỏi ông Phê-rô : “Này anh Simon, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Các em có biết ông Phê-rô trả lời sao không ?
+... (thưa Thầy, có, Thầy biết con yêu mến Thầy)
- Chúa Giê-su hỏi Phê-rô mấy lần ?
+... (3 lần).
- Phê-rô trả lời mấy lần ?
+... (3 lần).
- Phê-rô trả lời làm sao ?
+... (thưa Thầy, có, Thầy biết con yêu mến Thầy).
- Trước khi Chúa Giê-su bị bắt, các em nhớ có lần Phê-rô biểu lộ lòng yêu mến với Chúa bằng câu nói nào không ?
+...
- “Dầu tất cả có vấp ngã về Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. (Ga 26,33). Ông còn mạnh miệng hơn nữa : “Dẫu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Ga 26,35). Rõ ràng Phê-rô có yêu Chúa không ?
+... (có).
- Thế nhưng chỉ ít giờ sau, gà chưa kịp gáy thì Phê-rô đã chối Chúa 3 lần. (x. Mt 26,34.69-75). Điều này chứng tỏ tự sức mình Phê-rô có yêu mến Chúa hết mình được không ?
+... (không).
- Vậy đức mến là ơn Thiên Chúa ban. Các em tiếp tục theo dõi đời sống ông Phê-rô : sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Phê-rô có tỏ lòng yêu mến Chúa thực sự không ?
+... (có).
- Khi nào ?
+... (GLV gợi ý giúp các em biết được thái độ của Phê-rô trước công nghị). Vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự nên Phê-rô đã nói : phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta (x. Cv 4,19). Tại vì Chúa mà Phê-rô và các tông đồ đã yêu thương mọi người kể cả những người làm hại ông. Chính đức mến đã khiến ông chấp nhận mọi gian nan đau khổ và cuối cùng đã chịu chết tại Rô-ma để chứng tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người.
- Các em được Thiên Chúa ban cho đức cậy, đức mến chưa ?
+... (rồi).
- Khi nào ?
+... (khi chịu Bí tích rửa tội).
Các em hãy luôn cầu nguyện xin Chúa tăng thêm đức tin, đức cậy, đức mến cho các em và chính các em cũng phải cố gắng chăm học giáo lý, siêng năng dự Thánh lễ để làm cho đức tin, cậy, mến được tốt hơn.
D. Cầu nguyện :
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận được cả 3 nhân đức đối thần : tin, cậy, mến. Các em hãy cảm tạ Chúa và làm cho 3 nhân đức này bén rễ sâu trong đời sống chúng ta từ suy nghĩ, nói năng và hành động.Chúng ta đứng lên dâng lời cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha nhân từ, xin thêm đức tin - cậy - mến cho con và giúp con tập luyện nhân đức để nên giống Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”(Pl 4, 8).
61. H. Nhân đức là gì ? (GLCG.308)
T. Nhân đức là thói quen tốt và bền vững giúp ta làm sự thiện cách dễ dàng hơn.
62. H. Đức Tin là gì ? (GLCG.317)
T. Đức Tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội thánh truyền lại cho ta.
63. H. Đức Cậy là gì ? (GLCG.318)
T. Đức Cậy là ơn Thiên Chúa ban giúp ta dựa vào sức mạnh Chúa Thánh Thần mà vững lòng mong đợi hạnh phúc Nước Trời Chúa Giê-su đã hứa ban.
64. H. Đức Mến là gì ? (GLCG.319)
T. Đức Mến là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và lại vì Chúa mà yêu thương mọi người như chính bản thân.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
(GLV hỏi thánh quan thầy của một số em và nêu lên nhân đức độc đáo của vị thánh đó, kêu mời các em nhất trí :)
Em bắt chước nhân đức thánh quan thầy của em.
3. Bài làm ở nhà :
Em nhờ ba má, anh chị tìm đọc tiểu sử thánh quan thầy của em, lưu ý đến nhân đức đặc biệt của Người và ghi vào sổ bài làm.
V. KẾT THÚC.
GLV nhắc nhở các ý chính trong bài, việc thực hành. Sau đó, đọc kinh Kính Mừng rồi chào nhau.
Lời Chúa : “Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
Ý chính : 1. Tội trọng, tội nhẹ (1 Ga 5,16-17).
2. Hậu quả của tội (1 Ga 5.16.17 ; Lc 15,11-19 ; Rm 5,12).
3. Sám hối và canh tân (Lv 20,26 ; St 3,14-24 ; 4,9-12 ; Xh 16,4-16 ; Lc 7,36-50 ; 15 11-32 ; Rm 13,12-14 ; Ep 4,22-24)
Tâm tình : Buồn ghét tội khi phạm, quyết tâm dốc lòng chừa cải, vì tội đã làm mất lòng Chúa.
Chuẩn bị : Bàn Lời Chúa : Cuốn Kinh thánh mở sẵn 1 Ga 1,8.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV thăm hỏi các em và cho các em vào lớp.
2. Thánh hoá :
Cho các em đứng nghiêm trang hướng về bàn thờ đọc kinh Lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
Tương tự bài trước.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một hôm Tê-rê-sa đang chơi ngoài sân với các bạn rất vui thích, bỗng nhiên ba gọi : “Tê-rê-sa lại đây, ba bảo”. Tê-rê-sa đứng lên nhìn ba, cô có vẻ nuối tiếc cuộc chơi với các bạn. Cô nói : “Ba lại đây với con đi”. Ông Mar-tin buồn cúi đầu đi vào nhà !
Lúc đó chị Pau-line cũng đang chơi ở đó, thấy thế liền trách em : “Em láo quá, dám thưa với ba như thế à ?”. Tê-rê-sa nhận ra lỗi vội chạy vào nhà tìm ba để xin lỗi. Ông Mar-tin liền ôm con vào lòng tỏ vẻ âu yếm và tha thứ.
Tê-rê-sa đã có lỗi không mau mắn vâng lời ba. Cũng tương tự mỗi người chúng ta đều có lỗi, lỗi này lỗi kia vì con người đã ra suy yếu sau khi tổ tông phạm tội. Vì thế, Thiên Chúa không chấp những tội lỗi chúng ta, miễn là chúng ta biết khiêm tốn nhận lỗi như Lời Chúa trong thư Thánh Gio-an tông đồ đã dạy : (mời các em đứng)
B. Công bố Lời Chúa : 1 Ga 1,8-10.
Lời Chúa trong thư Thánh Gio-an Tông đồ.
“Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối và lời của Người không ở trong chúng ta.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Tội :
a) Tội là gì : (Tv 51,6-7 ; Lc 15,21 ; Ep 15,21 ; Ep 2,1-4 ; Gc 4,17 ; 1 Ga 5,16-17).
Thánh Gio-an tông đồ đã khẳng định rằng mọi người chúng ta đều có tội. Thánh vương Đa-vít đã xác tín thân phận tội lỗi của mình khi nói :
“Lúc chào đời, con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50,7).
Thánh Phao-lô tông đồ càng ý thức đến thân phận tội lỗi của mình hơn : “Sự ác, tôi không muốn, tôi lại cứ làm... Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” (Rm 7,19.21).
Nhìn vào bản thân, các em cũng dễ thấy :
- Các em có muốn học giỏi không ?
+... (muốn).
- Nhưng lại cứ lười, thích chơi. Các em có muốn sống ngay thẳng thật thà không ?
+... (muốn).
- Nhưng lại cứ táy máy thèm thuồng cái bánh, cái kẹo, cây viết, cuốn tập của bạn. Hở một chút là mất ! Do đó, chúng ta cần xác tín con người chúng ta yếu đuối, dễ phạm tội. Chúng ta vẫn khoẻ mạnh nhưng bỏ học trốn đi chơi, khi thầy cô hỏi đến, chúng ta lại nói : “con bị đau”. Chúng ta phạm tội gì, các em ?
+... (tội nói dối).
- Khi chúng ta thấy cây viết đẹp của bạn, lợi dụng giờ ra chơi, chúng ta lấy bỏ túi. Chúng ta đã phạm tội gì ?
+... (tội ăn cắp).
- Khi thấy cái cặp của bạn đẹp, chúng ta thèm thuồng muốn lấy và tìm cách lấy. Nhưng bạn giữ kỹ quá, chúng ta không lấy được. Chúng ta có phạm tội không ?
+... (có).
- Tội gì ?
+... (tội ước muốn).
- Vậy tội là gì ?
+... [GLV bằng nhiều thí dụ giúp cho các em khám phá ra những tội các em thường phạm trong lời nói (nói tục, chửi thề, nói láo), việc làm (ăn cắp, cóp bài...), ước muốn (muốn ăn cắp, muốn trả thù...)].
Các em cùng lặp lại : tội là lời nói / việc làm / hoặc ước muốn / nghịch với luật Chúa.
b) Tội trọng - tội nhẹ :
- Trong những tội ta phạm có những tội giết chết linh hồn, có những tội chỉ làm tổn thương như thánh Gio-an tông đồ phân biệt : “Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội không đưa tới cái chết ; có một thứ tội đưa tới cái chết” (1 Ga 5,16.17). Như vậy, có mấy thứ tội, các em ?
+... (hai).
- Hai thứ tội nào ?
+... (tội nhẹ và tội trọng).
- Tất cả những điều bất chính đều là tội, nhưng có tội không đưa tới cái chết tức là tội gì ?
+... (tội nhẹ).
- Còn tội đưa tới cái chết, là tội gì ?
+... (tội trọng).
- Làm sao biết khi nào ta phạm tội trọng, khi nào ta phạm tội nhẹ ?
+... [GLV dùng nhiều thí dụ hằng ngày để giúp các em phân biệt tội nặng (điều quan trọng, đã kịp suy biết mà cứ muốn hoặc đã làm), tội nhẹ (khi thiếu một trong 3 yếu tố trên)].
Các em lặp lại những gì chúng ta vừa tìm hiểu :
* Tội trọng là cố tình phạm luật Thiên Chúa / trong những điều quan trọng / mà ta kịp suy biết. (đọc nhiều lần cho thuộc).
* Tội nhẹ là khi lỗi phạm một điều luật nhẹ / hoặc một điều luật nặng / nhưng chưa kịp suy biết đầy đủ / hoặc chưa hoàn toàn ưng theo. (đọc nhiều lần cho thuộc).
c) Bảy mối tội đầu :
Adam - Evà đã phạm tội vì đã muốn bằng Thiên Chúa, ông bà đã kiêu ngạo nên phạm tội (x. St 3,1-7). Người giàu trong Tin mừng Lu-ca đã hưởng thụ một mình, trùm sò, keo kiệt, hà tiện không đoái hoài đến người nghèo La-da-rô nên khi chết đã bị phạt (x. 16,11-31) ; Ca-in ghen tỵ với em nên phạm tội giết em (x. St 4,1-12) ; E-sau đã mê ăn nên mất quyền trưởng nam (x. St 25,29-34)... Đó là những nết xấu gây ra các thứ tội. Các em cùng chị đọc 7 mối tội đầu :
* Một là kiêu ngạo.
* Hai là hà tiện.
* Ba là dâm ô.
* Bốn là hờn giận.
* Năm là mê ăn uống.
* Sáu là ghen ghét.
* Bảy là lười biếng.
2. Hậu quả của tội .
(1 Ga 5.16.17 ; Lc 15,11-19 ; Rm 5,12 ; 6,12 ; 7,13.18-19 ; Gc 1,5)
- Các em còn nhớ khi ông bà Adam - Evà ăn trái cấm, ông bà đã phạm tội kiêu ngạo, không vâng lời. Ông bà còn được ở trong vườn địa đàng không ?
+... (không).
- Ông bà bị đuổi ra ngoài, đất đai sẽ trổ sinh gai góc, sẽ phải đổ mồ hôi mới có bánh ăn và cuối cùng sẽ trở về với bụi đất (x. St 3,17-19) nghĩa là phải chết. Đó là hậu quả của tội nguyên tổ. Ngày nay, chúng ta vẫn còn phải lãnh đủ hậu quả tai hại của tội nguyên tổ. Còn những tội riêng của chúng ta, thì thánh Gio-an tông đồ (x. 1 Ga 5,16.17) cho biết có thứ tội đưa tới cái chết. Đó là hậu quả của tội trọng (GLV có thể minh hoạ cuộc sống khổ cực của đứa con bỏ nhà đi hoang trong Lc 15,14-16). Có thứ tội không đưa tới cái chết. Đó là hậu quả của tội nhẹ. Vậy tội trọng làm hại ta thế nào ?
+... (GLV diễn giải thêm cho các em hiểu hơn về hậu quả của tội để củng cố câu giáo lý 67 : tội trọng phá huỷ sự sống/ và phẩm giá cao quí của con người ; / đồng thời cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa, / và nếu không hối cải / thì sẽ phải xa cách Người đời đời.)
- Còn tội nhẹ làm hại ta thế nào ?
+... (GLV dùng những thí dụ cụ thể giúp các em hiểu ngần nào có thể về hậu quả của tội nhẹ và củng cố câu giáo lý 70 : Tội nhẹ khiến ta giảm sút lòng mến Chúa, / dễ hướng chiều về điều xấu / và dễ phạm tội trọng hơn.)
3. Sám hối và canh tân.
- Để thấy thái độ của ta phải có đối với tội, trước tiên chúng ta cần tìm biết thái độ của Chúa đối với tội.
a) Chúa ghét tội :
Thiên Chúa là Đấng thánh, cực thánh (x.Lv 20,26 ; Ep 6,3). Thiên Chúa ghét tội, không chấp nhận tội lỗi : thái độ của Thiên Chúa đối với Ađam - Evà sau nguyên tội (x. St 3,14-24), đối với Cain sau khi giết em (x. St 4,9-12), đối với loài người sa đoạ thời ông Noê (x. St 6,13-22)... Chúa Giê-su cũng đã có thái độ dứt khoát với tội lỗi (x. Mt 6,24; Mt 18,8-9).
b) Thiên Chúa thương tội nhân :
Thiên Chúa ghét tội nhưng Người lại thương người có tội : Adam - Evà vẫn được Chúa thương dù đã phạm tội (x. St 3,15), Cain sau khi giết em, vẫn được Chúa gìn giữ (x. St 4,13-16) ; Dân Do thái trong cuộc Xuất hành vẫn được Chúa thương dù đã nhiều phen phạm tội (Xh 16,4-16 ; 17,3-7 ;32,1-35), nhất là khi tội nhân biết hối lỗi, ăn năn (x. Dt 14,1-23 ; 21,4-9). Chúa Giê-su càng tỏ lòng thương xót các tội nhân : Ma-ri-a thống hối (x. Lc 7,36-50) ; Dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,
11-32) ; người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3-11).v.v…
c) Thái độ của ta đối với tội lỗi :
(Rm 13,12-14 ; Ep 4,22-24)
Khi cậu Út trong Tin mừng thánh Lu-ca đã cảm thấy thấm thía hậu quả của tội bỏ nhà cha đi hoang, cậu đã hối hận : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15,18-21). Thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta : “Chúng ta hãy loại bỏ những việc là đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cải cọ ghen tương, nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Ki-tô và đừng chiều theo xác thịt và thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,12-14). Trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phao-lô còn khuyên nhủ : “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa là con ngươi phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Anh em phải để Thần khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa đã thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
- Vậy ta phải có thái độ nào đối với tội lỗi ?
+... (GLV giúp các em có thái độ dứt khoát với tội, xa tránh dịp tội, siêng năng xưng tội rước lễ, và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày).
D. Cầu nguyện :
Khi đã hiểu biết về tội, hậu quả của tội và thái độ phải có đối với tội, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện (mời đứng):
“Lạy Chúa Giê-su, Chúa yêu thương con nhưng Chúa gớm ghét tội lỗi. Xin cho con biết xa lánh tội lỗi để con được sống trong Chúa và Chúa sống trong con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).
65. H. Tội là gì ? (GLCG.321)
T. Tội là lời nói, việc làm hoặc ước muốn nghịch với Luật Chúa. Tội xúc phạm đến Thiên Chúa, gây tổn thương cho bản thân và cho tình liên đới với tha nhân.
66. H. Thế nào là tội trọng ? (GLCG.322)
T. Tội trọng là cố tình phạm luật Thiên Chúa trong những điều quan trọng mà ta kịp suy biết.
67. H. Tội trọng làm hại ta thế nào ?(GLCG.323)
T. Tội trọng phá hủy sự sống và phẩm giá cao qúy của con người; đồng thời cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa, và nếu không hối cải, thì sẽ phải xa cách Người đời đời.
68. H. Khi lỡ phạm tội trọng thì phải làm gì ? (GLCG.324)
T. Phải thực lòng thống hối và lo liệu đi xưng tội ngay, đồng thời dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa.
69. H. Thế nào là tội nhẹ ? (GLCG.325)
T. Tội nhẹ là khi lỗi phạm một điều luật nhẹ hoặc một điều luật nặng nhưng chưa kịp suy biết đầy đủ hoặc chưa hoàn toàn ưng theo.
70. H. Tội nhẹ làm hại ta thế nào ? (GLCG.326)
T. Tội nhẹ khiến ta giảm bớt lòng mến Chúa, dễ hướng chiều về điều xấu và dễ phạm tội trọng hơn.
71.H. Các tội ta phạm thường do những nết xấu nào ? (GLCG.327)
T. Thường do bảy nết xấu này, quen gọi là bảy mối tội đầu :
- Một là kiêu ngạo,
- Hai là hà tiện,
- Ba là dâm ô,
- Bốn là hờn giận,
- Năm là mê ăn uống,
- Sáu là ghen ghét,
- Bảy là lười biếng.
72. H. Chúa có thái độ nào đối với tội nhân ? (GLCG.329)
T. Chúa hằng tỏ lòng từ bi thương xót và sẵn sàng tha thứ cho những người thật lòng sám hối ăn năn.
73. H. Ta phải có thái độ nào đối với tội lỗi ? (GLCG.330)
T. Ta phải dứt khoát với tội lỗi, xa tránh dịp tội, siêng năng xưng tội rước lễ và cố gắng đổi mới đời sống hàng ngày.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV gợi lại những ý chính của bài để dẫn đưa các em đến quyết tâm :)
Em quyết tâm không làm điều xấu.
3. Bài làm ở nhà :
Nhờ ba má hay anh chị tìm trong sách Tân ước Lời Chúa nào kêu gọi sám hối và ghi vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
- GLV nhắc nhở các em về học bài và nhất là thực hành Lời Chúa dạy.
- Đọc kinh Sáng danh, chào nhau.
Lời Chúa : “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5)
Ý chính : 1. Ơn Chúa, có mấy thứ ơn Chúa (1 Cr 12,8-11 ; Rm 12,6-8).
2. Đón nhận ơn Chúa (Gc 1,17.21 ; Mt 25,14-30 ; Lc 18,9-14).
Tâm tình : Cảm tạ và cầu xin.
Chuẩn bị : - Ảnh thánh Au-gus-ti-nô, thánh Phan-xi-cô.
- Bàn Lời Chúa.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV và các em chào hỏi nhau, chuẩn bị cho các em vào lớp.
2. Thánh hóa :
Làm dấu - Đọc kinh Chúa Thánh Thần.
3. Giới thiệu bài mới :
Chúng ta đã thấy mình luôn yếu đuối, dễ phạm tội nhưng chúng ta không thất vọng, ngã lòng vì chúng ta luôn có ơn Chúa. Hôm nay, chúng ta học về ƠN CHÚA.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Ngày 28/8 hàng năm, Hội thánh tôn kính thánh Giám mục tiến sĩ Au-gus-ti-nô.
Au-gus-ti-nô đã lãnh nhận phép rửa tội năm 33 tuổi, 3 năm sau, Người được phong chức linh mục, 5 năm sau đó được đề cử làm Giám mục thành Híp-pone. Au-gus-ti-nô từng là một tội nhân đã trở thành Thánh Nhân, nhờ được ơn Chúa thúc đẩy qua câu nói mạnh mẽ của Thánh Phao-lô : “Đừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô” (Rm 13,12-14).
Và kể từ đó, tình yêu Thiên Chúa luôn dõi theo Người, đã tạo nơi tâm hồn Người một sự trăn trở và khao khát đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.
- Các em có biết do đâu mà Au-gus-ti-nô đã được ơn Chúa mạnh mẽ không?
+...
Trước tiên là tình yêu bao la của Thiên Chúa, sau là do lời cầu nguyện cùng với những hy sinh, những giọt nước mắt của người mẹ là Thánh Monica trong suốt mười mấy năm trời ròng rã. Không chỉ ban cho thánh Au-gus-ti-nô, Thiên Chúa còn muốn ban ơn sủng cho tất cả mọi người nếu chúng ta biết đón nhận như Lời Chúa sau đây.
(mời các em đứng).
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 15,5)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát rồi mời ngồi và GLV giảng bài).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Ơn Chúa :
a) Ơn Chúa là gì ?
(1 Cr 12,8-11 ; Rm 12,6-8)
- Chúa Giê-su đã lấy hình ảnh cây nho và cành nho để giúp chúng ta hiểu phần nào về ân sủng của Người. Trong bài 14, con người là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta đã học “Con người có giữ được nguyên vẹn hình ảnh Thiên Chúa nơi mình không ?
+... (GLV giúp vừa ôn lại câu GL 55 vừa đi vào bài ơn Chúa : Không,/ tội lỗi đã làm tổn thương hình ảnh ấy nơi con người,/ khiến họ dễ hướng chiều về điều xấu / và dễ bị sai lầm).
- Chính vì thế, ngày nay chúng ta dễ làm điều xấu hơn là điều tốt, dễ phạm tội hơn là lập công (GLV có thể lấy một vài thí dụ cụ thể trong cuộc sống để giúp các em xác tín sự yếu đuối của mình). Có đúng vậy không, các em ?
+... (đúng).
- Thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm bản thân, Người đã nói : “Sự ác, tôi không muốn, tôi lại cứ làm... khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” (Rm 7,19.21). Như vậy, bởi sức tự nhiên ta có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa không ?
+... (GLV dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống giúp các em hiểu biết về sự bất lực của bản thân mà củng cố câu giáo lý 74 : Nếu không có ơn Chúa giúp thì chẳng được / như lời Chúa Giê-su phán rằng /: “không có Thầy,/ anh em chẳng làm gì được”).
- Vì thế, nếu chúng ta có là gì, có làm được gì cũng là nhờ sự thúc giục, tác động, trợ giúp, hướng dẫn của Thiên Chúa (x. 1 Cr 15,10) nghĩa là nhờ ơn Chúa. Vậy ơn Chúa là gì, các em ?
+... (GLV dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống gia đình, trong học vấn, trong đời sống đạo để củng cố câu giáo lý 75 : Ơn Chúa là sự trợ giúp Thiên Chúa ban,/ để ta sống xứng đáng / là con cái Người / và được dự phần / vào sự sống thâm sâu của Ba Ngôi).
b) Có mấy thứ ơn Chúa :
- Trước đây 20 năm, đã có em nào sinh ra chưa ?
+... (chưa).
- Cha mẹ sinh ra chúng ta mấy lần ?
+... (một lần).
- Có khi nào sinh ra các em thêm lần thứ hai không ?
+... (không).
- Cũng tương tự, có thứ ơn Chúa chỉ ban cho chúng ta một lần. Đố các em biết là ơn nào ?
+...
- Ơn Thánh hóa tức là ơn làm con Chúa. Ơn này Chúa ban cho chúng ta khi nào ?
+...
- Khi chịu Bí tích rửa tội. Ngày chúng ta chịu Bí tích rửa tội, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng ta và ban cho chúng ta được làm con Chúa. Mỗi em được rửa tội mấy lần ?
+... (một lần).
Vì thế, ơn Thánh hóa cũng chỉ ban một lần như sự sống của con người, cha mẹ sinh ra chúng ta một lần. Sau khi chúng ta đã được sinh ra, hàng ngày cha mẹ cho ăn cơm, ăn bánh, thỉnh thoảng má đi chợ về cho cái bánh, trái cây. Lâu lâu dịp tết, dịp khai trường hay ít tháng nữa khi các em lãnh hận Bí tích Thánh thể lần đầu, ba mẹ cho các em bộ quần áo mới. Những quà này cha mẹ cho theo hoàn cảnh. Cũng tương tự, sau khi chúng ta đươc rửa tội, được làm con Chúa, Chúa cũng nuôi dưỡng linh hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta khi ơn này, lúc ơn kia. Thí dụ, khi phải làm việc khó khăn, các em cầu xin và Chúa ban cho ơn can đảm ; khi học bài, các em cầu xin, Chúa ban cho ơn khôn ngoan v.v...
- Như vậy, có mấy thứ ơn Chúa ?
+... (GLV có thể thêm những thí dụ khác để giúp các em hình thành câu giáo lý 76: có hai thứ :
* Một là ơn Thánh hóa có tính cách thường xuyên.
* Hai là ơn trợ giúp tùy hoàn cảnh).
2. Đón nhận ơn Chúa.
(Gc 1,17.21 ; Mt 25,14-30 ; Lc 18,9-14)
- Đấy các em thấy, Chúa sẵn sàng ban mọi ơn lành cho chúng ta, cần ơn gì, Chúa ban ơn đó, cần bao nhiêu, Chúa ban bấy nhiêu vì Chúa là Đấng giàu có và yêu thương, nhất là những lúc chúng ta buồn chán, gặp khó khăn, Chúa lại càng ban dồi dào ơn của Người cho chúng ta để giúp chúng ta vượt qua. Vậy chúng ta phải có thái độ nào để đón nhận ơn Chúa cho xứng đáng ?
+...
Các em hãy nghe thánh Gia-cô-bê (Gc 1,17.21) dạy chúng ta.
(mời các em đứng)
Lời Chúa trong thư Thánh Gia-cô-bê Tông đồ.
“Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú... Vì vậy anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn, hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
- Như thế, muốn đón nhận ơn Thiên Chúa chúng ta phải làm gì ?
+... (chúng ta phải giũ sạch mọi điều ô uế, mọi thứ độc ác và khiêm tốn đón nhận ơn Chúa).
- Khi giảng dạy người Do thái, Chúa Giê-su đưa ra dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người biệt phái kiêu căng, tự phụ, còn người kia là thu thuế, khiêm tốn nhận mình yếu đuối, tội lỗi. Chúa bảo khi về thì người thu thuế được tha tội, còn người biệt phái thì không được gì (x. Lc 18,9-14). Các em cho chị biết, tại sao người thu thuế tội lỗi lại được Chúa ban ơn ?
+... (vì người thu thuế đã khiêm tốn, nhận mình tội lỗi).
- Thế còn người biệt phái ?
+... (người biệt phái kiêu căng).
- Đúng ! các em nói rất đúng, vậy để đón nhận ơn Chúa, chúng ta phải khiêm tốn, đơn sơ. Thứ đến, chị hỏi các em Ơn Chúa ban cho, có phải để cho vào kho cất kỹ không ?
+... (không).
- Các em còn nhớ dụ ngôn những nén bạc được ông chủ trao cho các đầy tớ chứ ? (x. Mt 25,14-30) : ông chủ trao cho người thứ nhất 5 nén, người thứ hai 2 nén, người thứ ba 1 nén tuỳ khả năng riêng mỗi người. Người thứ nhất và thứ hai lấy số tiền ấy đi làm ăn gây lời được gấp đôi. Khi chủ về, 3 người này đã đến trình diện chủ : người thứ nhất và thứ hai trình lên chủ những nén bạc chủ trao và cả những nén làm lời. Hai người này đều được chủ khen thưởng như nhau. Đến lượt người thứ ba lên trình diện, anh nói : “Thưa ông chủ, đây nén bạc của ông, tôi trả lại ông”. Các em thấy ông chủ có thái độ nào với người đầy tớ thứ ba này ?
+...
- Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác... Hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. Như vậy khi nhận được ơn Chúa ban, ta phải có thái độ nào ?
+... (GLV giúp các em củng cố bài để hình thành câu giáo lý 77 :
Ta phải tỉnh thức / để mau mắn đón nhận / và nỗ lực cộng tác với ơn Thiên Chúa ban).
- Thí dụ : các em xin Chúa ban cho mình được học giỏi mà các em không học, thì các em có giỏi không ?
+... (không).
- Như vậy chúng ta phải làm gì ?
+... (phải học nữa).
Đúng, các em trả lời rất đúng, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn nào, chúng ta cũng phải nỗ lực cộng tác thì ơn Chúa mới phát sinh hoa trái tốt.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã phán dạy rằng : “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” con hết lòng cảm tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban cho con. Xin giúp con luôn biết cộng tác với ơn Chúa để mỗi ngày được nên giống Chúa hơn.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
- GLV có thể củng cố bài sau khi dẫn giải các ý chính.
“Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
74. H. Bởi sức tự nhiên ta có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa không ?(GLCG.354)
T. Nếu không có ơn Chúa giúp thì chẳng được, như lời Chúa Giê-su phán rằng : “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5).
75. H. Ơn Chúa là gì ? (GLCG.355)
T. Ơn Chúa là sự trợ giúp Thiên Chúa ban, để ta sống xứng đáng là con cái Người và được dự phần vào sự sống thâm sâu của Ba Ngôi.
76. H. Có mấy thứ ơn Chúa ? (GLCG.356)
T. Có hai thứ :
- Một là ơn Thánh hóa có tính cách thường xuyên,
- Hai là ơn trợ giúp tùy hoàn cảnh.
77. H. Ta phải cộng tác với ơn Chúa thế nào ? (GLCG.359)
T. Ta phải tỉnh thức để mau mắn đón nhận và nỗ lực cộng tác với ơn Thiên Chúa ban.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Em luôn cầu xin ơn Chúa mỗi khi làm việc.
3. Bài làm ở nhà :
Viết lại câu Lời Chúa của bài 18 và đóng khung thật đẹp.
V. KẾT THÚC.
GLV có thể nhắc nhở các em về nhà học bài và thực hành bài học.
Đọc kinh Sánh danh.
Chào nhau.
Bài 19
Điều răn I : THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,37).
Ý chính : 1. Mười điều răn (Xh 20,1-17).
2. Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa.
Tâm tình : Yêu mền Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.
Chuẩn bị : - Bàn Lời Chúa.
- Sách phúc âm mở sẵn Mt 22,37.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV hỏi thăm, trò chuyện cùng các em để chuẩn bị vào lớp.
2. Thánh hóa :
Làm dấu - Đọc kinh lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
Chúa đã yêu thương và ban muôn ơn cho con người. Cảm nhận được tình yêu đó, con người nỗ lực sống tốt, tránh xa điều xấu, tội. Thiên Chúa giúp chúng ta thực hiện nỗ lực này nên đã ban cho con người 10 Điều Răn căn bản mà hôm nay chúng ta học Điều Răn I.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập : (x. Xh 32,1-6)
Ngày xưa, khi dân Do thái ra khỏi Ai cập, đến chân núi Sinai, Mô-sê lên núi gặp Thiên Chúa. Lâu ngày không thấy Mô-sê xuống núi, dân chúng đã tụ họp lại quanh A-a-ron. Họ nói : “Hãy làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi”. Ông A-a-ron bảo dân : “Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ và con trai con gái anh em đeo ở tai, rồi đem đến cho tôi”. Toàn dân đem đến cho ông số vàng họ có, ông đúc thành con bò vàng. Bấy giờ họ nói : “Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai cập”. Dân đã tụ tập quanh bò vàng dâng tiến của lễ, rồi ăn uống và bày trò vui chơi.
Thiên Chúa bèn nổi giận định tiêu diệt chúng. Mô-sê đã phải bầu cử mãi Chúa mới nguôi. Dù vậy, đã có tới 3000 người bị giết về tội thờ bò vàng.
Các em thấy kinh khủng không ! chỉ vì thờ con bò vàng mà dân Do thái đã bị giết tới 3000 người lận ! Thiên Chúa thẳng tay với những kẻ bỏ Người mà thờ các thần khác. Chính Chúa Giê-su cũng đã xác quyết lại điều răn quan trọng này :
(mời các em đứng nghe Lời Chúa :)
B. Công bố Lời Chúa : (Mt 22,35-38)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.
“Khi ấy, một người thông luật trong nhóm Pharisêu hỏi Chúa Giê-su để thử Người rằng : “Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?” Chúa Giê-su đáp : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát - mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Mười điều răn (Xh 20,1-17).
Lời Chúa Giê-su dạy người thông luật trên đây, không phải là luật mới. Luật đó đã có từ thời Xuất hành. Khi dân Do thái ra khỏi ách nô lệ nước Ai cập, họ đã được Thiên Chúa ký kết một giao ước (hợp đồng) : Thiên Chúa nhận Do thái làm dân riêng, phù trợ và chăm sóc họ. Còn dân Do thái thề hứa chỉ thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Để giúp họ sống và thực hành giao ước (hợp đồng) này, Thiên Chúa ban cho họ muời giới răn. Những giới răn đó là :
- Thứ nhất : Thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.
- Thứ hai : Chớ kêu tên Thiên Chúa cách bất kính.
- Thứ ba : Dành ngày Chúa nhật để thờ phượng Thiên Chúa.
- Thứ bốn : Thảo kính cha mẹ.
- Thứ năm : Chớ giết người.
- Thứ sáu : Chớ làm điều tà dâm.
- Thứ bảy : Chớ lấy của người.
- Thứ tám : Chớ làm chứng dối.
- Thứ chín : Chớ muốn vợ chồng người.
- Thứ mười : Chớ tham của người.
2. Điều răn thứ nhất :
a) Dạy gì (Mt 22,37).
- Câu chuyện “bò vàng” trên đây cho thấy Thiên Chúa đòi hỏi dân Do thái xưa và chúng ta hôm nay phải tôn thờ Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Người mà thôi. Ba mẹ các em dạy phải thờ ai ?
+... (thờ Thiên Chúa).
- Có mấy Thiên Chúa ?
+... (chỉ có một Thiên Chúa).
Đúng, chỉ có một Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điểu khiển mọi loài trên trời, dưới đất cùng toàn thể vũ trụ. Chỉ có một Thiên Chúa, nên chúng ta cũng chỉ thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
- Thờ một mình Thiên Chúa mà thôi, nên ngoài Thiên Chúa ra, ta có thờ ai nữa không ?
+... (không).
- Thế mà dân Do thái xưa đã thờ bò vàng, nên Chúa đã làm gì ?
+... (phạt).
- Ngày nay vẫn còn có người thờ “bò vàng” đó, các em. Các em biết ai không ?
+...
- Đó là những người thờ đồng tiền, suốt ngày suy nghĩ về tiền bạc, suốt ngày tìm cách kiếm được nhiều tiền. Không những thế, khi có tiền rồi thì họ lại “trùm sò”, keo kiệt, hưởng thụ ích kỷ. Coi chừng có em cũng đang thơ bò vàng đó, khi mà đầu óc các em cứ dính vào đồng tiền : tìm cách có tiền, những em ăn cắp tiền là đang thờ bò vàng đó. Thiên Chúa có chấp nhận những người như thế không ?
+... (không).
- Có người đang thờ cái bụng, lúc nào cũng ăn, làm cái gì cũng qui vào miếng ăn. Làm sao có ăn là được, sẵn sàng bỏ lễ để đi với bạn nếu có ăn...! Thiên Chúa có chấp nhận những người như thế không ?
+... (không).
- Chúa đòi hỏi chúng ta phải tôn thờ một mình Chúa và thờ Chúa trên hết mọi sự. Thí dụ : trên đường đi lễ Chúa nhật. Một đứa bạn rà xe tới rủ đi tắm. Đi tắm sướng quá, bạn bao không mất tiền, các em có đi theo bạn không ?
+... (không).
- Về nhà, má bảo sang nhà hàng xóm bứt cho má trái đu đủ về má làm gỏi cho mà ăn. Gỏi đu đủ ngon lắm ! Nhưng Chúa lại bảo không được ăn trộm ! Các em nghe má hay nghe Chúa ?
+... (nghe Chúa).
(GLV dùng nhiều thí dụ để giúp các em biết chỉ thờ một mình Thiên Chúa và thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự).
- Chúa Giê-su đã dạy : “Không ai có thể làm tôi hai chủ... anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24).
b) Làm gì ? (Mt 7,21).
Lần kia, Chúa Giê-su nói với đoàn lũ dân chúng và các môn đệ : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa ! lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Chúa còn nói thêm cả những người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nếu chỉ có vậy thôi thì vẫn bị Chúa xua đuổi : “Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho khuất mắt ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” (Mt 7,23). Như thế, để thờ phượng Thiên Chúa, ta phải làm gì ?
+... (GLV diễn giải một số việc làm để thờ phượng Thiên Chúa như nghe Lời Chúa chứ không nghe theo bạn bè, người đời ; cậy trông vào Chúa chứ không cậy trông vào tiền của... để hình thành câu giáo lý 80 : Ta phải tin tưởng,/ yêu mến,/ cậy trông,/ cầu nguyện,/ thực hiện những điều đã khấn hứa / và luôn dâng lên Thiên Chúa / những hy sinh / làm dấu chứng lòng tôn thờ.)
c) Việc hoàn hảo nhất (Lc 22,19).
- Để thờ phượng Thiên Chúa, ta thường làm những gì ?
+... (GLV khuyến khích các em kể ra những việc thờ phượng).
- Phải, tất cả những việc các em vừa kể đều là những việc thờ phượng nhưng có một việc mà chính Chúa dạy phải làm để tưởng nhớ đến Người. Các em có biết việc nào không ?
+... (GLV tuyên dương em nào nói đến thánh lễ).
Thánh lễ, đúng. Thánh lễ là việc thờ phượng hoàn hảo nhất vì thánh lễ làm lại chính hy tế Chúa Giê-su đã dâng mình tế lễ Chúa Cha. Hơn nữa, Chúa Giê-su đã truyền cho Hội thánh phải làm lại để tưởng nhớ đến Người (x. Lc 22,19).
D. Cầu nguyện :
Hơn bất cứ bài giáo lý nào, bài giáo lý hôm nay đã dạy cho chúng ta một việc quan trọng nhất. Đó là thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự. Giờ đây chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã dạy chúng con phải hết lòng tôn thờ Chúa. Xin giúp chúng con thực thi điều Chúa dạy hôm nay.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chúa Giê-su đáp : Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37)
78. H. Mười điều răn Chúa truyền là những điều nào ? (GLCG.368)
T. Là những điều này :
- Thứ nhất : Thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.
- Thứ hai : Chớ kêu tên Thiên Chúa cách bất kính.
- Thứ ba : Dành ngày Chúa nhật để thờ phượng Thiên Chúa.
- Thứ bốn : Thảo kính cha mẹ.
- Thứ năm : Chớ giết người.
- Thứ sáu : Chớ làm điều tà dâm.
- Thứ bảy : Chớ lấy của người.
- Thứ tám : Chớ làm chứng dối.
- Thứ chín : Chớ muốn vợ chồng người.
- Thứ mười : Chớ tham của người.
79. H. Điều răn thứ nhất dạy ta những gì ?(GLCG.369)
T. Điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.
80. H. Ta phải làm gì để thờ phượng Thiên Chúa ? (GLCG.370)
T. Ta phải tin tưởng, yêu mến, cậy trông, cầu nguyện, thực hiện những điều đã khấn hứa và luôn dâng lên Thiên Chúa những hy sinh làm dấu chứng lòng tôn thờ.
81. H. Trong các việc thờ phượng, việc nào hoàn hảo nhất ? (GLCG.378)
T. Chính là việc Chúa Giê-su dâng mình tế lễ trên thập giá mà ngày nay chúng ta cử hành trong Thánh lễ. Trong đó, ta kết hợp với Chúa Giê-su mà hiến dâng bản thân, cuộc sống và mọi việc ta làm thành lễ hy sinh đẹp lòng Thiên Chúa.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Khi thờ phượng Thiên Chúa, ta phải thờ phượng hết lòng hết sức, trên hết mọi sự, nên : việc thực hành tuần này là : em luôn nghiêm trang khi đọc kinh cầu nguyện.
3. Bài làm ở nhà :
Em tìm một bông hoa tươi để dâng lên bàn thờ Chúa trong gia đình em.
V. KẾT THÚC.
- GLV nhắc nhở các ý chính trong bài và thực hành sống bài giáo lý.
- Mời các em đứng đọc kinh Sáng danh, chào nhau.
Bài 20
Điều răn 2 : TÔN KÍNH DANH THIÊN CHÚA
Lời Chúa : “Ngươi không được kêu tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, mà làm điều bất xứng. Vì Đức Chúa không dung tha kẻ kêu tên Người mà làm điều bất xứng” (Xh 20,7).
Ý chính : 1. Tôn kính Danh Thiên Chúa vì Danh Người là thánh (Mt 5,33-37 ; Pl 2,9-11)
2. Ý nghĩa tên thánh của người Ki-tô hữu (Ga 10,3 ; Is 43,1 ; Kh 2,17).
Tâm tình : - Yêu mến và tôn kính Danh Thiên Chúa, Danh Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a, các thánh.
Chuẩn bị : - Sách Thánh kinh đặt trên giá sách mở sẵn Kh 20,7, nên có nến hoa trưng bày hai bên.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV cho các em hát bài “học giáo lý”. Sau đó, cả lớp đứng dậy thinh lặng và nghiêm trang.
2. Thánh hóa :
GLV nói ít lời hướng dẫn các em biết dâng giờ học lên Chúa. Xin Chúa chúc lành và ban ơn soi sáng, giúp đỡ. Rồi làm dấu thánh giá và đọc kinh lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
- Lần trước chúng ta đã học bài gì, các em còn nhớ không ?
+ … (bài 19 : Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa.)
- Các em đã sống bài học đó như thế nào ?
+ … (gọi vài em để kiểm tra về thực hành, cụ thể về việc dự lễ).
Các em ngoan lắm, chúng ta phải thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và phải bày tỏ Tâm tình thờ phượng đó ra bên ngoài bằng những việc làm cụ thể. Đó là bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, là Cha yêu thương và hằng chăm sóc chúng ta. Hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục nói đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa qua việc : Tôn kính Danh Thiên Chúa
(GLV chép đề bài lên bảng).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Cách đây khoảng 200 năm, có một nhà văn tên là Nguyễn Công Trứ (1778 -1858) ông ta rất hiếu học và học rất giỏi nhưng khi đi thi, ông ta cứ rớt hoài à. Các em có biết tại sao không ?
Chỉ vì ông ta phạm húy. “Húy” là tên của một người. Tên của nhà vua thì phải tôn kính đặc biệt. Do đó, các thí sinh phải tránh không được viết tên của các vua trong bài thi của mình.
Ví dụ : bài thi muốn nói đến chữ “thông minh”, nhưng nếu có vị vua tên “Minh”, thì phải đổi “thông minh” thành “thông thái”. Chữ “trường học” đổi thành “tràng học” v.v...
Nếu trong bài thi mà có một chữ nào là tên của các vua trong triều đại đương nhiệm, dù là vô ý, thí sinh đó sẽ bị đánh rớt ngay và còn bị cấm thi nhiều năm sau nữa. Vì thế, Nguyễn Công Trứ mãi đến năm 40 tuổi mới thi đậu tú tài.
- Các em thấy đó, tên là chính người có tên đó nên phải tôn trọng (tên cha mẹ các em chẳng hạn). Các em có thích các bạn hay người khác kêu tên của cha mẹ các em để giỡn chơi, trêu chọc hay bêu xấu không ?
+... (dĩ nhiên là không rồi).
- Nếu có em nào đem tên cha mẹ ra để giỡn chơi, trêu chọc hay bêu xấu thì điều đó tốt hay xấu ?
+...
Đúng rồi, vậy các em hãy đứng lên nghiêm trang lắng nghe Lời Chúa để chúng ta biết phải tôn kính Danh Thiên Chúa thế nào :
B. Công bố Lời Chúa : (Xh 20,1-2.7)
Lời Chúa trong sách Xuất hành.
Thiên Chúa phán : “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi... Ngươi không được kêu tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà làm điều bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ kêu tên Người mà làm điều bất xứng”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Đứng thinh lặng một phút để Lời Chúa thấm nhập các em)
Mời các em ngồi xuống.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
- Đoạn sách Xuất hành mà chúng ta vừa nghe được tóm lại trong điều răn thứ mấy vậy, các em ?
+... (điều răn thứ 2).
- Đúng rồi, các em hãy đọc to điều răn ấy nào !
+... (thứ hai : chớ kêu tên Thiên Chúa cách bất kính).
Các em giỏi lắm, điều răn thứ 2 dạy ta “chớ kêu tên Thiên Chúa cách bất kính”. Đó là kiểu nói theo tiêu cực. Còn nói theo tích cực, điều răn thứ 2 dạy ta phải tôn kính Danh Thiên Chúa. Giờ đây, chúng ta cùng tìm hiểu phải tôn kính Danh Thiên Chúa, Danh Giê-su thế nào nha.
1. Tôn kính Danh Thiên Chúa
(x. Mt 5,33-37 ; Pl 2,9-11)
Danh xưng là tên gọi của một người để chỉ người đó và để phân biệt với người khác. Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho Mô-sê trong hoang địa, để trao cho Mô-sê sứ mạng dẫn dân Do thái thoát vòng nô lệ người Ai cập, ông Mô-sê đã xin Chúa tỏ ra cho ông biết Danh (tên) của Chúa để ông nói với dân và với vua Pha-ra-on, Thiên Chúa đã trả lời ông : “Ta là Đức Chúa...” (Xh 6,2-6).
Các em biết không, rồi sau đó khi ban cho dân Do thái mười điều răn để cho dân biết thánh ý Chúa, Chúa đã truyền cho dân không được kêu tên của Người cách vô cớ, phải tôn kính Danh Người. (Xh 20,1-2.7). Như vậy, dân Do thái có dám kêu tên Chúa không, các em ? Chắc chắn là không dám kêu rồi, ngay cả khi đọc nữa đó các em : khi gặp Danh Thiên Chúa trong sách, họ sẽ đọc trệch ra chữ khác. (Gia-vê đọc thành Giê-hô-va).
- Tại sao Chúa dạy phải tôn kính Danh của Chúa, các em ?
+...
Chúa dạy phải tôn kính Danh Thiên Chúa, vì tên của Chúa là chính Chúa (theo quan niệm Thánh Kinh) và Chúa là Đấng Thánh (x. Kh 4,8 ; Is 6,3 ; Gr 3,12) nên tên của Chúa là Danh thánh (x. Tv 98,3).
- Các em thân mến, chị hỏi các em nhé: khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Người có tên gọi không các em ?
+... (có).
- Người mang tên là gì nào ?
+... (Người được đặt tên là Giê-su).
- Đúng rồi, các em giỏi lắm, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người được đặt tên là Giê-su. Vậy chúng ta có phải tôn kính Danh Chúa Giê-su không ?
+... (có).
Chúng ta phải tôn kính Danh Chúa Giê-su nữa vì Người là Thiên Chúa và tên của Người cũng là tên thánh, như Lời Chúa trong thư của Thánh Phao-lô tông đồ gởi tín hữu thành Philipphê : “Khi vừa nghe Danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ : và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,10-11 ; 2 Tx 1,11-12).
Như vậy Chúa dạy ta phải tôn kính Danh Thiên Chúa, Danh Chúa Giê-su vì Danh Thiên Chúa là thánh.
- Nhưng để tôn kính Danh Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì nào ?
+...
- Chúng ta không được kêu tên Chúa ra để giỡn chơi, để thề gian, để làm điều xấu, hay nói lời phạm thượng xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Chúa Giê-su.
- Làm dấu thánh giá cách nghiêm trang, cung kính khi thức dậy sau đêm ngủ bình an, trước khi bắt đầu công việc, trước khi ăn cơm.
- Trong ngày sống, khi nhớ đến Chúa, các em hãy dâng lên Chúa những lời nguyện tắt (Lạy Chúa, con yêu Chúa lắm, lạy Chúa Giê-su con yêu mến Chúa...).
Tóm lại, như các em yêu mến cha mẹ... Các em phải tôn kính tên của cha mẹ thì hơn thế nữa, các em phải đặc biệt tôn kính Danh Thiên Chúa vì Người là Đấng tối cao, là Cha nhân ái của mọi người, là Đấng mà mọi người phải kính yêu, tôn thờ vì Danh Người là thánh. Khi kêu cầu Danh thánh Thiên Chúa và Danh Chúa Giê-su, các em phải kêu thật tôn kính nhé.
- Chị nhắc lại, để tôn vinh Thiên Chúa, ta nên làm gì ?
+... (GLV củng cố cho các em hình thành câu giáo lý 83 : Ta nên làm dấu Thánh giá khi khởi đầu ngày sống, khởi đầu mọi kinh nguyện cũng như mọi việc làm).
2. Ý nghĩa việc nhận tên thánh của người tín hữu :
(Ga 10,3 ; Is 43,1; Kh 2,17)
- Em... em có tên thánh không ?
+...
- Tên thánh của em là gì ?
+...
- Tốt lắm, còn em ?
+...
- Mọi người chúng ta đây đều được mang tên một vị thánh, chị có tên thánh là Tê-rê-sa. Chúng ta được nhận tên thánh khi nào, các em nhỉ ?
+... (khi chịu Bí tích rửa tội).
À giỏi lắm, khi cha mẹ ẵm các em còn bé xíu xìu đến nhà thờ, được cha xứ rửa tội để nên con Thiên Chúa, gia nhập Hội thánh, các em nhận được một tên mới là tên của vị thánh. Như các em vừa nói, có em là Giu-se, có em là Phê-rô, các em gái thì mang tên thánh Ma-ri-a, An-na, Tê-rê-sa...
- Có phải các em là thánh Ma-ri-a, là thánh Phê-rô không....?
+... (xét về một phương diện : khi chúng ta lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta được tha thứ hết tội lỗi, được trở thành con Chúa và chi thể Hội thánh nên chúng ta là thánh (x. Pl 4,21 ; Cv 9,13). Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta còn nhiều hạn chế thiếu sót nên chúng ta chưa phải là thánh).
- Vậy, việc nhận tên thánh khi chịu Bí tích rửa tội có ý nghĩa gì vậy, các em?
+...
Trong gia đình, cha mẹ vì yêu thương đặt cho các em tên gọi không chỉ để phân biệt người này với người kia nhưng còn để chứng tỏ mỗi người có một địa vị, một chỗ đứng. Cũng vậy, khi rửa tội, mỗi em nhận một tên thánh là có ý nói từ nay các em chính thức thuộc về một gia đình, gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là Hội thánh. Rồi chính Chúa Giê-su sẽ dùng tên thánh đó để gọi các em như Lời Chúa trong Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an : Mục tử “gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ta” (Ga 10,3).
Đó là ý nghĩa thứ nhất của tên thánh mỗi người. Các em lặp lại : việc nhận tên thánh khi lãnh nhận Bí tích rửa tội có ý nghĩa là, ta được chính thức có tên trong Hội thánh.
- Còn ý nghĩa thứ hai, em nào biết ?
+...
Việc nhận tên thánh khi chịu Bí tích Rửa tội còn có ý nghĩa nữa là chúng ta muốn xin Đức Mẹ, thánh Giu-se hay các thánh bảo trợ giúp đỡ chúng ta, cầu bầu cho chúng ta trước nhan thánh Chúa. Hơn nữa chúng ta còn có một mẫu gương sống động là thánh bổn mạng để noi theo trong việc sống đạo, tập nhân đức. Chị biết có một em trai mang tên thánh là Gio-an Bos-co. Em đó noi gương thánh bổn mạng Gio-an Bos-co bằng cách đã ghi câu : “Chúa nhìn con” thực đẹp và dán ở góc bàn học của mình để tập luôn sống trong sự chăm nom của Chúa. Các em hãy tìm hiểu về thánh bổn mạng của mình để noi gương sáng của các ngài nhá.
Giờ đây, chị mời các em đứng dậy và chúng ta cùng cầu nguyện.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha của chúng con. Chúa là Đấng thánh và Chúa dạy chúng con phải tôn kính Danh thánh Chúa. Nhờ lời cầu bầu của thánh bổn mạng chúng con, xin giúp chúng con biểu lộ lòng tôn kính Danh thánh Chúa bằng chính đời sống thánh thiện của chúng con, để mọi người thấy việc chúng con làm mà tôn kính Danh thánh Chúa. Amen.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi không được kêu tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, mà làm điều bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ kêu tên Người mà làm điều bất xứng” (Xh 20, 7)
82. H. Điều răn thứ hai dạy ta sự gì ? (GLCG.383)
T. Điều răn thứ hai dạy ta bổn phận tôn kính Danh Thánh Thiên Chúa, vì Danh Người là Thánh.
83. H. Để tôn vinh Danh Chúa trong mọi sự, ta nên làm gì? (GLCG.387)
T. Ta nên làm dấu Thánh giá khi khởi đầu ngày sống, khởi đầu mọi kinh nguyện cũng như mọi việc làm.
84. H. Việc nhận tên thánh khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, có ý nghĩa gì ? (GLCG.386)
T. Có hai ý nghĩa này :
- Một là ta được chính thức có tên trong Hội thánh.
- Hai là ta có ý xin Đức Mẹ hoặc các Thánh bảo trợ, đồng thời cố gắng noi gương sáng nhân đức của các Ngài.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Em không kêu Danh Chúa cách bất xứng.
3. Bài làm ở nhà :
Em tìm và ghi vào tập bài làm nhân đức nỗi bật của thánh bổn mạng em.
V. KẾT THÚC.
(như các bài trước).
Bài 21
Điều răn 3 : Thánh hóa
NGÀY CHÚA NHẬT
Lời Chúa : “Ngươi phải nhớ ngày sa-bát mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi” (Xh 20,8-9).
Ý chính : 1. Thánh hóa ngày Chúa nhật (Xh 20,1.8-11).
2. Những việc làm để Thánh hóa ngày Chúa nhật (Mc 2,23-27 ; 3,1-6).
Tâm tình : Hân hoan tham dự thánh lễ, làm việc tông đồ và các việc bác ái trong ngày Chúa nhật, lễ buộc.
Chuẩn bị : Giá sách có phủ khăn, trên đặt cuốn Kinh thánh mở sẵn Xh 20,8-10, hai bên có hoa nến.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đo#n tiếp :
GLV vui vẻ thăm hỏi vài em, sau đó hát bài có nội dung anh em sum họp và có sự hiện diện của Chúa.
2. Thánh hóa :
GLV hướng ý, nhắc nhở các em nhớ Chúa Giê-su hiện diện giữa những người tụ họp lại nhân danh Chúa. Sau đó, làm dấu thánh giá và hát kinh Chúa Thánh Thần.
3. Giới thiệu bài mới :
GLV linh động ngắn gọn kiểm tra bài 20, nên đặt câu hỏi chung cho cả lớp. Sau đó, dành một phút để kiểm tra điểm thực hành bài giáo lý trước. Sau đó, GLV chuyển ý giới thiệu bài mới.
- Các em đã biết và học thuộc : “Đạo Đức Chúa Trời có mấy điều răn” ?
+...
- Các em đọc to lên nào !
+... (Đạo Đức Chúa Trời có...)
- Các em giỏi lắm, đa số đều thuộc kinh 10 điều răn. Các em trả lời tiếp nhé ! 10 điều răn tóm lại thành mấy điều ?
+... (thưa chị 10 điều răn tóm lại 2 điều : kính mến Chúa và yêu thương người).
Đúng rồi, 3 điều răn đầu tiên diễn tả việc kính mến Chúa. Chúng ta đã học :
* Điều răn 1 : Thờ phượng và kính mến một mình Thiên Chúa.
* Điều răn 2 : Tôn kính Danh Thiên Chúa.
Hôm nay, chúng ta sẽ học điều răn 3 : Thánh hóa ngày Chúa nhật.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Các em hãy ngồi yên lặng nghe chị kể chuyện nha !
Thuở ấy, có một vùng đất rất là kỳ diệu : ai đi qua vùng đất đó mà nhặt lấy vật gì thì khi ra khỏi, vật đó sẽ trở thành vàng, bạc, ngọc, ngà châu báu hết. Ví dụ : em A đi qua vùng đất đó và nhặt lấy 1 ký đá, cho vào ba lô rồi đi ra khỏi thì 1 ký đá đó sẽ biến thành một ký vàng.
Nếu bây giờ có một vùng đất như vậy thì các em có thích không ? Các em có đi vào đó để nhặt đất đá không? Các em sẽ nhặt nhiều hay ít ?
Trong tiết giáo lý hôm nay, chị sẽ chỉ cho các em biết có một vùng đất như vậy. Vùng đất đó được gọi là vùng đất ngày Chúa nhật. Nào, các em hãy đứng lên chăm chỉ lắng nghe Chúa dạy chúng ta phải làm gì để biến ngày Chúa nhật thành vùng đất kỳ diệu nha !
B. Công bố Lời Chúa : (Xh 20, 1.8-11).
Lời Chúa trích trong sách Xuất hành
Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng ngày thứ bảy Người đã nghỉ. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Thinh lặng giây lát, rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
Dưới ánh sáng Lời Chúa, trong câu chuyện chị kể cho các em nghe lúc nãy, giúp các em biết rằng các em có thể có một vùng đất kỳ diệu trong cuộc sống của mình, đó là ngày Chúa nhật để rồi tất cả những lo toan vất vả, những cố gắng, những hy sinh, việc đạo đức, bác ái các em làm trong ngày đó sẽ hóa thành vàng bạc, châu báu, ngọc ngà. Các em chú ý nghe nhé ?
1. Thánh hóa ngày Chúa nhật.
(Xh 20,1.8-11)
Chị đố các em câu này :
- Trong đoạn Lời Chúa các em vừa nghe, Chúa bảo chúng ta phải nghỉ ngơi ngày nào ?
+... (ngày sa-bát).
- Ngày sa-bát là ngày thứ mấy vậy ?
+... (ngày thứ bảy).
Các em giỏi lắm, chúng ta vỗ một tràng pháo tay để thưởng các bạn trả lời đúng đi. Nào... (vỗ tay).
Từ thời Cựu Ước cho đến thời Chúa Giê-su, người Do thái vâng theo Lời Chúa dạy qua ông Mô-sê, đã giữ ngày sa-bát, hay nói khác, họ dành trọn ngày thứ bảy cho Thiên Chúa. Họ đã Thánh hóa ngày thứ bảy để tưởng nhớ đến việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, giải phóng dân Do thái ra khỏi nô lệ Ai cập, ký kết với cha ông họ một giao ươc (hợp đồng) tại núi Si-nai. Họ và mọi người trong gia đình họ cùng noi gương Thiên Chúa nghỉ ngơi công việc phần xác trong ngày thứ bảy.
(Nếu có thời giờ, GLV có thể kể câu chuyện Man-na Xh 16,12-30).
Khi Chúa Giê-su sống lại và lên trời thì người Ki-tô hữu Thánh hóa ngày thứ Nhất thay vì này thứ bảy như người Do thái. Các em biết tại sao không ? À, tại vì Chúa Giê-su Ki-tô đã sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần. Người Ki-tô hữu đã dành trọn ngày thứ Nhất trong tuần cho Chúa, họ Thánh hóa ngày này và gọi ngày này là ngày của Chúa. Hay nói gọn hơn là ngày Chúa nhật.
Đối với người Ki-tô hữu, việc Chúa Giê-su Ki-tô sống lại đã khai mạc một cuộc sáng tạo mới, giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi và qua đó, Người cũng ký kết với nhân loại một Giao ước mới. Như vậy, đối với người Ki-tô hữu ngày sa-bát trong thời Cựu ước là hình bóng của ngày Chúa nhật, nên từ nay chúng ta giữ ngày Chúa nhật, dành trọn ngày Chúa nhật để thờ phượng Thiên Chúa. Nói cách khác, người Ki-tô hữu đã Thánh hóa ngày Chúa nhật. Chúng ta làm những việc nào để Thánh hóa ngày Chúa nhật ?
2. Những việc làm để Thánh hóa ngày Chúa nhật
(Mc 2,23-27 ; 3,1-6).
- Chị đố các em câu này nhé ? Ngày Chúa nhật các em thấy cha mẹ, anh chị các em đi đâu nè ?
+...
À, đi nhà thờ để cùng với những tín hữu khác thờ lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, cùng với Cha xứ cử hành thánh lễ Chúa nhật, dâng lên Chúa Cha tất cả những công việc làm lụng vất vả suốt tuần, những vui buồn sướng khổ, những thành công thất bại sáu ngày qua, kết hiệp với của lễ vô giá là Mình Máu Chúa Giê-su để thờ phượng Thiên Chúa Cha, cùng xin Người ban các ơn lành hồn xác.
- À, ngày Chúa nhật còn là ngày thật vui, là ngày sum họp của mọi người trong gia đình giáo xứ đó các em. Vì thế, ai cũng phải đi dự lễ ngày Chúa nhật, ai không đi dự lễ ngày Chúa nhật thì người đó không tôn thờ Chúa là Cha của mình và cũng tự mình tách bỏ với những người khác trong giáo xứ. Khi đi tham dự thánh lễ Chúa nhật, đi đúng giờ, phải tham dự tích cực nữa, nghĩa là phải cùng với các người khác thưa kinh, xướng đáp, hát thánh ca... Và phải tham dự từ đầu lễ cho tới hết lễ, mới làm vui lòng Chúa, chứ đến với Chúa là Cha của mình mà đi trễ, về sớm thì có tốt không các em ?
+... (không).
- Chính Chúa Giê-su đã rất vui thích khi được lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, mà Người gọi là nhà Cha của Người. Tin mừng theo thánh Lu-ca có kể lại chuyện khi Chúa Giê-su lên 12 tuổi, Người đã cùng với thánh Giu-se và Đức Mẹ lên dự lễ tại Giê-ru-sa-lem và Người đã ở lại đó 3 ngày luôn, các em. Như vậy, Chúa nhật có phải là vùng đất kỳ diệu chưa các em ?
+... (phải).
- Chúng ta vừa mới nói trong ngày Chúa nhật, chúng ta phải làm gì nhỉ ?
+... (tham dự thánh lễ).
Đúng rồi, trong ngày Chúa nhật, người tín hữu được nghỉ ngơi công việc nặng nhọc thường ngày, để đi dự lễ và tham dự các giờ kinh chung với nhau.
Ngày Chúa nhật còn để làm gì nữa, các em biết không ? Để có thời giờ chăm nom thăm viếng và giúp đỡ những người láng giềng, những người già yếu bệnh tật nữa đó, các em. Chúa Giê-su đã dạy chúng ta : “Ngày sa-bát được lập ra vì con người (x. Mc 2,27) và phải làm việc thiện (x. Mc 3,1-6). Các em thấy đó, ngày Chúa nhật có tuyệt vời không ? Ngày Chúa nhật có phải là vùng đất kỳ diệu như chuyện chị đã kể cho các em nghe phải không ?
Ngoài ra, trong năm phụng vụ còn có những ngày lễ buộc mà chúng ta phải giữ như ngày Chúa nhật là : lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh, lễ Hiện xuống.
- Vậy, bắt đầu từ Chúa nhật tuần này, các em có đi dự lễ không ?
+... (có).
- Em nào cố tình bỏ lễ thì có tội không, các em ?
+ … (có)
- Các em phải đi dự lễ như thế nào ?
+... (tích cực sốt sắng).
- Trong ngày Chúa nhật, các em còn cố gắng làm những việc gì nữa ?
+... (làm việc đạo đức, bác ái, hy sinh...).
Tóm lại, mỗi tuần lễ, chúng ta phải dành ngày Chúa nhật cho Chúa. Trong ngày Chúa nhật, chúng ta cùng với những tín hữu khác đến nhà thờ, và kết hợp với Chúa Giê-su Ki-tô Linh mục dâng lên Thiên Chúa tất cả vui buồn sướng khổ, để xin Thiên Chúa Thánh hóa và ban cho ta các ơn lành để sống tốt trong tuần sắp tới. Trong ngày Chúa nhật, chúng ta còn phải tham dự các giờ kinh chung và làm các việc lành khác. Như thế, ngày Chúa nhật làm cho cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, có giá trị, và làm cho tất cả cuộc sống của ta nên phong phú.
Giờ đây, tất cả chúng ta hãy đứng lên cầu nguyện :
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, ngày Chúa nhật nhắc nhở chúng con công trình sáng tạo của Chúa và sự Phục sinh của Chúa Kitô. Xin cho chúng con biết sống niềm vui ngày Chúa nhật và làm nhiều việc lành phúc đức.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
(GLV giúp các em ôn lại các Ý chính của bài diễn giải để chuyển sang phần nhớ Lời Chúa)
“Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi”(Xh 20, 8-10).
85. H. Điều răn thứ ba dạy ta những gì ?(GLCG.388)
T. Điều răn thứ ba dạy ta thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.
86. H. Ta phải làm gì để thánh hóa những ngày ấy ? (GLCG.390)
T. Ta phải dự thánh lễ, nghỉ việc xác và nên làm thêm các việc lành, như tham dự các giờ kinh chung, làm các việc bác ái và tông đồ.
87. H. Ta phải dự thánh lễ Chúa nhật thế nào cho đúng luật Hội thánh ? (GLCG.391)
T. Phải tích cực tham dự thánh lễ từ đầu đến cuối, trừ khi được miễn chuẩn vì lý do chính đáng. Nếu ai cố tình bỏ lễ thì mắc tội trọng.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại Ý chính của bài dẫn đưa các em đến quyết tâm).
Em sốt sắng tham dự thánh lễ Chúa nhật.
3. Bài làm ở nhà :
Ngày Chúa nhật tới đây, em tranh thủ giờ đến thăm một người bệnh gần nhà em và ghi vào tập bài làm tên của người đó.
V. KẾT THÚC.
(như các bài trước).
Bài 22
Điều răn 4 : THẢO KÍNH CHA MẸ
Lời Chúa : “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi” (Xh 20,12)
Ý chính : 1. Thảo kính cha mẹ và đạo hiếu của dân tộc Việt nam. (Ep 6,1-4 ; Cl 3,20 ; Cn 6,20-23)
2. Bổn phận trong gia đình, Hội thánh và xã hội (Rm 13,1-5 ; St 4,10 ; 1 Pr 2,13-16)
Tâm tình : - Thảo hiếu ông bà cha mẹ tổ tiên.
- Tôn kính, vâng phục yêu thương và giúp đỡ những bậc bề trên trong đạo ngoài đời.
Chuẩn bị : - Sách thánh kinh mở sẵn Xh 20,12.
- Hình thánh gia : Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se đang làm việc.
- Tranh 24 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV đến sớm, gặp vài em, thăm hỏi. Đến giờ vào lớp, GLV hỏi xem hôm nay lớp mình có bạn nào vắng (để tập cho các em quan tâm đến nhau), nếu có em vắng hỏi xem em nào ở gần nhà bạn đó để biết lý do và động viên em đó thay lớp đến thăm viếng.
2. Thánh hóa :
Làm dấu thánh giá, đọc kinh lạy Cha. Sau đó thinh lặng và GLV cầu nguyện :
Lạy Chúa, chúng con hân hoan vui sướng vì được sum họp nơi đây để được Chúa dạy dỗ. Xin cho chúng con biết chăm ngoan trong giờ giáo lý này và biết sống yêu thương như lời Chúa dạy. Amen.
3. Giới thiệu bài mới :
- Tất cả chúng ta cùng đọc kinh 10 điều răn nào ! (Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn...)
- Trong mười điều răn, chúng ta đã học được mấy điều răn rồi ? (thưa chị, đã học 3 điều răn).
- Điều răn 1 dạy ta những gì ? (em...).
- Điều răn 2 dạy ta sự gì ? (em...).
- Điều răn 3 dạy ta những gì ? (em...).
- Ta phải làm gì để thánh hóa những ngày ấy ?
- Ta phải dự thánh lễ Chúa nhật thế nào cho đúng luật Hội thánh ?
Chúng ta đã học 3 điều răn đầu tiên trong 10 điều răn. 3 điều răn này làm thành 1 bản dạy ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Còn bảy điều răn sau làm thành bản thứ 2 dạy ta yêu thương người khác như bản thân ta. Hôm nay, chúng ta học điều răn 4 dạy ta : thảo kính cha mẹ. Chúa muốn rằng, sau Thiên Chúa, chúng ta phải thảo kính cha mẹ là những người đã sinh ra, nuôi dưỡng chúng ta và dạy chúng ta biết Thiên Chúa. Đồng thời, Chúa cũng dạy chúng ta phải biết tôn kính và yêu mến những người mà Chúa ban cho quyền uy để mưu ích cho ta.
(GLV ghi tên bài mới lên bảng).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
- Các em có biết bài hát nào nói về cha mẹ không ? Nào chúng ta hát một bài nha (GLV cho các em hát bài : em có ba là em có má hoặc bài : ba mẹ là quê hương...).
- Các em hát hay lắm, mỗi người chúng ta ai cũng có ba có mẹ. Có người thì ba mẹ còn sống, có người thì không may mất cha mất mẹ. Các em biết không, cha mẹ là người yêu thương chúng ta nhhiều hơn ai hết. Cha mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả cho con cái được sống hạnh phúc đó, các em, như câu chuyện chị sẽ kể cho các em nghe sau đây : (chuyện chết thay cho con - trích tạp chí kiến thức ngày nay số 71 tr.87-88).
Bé Angelina Lornadi sống ở thành phố Dorila, Argentina, đã can đảm chịu đựng chứng bệnh ung thư bao tử hơn 2 năm nay (trường hợp ung thư rất hiếm xảy ra cho người dưới 30 tuổi). Sau nhiều cuộc giải phẩu và nhiều cách điều trị với tất cả cố gắng, bác sĩ Cortez đành phải báo tin buồn cho bà Maria rằng ông ta đã bó tay và bé Angelina đã chết.
Theo lời bác sĩ Cortez, bà Maria như hóa điên khi nghe tin con mình đã chết. Bức thư viết tiếp : bà không cho bất cứ ai động đến thi thể con gái, bà chỉ quì bên giường đứa bé để cầu nguyện. Chúng tôi nghe bà cầu xin Thiên Chúa cho bà chết thay bé Angelina. Tôi nghĩ tốt nhất là tránh đi một lúc để mặc bà và đứa bé đáng thương đó. Tôi bảo các y tá cùng tôi ra khỏi phòng… Khi trở lại phòng bệnh, tôi không tin ở mắt mình nữa : bé Angelina đang đứng cạnh giường trông rất rạng rỡ và khoẻ mạnh, bà Maria đang gục trên giường không cử động ! Bà thều thào nói với tôi :
- Thưa bác sĩ, Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi.
Bác sĩ Cortez nửa kinh ngạc, nửa hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Angelina và thấy rằng cô bé hoàn toàn bình phục, không còn một dấu vết gì của bệnh ung thư trong cơ thể. Một loạt những xét nghiệm tiếp theo, ông thấy bà Maria sắp chết vì chứng bệnh ung thư bao tử mà nó đã giết chết con gái bà. Các thân nhân của bà cũng kinh hoảng, đến bên giường bà Ma-ri-a trấn an, hứa sẽ nuôi nấng, dạy dỗ bé Angelina nên người. Bà Maria đã chết sau đó vài giờ. Bác sĩ Cortez nói :
“Tôi không thể giải thích chuyện này trên y học. Thực sự đây là một phép màu vì rõ ràng đứa bé đã chết. Có lẽ tôi chưa hiểu biết hết, sức mạnh của tình mẫu tử hoặc một thế lực thiêng liêng nào đó” (GLV thích nghi kể chuyện theo ngôn ngữ và lứa tuổi của các em).
Các em có thấy bà Maria trong câu chuyện, yêu thương con không ? Bà Maria rất yêu con mình và mọi cha mẹ đều rất yêu thương con như vậy. Trước tình yêu thương bao la của cha mẹ như vậy, con cái phải làm gì nào ? Chúng ta hãy đứng dậy nghiêm trang lắng nghe Lời Chúa dạy :
B. Công bố Lời Chúa : (Xh 20,1.12).
Lời Chúa trích trong sách Xuất hành
Thiên Chúa phán những lời sau đây:
“Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Thảo kính cha mẹ và đạo hiếu của dân tộc Việt nam. (Ep 6,1-4; Cl 3,20;Cn 6,20-23;Lc 2,51-52)
- Lời Chúa dạy chúng ta phải có bổn phận nào đối với cha mẹ chúng ta ?
+... (phải thảo kính cha mẹ).
- Tại sao ta phải thảo kính cha mẹ ?
+... (gọi vài em trả lời..)
- Đúng rồi, cha mẹ là người đã cộng tác với Chúa, sinh ra chúng ta nè, rồi cha mẹ còn thay mặt Chúa, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nè. Cha mẹ là người biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta nên chúng ta phải thảo kính cha mẹ. Phải thảo kính cha mẹ như thế nào ?
+... (gọi vài em trả lời...).
- Thảo kính cha mẹ, trước tiên, là phải yêu thương cha mẹ, các em có yêu thương cha mẹ không ?
+...
- Ai cũng yêu thương cha mẹ hết, giỏi lắm. Nhưng tình yêu thương của các em đối với cha mẹ phải bày tỏ ra bên ngoài bằng sự tôn kính : khi cha mẹ gọi thì phải dạ, cha mẹ bảo thì phải thưa vâng ; khi đi ra khỏi nhà thì phải xin phép cha mẹ, khi về đến nhà thì phải trình. Ví dụ : khi các em đi học thì phải thưa như ghế nào ?
+... (thưa cha mẹ, con đi học).
- Còn khi đi học về ?
+... (thưa cha mẹ, con đi học về...).
- Khi yêu thương cha mẹ, các em còn phải vâng lời cha mẹ vì cha mẹ là người thay mặt Thiên Chúa mà dạy dỗ chúng ta nên người tốt và nên con Chúa. Trong gia đình, cha mẹ lo làm lụng vất vả để nuôi sống các em, cho các em ăn học. Các em còn nhỏ, chưa làm được những công việc lớn lao thì phải giúp đỡ cha mẹ trong những công việc nhỏ vừa sức của các em như : quét nhà, giữ em, xếp áo quần cất vào tủ gọn gàng. Dọn chén bát để chuẩn bị bữa cơm... Các em làm được
không ?
+...
- Thảo kính cha mẹ, các em còn cố gắng chăm học, học ở trường cũng như ở nhà thờ. Dù vất vả bao nhiêu, nhưng khi thấy con cái chăm ngoan, cha mẹ vui hay buồn ?
+ …
- Khi các em học giỏi, được phần thưởng, các em về khoe với cha mẹ, các ngài vui hay buồn ?
+ …
Giỏi lắm, chị nhắc lại cho các em nhớ nha. Thảo kính cha mẹ gồm có : yêu thương, tôn kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ. Trong gia đình, do cùng cha mẹ sinh ra, còn có các anh, các chị, các em bé. Chúng ta phải biết kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thế mới đẹp lòng Chúa và vui lòng cha mẹ. Đối với dân tộc Việt nam chúng ta, đạo hiếu rất là quan trọng. Việc thảo kính cha mẹ như là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm cách con người. Nếu như một người nào đó co chức vị cao sang uy quyền to lớn nhưng lại không thảo kính cha mẹ thì người ta sẽ không coi người ấy ra gì và sẽ chê cười người ấy. Còn nếu nhưm ột người dân đen bình thường, nghèo nàn, ít học, chẳng có địa vị gì nhưng lại yêu thương, vâng phục cha mẹ, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, thì ai ai cũng mến phục con người hiếu thảo ấy như là mẫu mực hiếu thảo, nêu gương cho nhiều người (ví dụ : chuyện nhị thập tứ hiếu : 24 người con hiếu thảo). Ngay từ thuở mới ê a cắp sách tới trường các em đã được học :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- Bây giờ chị hỏi các em câu này nhé : Chúa Giê-su có cha mẹ không ?
+... (có).
- Cha mẹ Chúa Giê-su là ai ?
+... (là thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a).
- Đúng rồi, thánh Giu-se là cha nuôi của Chúa Giê-su,còn Đức Ma-ri-a là Mẹ của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su có thảo kính thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a không ?
+... (có).
Đúng lắm, mặc dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giê-su rất thảo kính thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a như trong Tin mừng theo thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta : Chúa Giê-su luôn vâng phục thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a(x. Lc 2,51-52). Đó, các em thấy Chúa Giê-su đã thảo kính đối với cha mẹ để nên gương mẫu cho mỗi người chúng ta. Các em phải noi gương Chúa Giê-su luôn thảo kính cha mẹ mình. Ai thảo kính cha mẹ, người đó sẽ nên giống Chúa Giê-su, làm đẹp lòng Chúa, được Thiên Chúa chúc phúc và ban cho muôn ơn lành hồn xác ở đời này và đời sau.
(Nếu muốn đào sâu thêm, GLV có thể tham khảo Hc 3,2-6.12-13.16).
2. Bổn phận trong gia đình, Hội thánh và xã hội
(Rm 13,1-5 ; St 4,10 ; 1 Pr 2,13-16)
Các em biết không, điều răn thứ 4 còn dạy chúng ta nhiều điều lắm :
- Bổn phận vợ chồng.
- Bổn phận cha mẹ đối với con cái.
- Bổn phận của người công dân đối với chính quyền, thầy giáo.
- Bổn phận đối với Hội thánh …
Các em sẽ được học đầy đủ hơn trong cấp giáo lý sau này. Bây giờ, chị sẽ nói thêm với các em vài điều nữa :
- Trước tiên là bổn phận đối với những người trong gia tộc. Trong gia đình, ngoài cha mẹ các em còn có ai nữa nè ?
+... (còn có ông bà, chú bác, cô dì, cậu mợ, anh chị em...).
Những người trong gia tộc là những người liên hệ huyết thống với chúng ta qua cha mẹ chúng ta : ví dụ : ông bà là người sinh ra cha mẹ. Nên chúng ta phải tôn kính và yêu mến các ngài lúc còn sống cũng như khi đã qua đời.
- Khi các em đến tuổi cắp sách đến trường thì có ai thay cha mẹ dạy dỗ các em về lễ phép, văn hóa và chữ nghĩa vậy.
+... (thầy giáo, cô giáo).
Giỏi lắm, các em hôm nay giỏi thật, chúng ta vỗ một tràng pháo tay để tuyên dương nào (vỗ tay). Chúa yêu thương chúng ta nên ngoài cha mẹ, Chúa còn ban cho chúng ta nhiều người để cộng tác với cha mẹ dạy dỗ chúng ta nên người. Đó là thầy giáo, cô giáo. Vậy các em phải tôn kính, yêu mến và vâng theo sự dạy dỗ của thầy cô giáo trong những điều hay lẽ phải, gắng công học hành để đền đáp công ơn của cha mẹ và thầy cô, đồng thời khi đến trường phải biết yêu thương giúp đỡ bạn bè nữa.
- Là người con Chúa, các em còn có một gia đình rộng lớn rất nhiều, các em có biết gia đình nào không ?
+... (gia đình lớn đó là Hội thánh).
Đúng rồi, Chúa đã qui tụ chúng ta vào một Đại gia đình, trong đó mọi người có Chúa là Cha. Để giúp ích, phục vụ và giúp đỡ các người trong gia đình Hội thánh, Chúa chọn một số người thay Chúa đó là : Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục, các Linh mục (các Cha), các em tôn thờ Chúa nên các em tôn kính, yêu mến và vâng phục các ngài. Cụ thể là trong giáo xứ, các em có cha xứ và những người đại diện của Cha xứ, là các Thầy, các Dì, các anh chị GLV, các em yêu mến và vâng lời.
- Tóm lại, chính Chúa đã cho chúng ta có nhiều người để thay mặt Người, chăm lo cho chúng ta về phần hồn, phần xác, phần đời phần đạo. Vì kính mến Chúa, chúng ta phải kính trọng và vâng lời những người ấy. Các em nhớ không ?
+...
Trong Tâm tình tạ ơn Chúa và vâng theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy đứng dậy dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện :
D. Cầu nguyện :
[nếu các em biết hát bài cầu cho cha mẹ (xin Chúa ý a chúc lành cho đời cha mẹ của con...) thì GLV cho các em hát bài này để cầu nguyện, nếu không thì cầu nguyện theo mẫu sau (hoặc tương tự). Đọc chậm rãi để các em lặp lại].
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con có cha có mẹ để nuôi dưỡng, dạy dỗ con nên người tốt. Xin giúp con biết thảo kính, yêu mến và vâng lời các ngài.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20, 12)
88. H. Điều răn thứ bốn dạy ta những gì ? (GLCG.395)
T. Điều răn thứ bốn dạy ta sống đúng chức phận mình trong gia đình, Hội thánh và xã hội, mà trước hết là phải thảo kính cha mẹ cho tròn chữ hiếu.
89. H. Đạo hiếu của dân tộc Việt Nam dạy ta điều gì ? (GLCG.396)
T. Dạy ta thảo kính đối với ông bà cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời.
90. H. Anh chị em có bổn phận nào đối với nhau? (GLCG.400)
T. Anh chị em trong gia đình phải biết kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
91. H. Ngoài quan hệ huyết thống, ta còn mối quan hệ nào khác nữa không ? (GLCG.401)
T. Ta còn có quan hệ với các phẩm chức trong Hội thánh, những người cầm quyền trong xã hội và những người hướng dẫn giáo dục ta. Ta phải kính trọng và vâng lời những người ấy.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại bổn phận vâng lời cha mẹ để giúp các em quyết tâm).
Em luôn vâng lời cha mẹ.
3. Bài làm ở nhà :
Mỗi ngày em cố gắng giúp cha mẹ một việc nhỏ và ghi việc đó vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
(như bài trước).
Bài 23
Điều răn 5 : TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
Lời Chúa : “Ngươi không giết người” (Xh 20,13)
Ý chính : 1. Tôn trọng sự sống (Mt 5,1-2.21-22 ; Ga 1,14 ; 10,10).
2. Đời sống chung (Mt 5,9.43-48).
Tâm tình : - Hân hoan cảm tạ Chúa và biết rèn luyện thân thể, tôn trọng sự sống.
- Sống hòa thuận với người khác.
Chuẩn bị : - Giá sách với sách Thánh Kinh mở sẵn Mt 5,21-22 (hoặc Xh 20,8-17) và có trang trí xứng hợp.
- Tranh ảnh các sinh vật và ảnh một em bé khỏe mạnh.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV ổn định chỗ cho các em, rồi hát một bái hát thích hợp (Vd : về Thiên Chúa tạo dựng con người...).
2. Thánh hóa :
GLV hướng tâm hồn các em lên Chúa, sau đó đọc kinh lạy Cha và GLV cầu nguyện ít lời :
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cám ơn Cha đã cho chúng con làm người và làm con Cha. Xin ban ơn soi sáng giúp chúng con hiểu được giá trị cao quí của sự sống mà Cha đã ban tặng để yêu quí, bảo vệ sự sống.
3. Giới thiệu bài mới :
- Buổi học lần trước chúng ta đã học bài gì, các em ?
+...
Hôm nay, chúng ta tiếp tục học : điều răn 5 trong bảng II dạy chúng ta phải yêu thương người ! Bài chúng ta học hôm nay là : TÔN TRỌNG SỰ SỐNG. Đây là kiểu nói tích cực của điều răn 5 : chớ giết người.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Cain tức giận khi thấy Thiên Chúa ngó đến Abel và nhận lễ vật của nó, còn của mình thì không ! Cain rủ Abel, em ông, ra đồng và ông đã đâm chết em ! Thi hành xong thủ đoạn, Cain tưởng đắc thắng ! Nào ngờ, Giavê Thiên Chúa hỏi Cain : “Abel, em ngươi đâu ?”. Tiếng máu của em ngươi từ đất kêu oán lên Thiên Chúa. Bây giờ ngươi hãy là đồ chúc dữ” (x. St 4,1-12).
Các em thân mến, qua câu chuyện này, các em thấy Thiên Chúa đã can thiệp, bênh vực khi sự sống bị xúc
phạm ! Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải tôn trọng sự sống. Không chỉ tôn trọng sự sống tự nhiên, mà còn phải tôn trọng phẩm giá và sự sống siêu nhiên như Chúa dạy. Mời các em đứng:
B. Công bố Lời Chúa :
Mt 5,1-2.21-22 (hoặc Xh 20,13)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu :
“Thấy đám đông, Chúa Giê-su lên núi, Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng: “... Anh em đã nghe Luật xưa dạy rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai giận anh em mình thì sẽ bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì sẽ bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát, rồi mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
- Qua đoạn Lời Chúa mà các em vừa nghe, Chúa Giê-su nhắc lại điều răn thứ mấy ?
+... (điều răn 5 : chớ giết người).
Đúng rồi, Chúa Giê-su nhắc lại điều răn 5, phải tôn trọng sự sống của mình và của người khác.
1. Tôn trọng sự sống (Mt 5,1-2.21-22 ; Ga 1,14 ; 10,10 ; Ep 4,23 ; Cl 3,10).
- Chị hỏi các em nhé ! Ai ban cho chúng ta sự sống ?
+... (chính Thiên Chúa).
- Chúa cho các em sự sống qua ai ?
+... (qua cha mẹ).
- Đúng rồi, qua cha mẹ, Chúa ban cho chúng ta được sinh ra và sống làm người. Sự sống mà chúng ta nhận được từ cha mẹ đó, gọi là sự sống tự nhiên.
- Sự sống tự nhiên của con người có giống sự sống của con vật không ?
+... (không).
- Không, vì như các em đã học trong bài 2 và bài 14, con người được tạo dựng giống hình ảnh ai ?
+... (hình ảnh Thiên Chúa).
- Con người có phẩm giá cao cả là hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, tôn trọng sự sống tự nhiên, chúng ta cũng phải tôn trọng phẩm giá con người là hình ảnh Thiên Chúa. Tôn trọng sự sống của mình nên chúng ta có được phép làm những gì xúc phạm đến sự sống của ta không ?
+... (không) (GLV lần lượt cho các em thấy những hành vi tiêu cực xúc phạm đến sự sống : ở bẩn thiếu vệ sinh, ăn uống quá độ, ngủ li bì, lười biếng, quần áo dơ bẩn, xốc xếch, v.v... nói tục, chửi thề... Chặt chân, chặt tay... Và những hành vi tích cực tôn trọng sự sống : ăn ở sạch sẽ, luyện tập thể dục, thể thao, ăn uống, ngủ, làm việc điều độ...).
Tôn trọng sự sống mình chưa đủ, điều răn thứ 5 buộc chúng ta phải tôn trọng sự sống người khác. (GLV lần lượt cho các em thấy những hành vi tiêu cực : giết người, đánh lộn, đả thương, rủ rê bạn bè làm điều xấu, nói hành, nói xấu... Và những hành vi tích cực tôn trọng sự sống : tôn trọng thi hài người chết... thăm nom, giúp đỡ những người đau yếu, người nghèo, tha thứ, biết lịch thiệp, nhã nhặn chào hỏi, đối xử tốt với mọi người...).
- Ngoài sự sống tự nhiên con người còn có một sự sống khác cao quí hơn nhiều. Các em có biết là sự sống nào không ?
+...
- Sau khi sinh chừng 1 tháng, mẹ ẵm các em đến nhà thờ của giáo xứ để làm gì ?
+... (để rửa tội).
Đúng rồi, qua Bí tích rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa, chúng ta nhận được một sự sống nữa cũng chính do Thiên Chúa ban. Sự sống này còn cao quí hơn sự sống tự nhiên nhiều. Đó là sự sống siêu nhiên. Như thế, người Ki-tô hữu chúng ta vừa có sự sống tự nhiên, vừa có sự sống siêu nhiên.
- Khi nào chúng ta mất sự sống tự nhiên ?
+... (chúng ta mất sự sống tự nhiên khi chúng ta chết).
- Còn khi nào chúng ta mất sự sống siêu nhiên ?
+... (chúng ta mất sự sống siêu nhiên khi chúng ta phạm tội trọng).
- Cả sự sống tự nhiên lẫn sự sống siêu nhiên nơi chúng ta đều do Chúa ban. Như vậy, ai là chủ sự sống ?
+... (chính Thiên Chúa là chủ).
Đúng rồi, chính Thiên Chúa là chủ sự sống. (x. Ga 5,21).
Chúng ta còn học nhiều về đề tài này ở cấp II và III. Các em chờ đợi nhé. Sự sống con người cao quí như thế nên Chúa Giê-su dạy chúng ta phải tôn trọng sự sống : giết người, giận anh em, mắng chửi người khác... đều là xúc phạm đến điều răn thứ 5.
- Tóm lại, điều răn thứ 5 dạy ta những gì ?
+... (GLV củng cố để hình thành câu giáo lý 92 và 93).
2. Đời sống chung (Mt 5,9.43-48).
- Chị hỏi các em nhé, các em có bạn bè không ?
+... (có).
- Có khi nào các em và bạn mình nghỉ chơi với nhau không ?
+... (có).
- Đó là khi nào ?
+... (khi giận nhau).
- Khi nào các em lại chơi với nhau ?
+... (khi chúng em làm hòa với nhau).
- Đúng rồi, ai cũng có bạn, bạn bè chơi với nhau thật là vui. Nhưng có khi lại giận nhau, đánh nhau, nói xấu nhau, nghỉ chơi với nhau. Xấu hơn nữa là thù hận nhau nữa chứ. Điều đó có làm đẹp lòng Chúa không ?
+... (không).
Các em nghe Chúa Giê-su dạy chúng ta (mời đứng).
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 5,9.43-48).
Chúa Giê-su nói với dân chúng : Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em : hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như vậy sao ? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
- Chúa Giê-su chúc phúc cho những ai biết tha thứ, làm hòa với nhau. Chúa dạy chúng ta không chỉ yêu bạn bè, người thân mà còn phải yêu cả những người làm hại chúng ta (x.Mt 5,44). Cuộc sống chung trong gia đình, trong trường học, trong lớp giáo lý không luôn luôn gặp được những người yêu thương chúng ta mà còn có cả những người ghét chúng ta, làm hại chúng ta. Cả những người ấy, Chúa dạy chúng ta phải có thái độ nào, các em ?
+... (yêu thương).
- Yêu thương tất cả. Cụ thể trong gia đình, trong lớp, chơi với bạn, các em cố gắng nhường nhịn nhau, tha thứ cho nhau. Nếu lỡ giận nhau thì phải làm sao, các em ?
+... (làm hòa với nhau).
- Các em tập sống tốt, bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù, sống hòa thuận với nhau ngay giữa những người thân thương, trong gia đình với cha mẹ, anh chị, trong trường học với thầy cô, bạn bè để khi lớn khôn, các em biết sống tốt với mọi người các em gặp. Vì Chúa chúc phúc cho người xây dựng hòa bình thế nào, các em ?
+... (họ được gọi là con Thiên Chúa).
D. Cầu nguyện :
(GLV cầu nguyện từng câu và các em lặp lại :)
Lạy Chúa là Cha của chúng con,/ chúng con cám ơn Chúa/ vì Chúa đã ban cho chúng con/ được làm người và làm con Chúa./ Xin giúp chúng con/ biết tôn trọng sự sống / nơi bản thân và nơi người khác,/ biết sống hòa thuận và yêu thương bạn bè./ Amen.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi không giết người”(Xh 20, 13)
92. H. Điều răn thứ năm dạy ta những gì ? (GLCG.404)
T. Điều răn thứ năm dạy ta qúy trọng sự sống tự nhiên và siêu nhiên của mình cũng như của người khác, và do đó, cấm mọi hình thức xâm phạm đến sự sống con người.
93. H. Tại sao ta phải tôn trọng và giữ gìn sự sống ? (GLCG.405)
T. Vì sự sống con người là ơn huệ linh thánh Thiên Chúa ban. Do đó, chỉ một mình Thiên Chúa là chủ sự sống.
94. H. Ta phải làm gì để giúp cuộc sống chung tốt đẹp ? (GLCG.408)
T. Mỗi người cần phải bỏ tính ích kỷ, nóng giận, trả thù. Cần luyện tập sự dịu hiền và biết quan tâm đến người khác, đồng thời phải cố gắng hết sức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hòa bình đích thực.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại Ý chính bài để củng cố các em nhất trí :)
Em luôn tha thứ chứ không cãi cọ, giận hờn.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi lại những lần em giúp bạn làm hòa với nhau.
V. KẾT THÚC.
(như bài trước).
Bài 24
Điều răn 6+9 : SỐNG TRONG SẠCH
Lời Chúa : “Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6,13).
Ý chính : 1. Sống trong sạch (là gì, tại sao, cách thế). (1 Cr 6,13-14.18-20 ; Mt 5,8).
2. Làm gì để sống trong sạch (Mt 5,27-30).
Tâm tình : Yêu mến và giữ đức trong sạch vì thân xác là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Chuẩn bị : Sách Thánh Kinh mở sẵn đoạn 1 Cr 6,13b-14.18-20 và đặt trên giá có trang hoàng xứng đáng.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
(GLV ổn định chỗ ngồi cho các em, nhắc nhở các em về vệ sinh cá nhân và đức tính yêu thương).
2. Thánh hóa :
(GLV cầu nguyện và các em lặp lại :)
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tin Chúa đang ngự giữa chúng con. Chúng con thờ lạy và yêu mến Chúa. Xin chúc lành cho giờ học giáo lý của chúng con và ban Chúa Thánh Thần cho chúng con để chúng con hiểu biết và sống Lời Chúa.
3. Giới thiệu bài mới :
GLV linh động vắn gọn kiểm tra bài cũ sau đó giới thiệu bài mới :
Hôm nay, chúng ta sẽ học về 2 điều răn 6+9. Các em hãy đọc 2 điều răn ấy nào :
- Thứ sáu : chớ làm sự dâm dục.
- Thứ chín : chớ muốn vợ chồng người.
Đó là nói theo kiểu tiêu cực, còn nói theo cách tích cực, 2 điều răn 6+9 dạy ta giữ đức trong sạch trong hành động, lời nói (điều răn 6) và trong tư tưởng (điều răn 9). Chúng ta nói vắn gọn là : SỐNG TRONG SẠCH.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
(GLV linh động kể cho các em nghe chuyện Thánh nữ Ma-ri-a Goretti, trinh nữ, tử đạo, trích trong Phụng vụ Chư Thánh 2, tr. 17).
Ma-ri-a Go-ret-ti được sinh ra và rửa tội ngày 16.10.1890 tại Corinaldo, miền Ancora, thuộc nước Italia, là con thứ ba trong bảy người con của một gia đình nghèo. Mười tuổi đã mồ côi cha và bắt đầu thời cơ cực. Ma-ri-a phải làm việc nhà và lo cho các em nhỏ vì mẹ phải ra đồng làm việc. Vừa được 12 tuổi, Ma-ri-a đã lớn và thật dễ thương : Ma-ri-a phải nhận 14 nhát dao của Alexandro, người hàng xóm, vì Ma-ri-a chống cự lại trò bỉ ổi của thanh niên này. Ngày hôm sau 06.07.1902 Ma-ri-a qua đời ở nhà thương làng Nettuno. Trước lúc tắt thở, Ma-ri-a còn thì thào : “Vì tình yêu Chúa Ki-tô, tôi sẵn sàng tha thứ cho Alexandro và muốn anh cũng được vào thiên đàng với tôi”.
Alexandro hối cải vào năm 1910 qua một cơn mộng : anh thấy Goretti đang đứng trong khu vườn đầy hoa huệ và tặng anh một đóa hoa. Từ đó anh trở thành một tù nhân gương mẫu và được tha năm 1929. Vào tháng 12.1937, anh quỳ xuống chân mẹ của Go-ret-ti, anh nói : “Assunta, chắc không bao giờ chị có thể tha thứ cho tôi phải không ?”Bà đáp : “Tại sao tôi lại không tha thứ ? Goretti đã tha cho anh rồi !” Và họ đã rước lễ bên nhau vào đêm Giáng sinh năm đó.
Năm 1950 Đức Thánh Cha Piô XII đã phong thánh cho Ma-ri-a Go-ret-ti trước sự hiện diện của bà mẹ già yếu và cả Alexandro, kẻ sát nhân.
Qua câu chuyện về thánh nữ Ma-ri-a Goretti, các em có biết vì sao Ma-ri-a Goretti chết không ?... Ma-ri-a Goretti bị giết chết vì Ma-ri-a muốn sống trong sạch theo như Lời Chúa dạy. Chị mời các em đứng lên lắng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa :
1 Cr 6,13-14.18-20
Lời Chúa trong thơ thứ nhất của Thánh Phao-lô tông đồ gởi tín hữu Cô-rin-tô.
“Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại ; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.
Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.
Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao ? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(thinh lặng ít phút).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
Qua đoạn Lời Chúa mà các em vừa nghe, chúng ta thấy có những ý chính nào ?...
Lời Chúa dạy chúng ta : Phải sống trong sạch trong hành động, trong lời nói và trong tư tưởng, vì thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần và sẽ được sống lại vì đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc... Chị sẽ cùng với các em tìm hiểu thế nào là sống trong sạch, và cách thế để sống đức trong sạch nha.
1. Sống trong sạch.
(1 Cr 6,13-14.18-20 ; Mt 5,8).
- Chị hỏi các em nhé, thánh nữ Ma-ri-a Goretti tại sao lại bị Alexandro giết chết bằng 14 nhát dao ?
+...
Vì Ma-ri-a Goretti không chiều theo những hành động xấu, dâm ô mà Alexandro muốn làm với Ma-ri-a Goretti. Như thế, Ma-ri-a Goretti đã sống đức trong sạch theo Lời Chúa cho dù vì đó mà phải chết.
Sống trong sạch trước hết như gương thánh Ma-ri-a Go-ret-ti đã nêu cho chúng ta là không được làm hay chiều theo những hành vi dâm ô. Sau nữa là không được nói hay kể những điều dâm ô tục tĩu, nhìn ngắm hay tưởng nghĩ đến những điều dâm ô. Ví dụ như xem những phim ảnh xấu, hình ảnh xấu. Hoặc là chửi thề nói tục... (GLV hướng dẫn các em tránh những tư tưởng, hành vi dâm ô tại địa phương).
- Tại sao chúng ta phải sống trong sạch như thế ? (em...)
+ … (GLV hỏi vài em và ghi nhận các câu trả lời của các em).
- Lời Chúa đã trả lời cho chúng ta như thế nào ?
+...
a) Lý do thứ nhất :
Ngày các em được lãnh nhận Bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần ngự đến tâm hồn các em để tẩy rửa con người các em nên một tạo vật mới. Và từ đó, Người luôn ở với các em để giúp các em sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Như thế, phải sống trong sạch vì chúng ta là nơi Chúa ngự, là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
b) Lý do thứ hai :
Như Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, khi Chúa Giê-su xuống thế làm người, Chúa mang thân xác giống như mọi người chúng ta và nơi thân xác đó, Chúa đã chịu muôn vàn đau khổ và chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Chính nhờ ơn cứu chuộc của Chúa, thân xác chúng ta ngày sau sẽ được sống lại đó các em.
Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã nói : “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Chúa dạy chúng ta, người sống trong sạch sẽ được lên thiên đàng xem thấy Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời.
Như thế, khi sống trong sạch, các em sẽ trở thành Đền Thờ Chúa ngự, sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng và ngày tận thế thân xác chúng ta dù đã bị hủy hoại cũng được Chúa biến đổi và cho sống lại.
- Các em có muốn sống trong sạch, như Chúa dạy không ?
+... (có).
Chúng ta phải làm thế nào để sống trong sạch ?
2. Những cách thế để sống trong sạch (Mt 5,27-30).
(GLV lược kể Mt 15,10-11.15-20 rồi hướng dẫn :)
Chúa Giê-su cho chúng ta thấy đức trong sạch phát xuất từ tâm hồn, từ tâm trí. Vì thế, cần phải làm cho tâm hồn trong trắng (x. Mt 5,28-30) Chúa mời gọi chúng ta cố gắng thực hiện những việc làm sau :
* Thứ nhất : siêng năng cầu nguyện, đi dự lễ và từ khi được xưng tội rước lễ lần đầu thì các em phải năng xưng tội và rước lễ để được lãnh nhận dồi dào ơn Chúa vì chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể sống đẹp lòng Chúa được.
* Thứ hai : là siêng năng đi học giáo lý, lắng nghe Lời Chúa, đọc Sách Thánh và những sách báo lành mạnh thích hợp tuổi các em như : Báo nhi đồng, rùa vàng, Khăn quàng đỏ (tùy theo giá trị của những báo này ở từng thời điểm mà giới thiệu).
* Thứ ba : sáng suốt làm chủ giác quan của mình như : giữ gìn con mắt trong sáng, không tò mò, không nhìn xem những cảnh đời lố lăng, tranh ảnh và phim ảnh, khi người khác nói những điều bậy bạ thì các em tránh xa, đừng nghe, đừng hùa theo, không chửi thề, nói tục, nhất là tránh xa những bạn bè xấu (x. Mt 5,29-30), còn bé tí tẹo mà đã bày đặt kết bè tụ nhóm ăn nhậu, phá xóm làng.
* Thứ bốn : giữ vệ sinh thân thể, tập luyện thể dục, chơi thể thao để thân thể được lành mạnh, ăn mặc đoan trang, kín đáo, nói năng lễ độ, cư xử nhã nhặn, giao tế lịch thiệp. v.v…
Trong tâm tình đó chị mời các em đứng lên cầu nguyện :
D. Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân ái ! Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng con được trở nên Đền thờ Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con biết giữ gìn linh hồn và thân xác luôn trong sạch để xứng đáng với phẩm giá cao quí ấy.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
Củng cố các Ý chính của bài để hình thành bài học.
“Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”(1 Cr 6,13).
95. H. Điều răn thứ 6 và 9 dạy ta sự gì ? (GLTĐ.337)
T. Dạy ta giữ đức trong sạch trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
96. H. Có những tội nào phạm đến đức trong sạch ? (GLCG.411)
T. Có những tội này :
- Một là nhìn ngắm hoặc tưởng nghĩ những điều dâm ô.
- Hai là nói những lời dâm ô, thô tục hoặc những lời ám hiểu ý tà, và phổ biến phim ảnh, sách báo khiêu dâm.
97. H. Muốn giữ tâm hồn trong sạch ta phải làm gì ? (GLCG.436)
T. Ta phải giữ những việc này :
- Một là chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.
- Hai là sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng.
- Ba là sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.
- Bốn là năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(Nhắc lại từng ý chính của bài để nhắc nhở các em nhất trí quyết tâm) :
Em không xem sách báo phim ảnh xấu.
3. Bài làm ở nhà :
Ghi vào tập bài làm số lần tắm rửa trong tuần.
V. KẾT THÚC.
(như các bài trước).
Bài 25
Điều răn 7 : GIỮ SỰ CÔNG BẰNG
Lời Chúa : “Anh em nợ ai cái gì, thì phải trả cho người ta cái đó” (Rm 13,7).
Ý chính : 1. Sống công bằng (Rm 13,7 ; Mt 22,21).
2. Những tội lỗi đức công bằng (Xh 20,16).
3. Đền trả theo đức công bằng (Lc 12,57-59 ; Mt 5,26).
Tâm tình : Tạ ơn Chúa về những gì đã nhận được và sẵn sàng chia sẻ của cải cho những người đói kém.
Chuẩn bị : Sách Kinh thánh mở sẵn Rm 13,7-8.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa : (như bài trước)
3. Giới thiệu bài mới :
(tương tự như bài trước).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Em Thường, 9 tuổi, cõng em bé đi chơi cùng với các bạn. Đến trước cổng nhà thờ, đột nhiên em để ý đến một gói nylon vuông vức bên vệ đường. Tò mò, em nhặt lên và mở ra coi. Em kinh ngạc khi nhận ra đó là một gói tiền, em xúc động nói với các bạn :
- Các bạn ơi, mình nhặt được gói nhiều tiền lắm. Các bạn ùa đến xem, có bạn nói :
- Chia cho mình với, mình cũng thấy. Các bạn khác cùng hùa theo : chia cho mình nữa, chia cho mình nữa !
Sau một lúc ngần ngừ, Thường nói với các bạn :
- Không được đâu các bạn ạ. Mình phải đem vào nhà xứ. Và các em đã cùng nhau kéo vào cha xứ. Các em thưa với cha : Thưa cha, bạn Thường nhặt được một món tiền to lắm.
Cha xứ nói :
- Đâu nào các con đưa cha xem.
Nhận gói tiền từ tay em Thường, cha nói :
- Các con giỏi lắm, cha nhận gói tiền này và Chúa nhật này, cha sẽ rao ở nhà thờ để ai mất, đến nhận lại. Các con đã sống xứng đáng là thiếu nhi công giáo. Cha rất hãnh diện vì các con đã sống thành thật và công bằng.
Các em đang định chào cha xứ ra về thì một bà bước vào nhà xứ và vội vã thưa với cha :
- Thưa cha, con đi lấy tiền hàng về nhưng về đến nhà thì mới biết đánh rơi mất. Xin cha khấn cho con tìm lại được, kẻo con chết mất !
Cha xứ cầm gói tiền mà em Thường vừa trao : “Có phải gói này không ? Có bao nhiêu tiền ?”
Bà reo lên :
- Thưa cha đúng rồi, tất cả là 3 triệu. Ở đâu vậy cha ?
Cha xứ trao lại cho bà và chỉ vào các em nói :
- Các em đây đã lượm được và vừa mới trao cho tôi đó !
Câu chuyện trên đã xảy ra ở một giáo xứ trong giáo phận chúng ta. Mà chính cha xứ đã kể lại trong thánh lễ Chúa nhật.
- Giờ chị hỏi các em nhé : Cha xứ đã khen bạn Thường và các bạn như thế nào ?
+... (sống xứng đáng là thiếu nhi công giáo).
- Đúng rồi, nghĩa là cha khen các bạn sống theo lời Chúa dạy. Vậy chị mời các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Rm 13, 7-8)
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô tông đồ gởi tín hữu Rô-ma.
“Anh em nợ ai cái gì, thì phải trả cho người ta cái đó : nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính. Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái ; vì ai yêu người, thì đã chu toàn lề luật”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Sống công bằng
(Rm 13,7 ; Mt 22,21).
Thánh Phao-lô đã dạy cho biết cách sống công bằng : “Nợ ai cái gì thì phải trả cho người ta cái đó”. Chúa Giê-su cũng đã dạy như thế : “Của Xê-da trả cho Xê-da” (Mt 22,21).
- Trong câu chuyện đầu giờ, nếu bạn Thường đem số tiền lượm được chia cho các bạn thì bạn Thường có làm theo Lời Chúa dạy không ?
+... (không).
- Tại sao vậy ?
+... (vì số tiền đó không phải của bạn Thường).
- Vậy số tiền đó của ai ?
+... (của bà đánh rơi).
Đúng rồi, các em đã trả lời rất đúng. Số tiền ấy vẫn là của người đánh rơi, bạn Thường không được phép đem chia cho các bạn nhưng đem vào cha xứ để trả lại cho người bị mất. Điều đó đúng với Lời Chúa dạy trong điều răn 7 : chớ lấy của người, hay nói cách khác, là phải sống công bằng, nghĩa là trả cho người khác cái gì thuộc về họ. Điều răn 7 còn dạy nhiều điều khác nữa. Chúng ta cùng tìm hiểu nha :
- Chị hỏi các em : Nếu không có tiền, các em có thể có quần áo để mặc, có cơm để ăn, có sách vở để đi học không ?
+... (không).
- Cơm ăn, áo mặc là những điều cần thiết để cho con người sống. Nếu không có những thứ đó, người ta dễ phạm tội ăn trộm, ăn cắp lắm các em ạ “bụng đói, đầu gối phải bò” mà! Như thế, ai cũng cần có những thứ thiết yếu để sống xứng đáng phẩm giá con người. Và còn nhiều thứ khác cần thiết nữa, phải không các em ? Để có được những thứ đó, người ta phải làm việc vất vả mới có tiền mua sắm. Những thứ đó trở thành của cải riêng mỗi người. Chúng ta có được phép cướp lấy những thứ đó không ?
+... (không).
- Đúng rồi, chúng ta phải tôn trọng những của cải riêng đó, phải không ?
+... (phải).
Quyền có tài sản riêng do công sức làm ra hoặc do người khác tặng cho cách chính đáng, được gọi là quyền tư hữu.
- Giờ chị hỏi tiếp nhé, Chúa ban tất cả những thứ trên quả đất này cho một người hay cho tất cả mọi người ?
+... (cho tất cả mọi người).
- Đúng rồi, Chúa ban cho mọi người được hưởng các tài nguyên mà Chúa sáng tạo (x. St 1,28-29). Ví dụ trong một buổi đi chơi, em khám phá ra một mỏ vàng thì có phải tất cả mỏ vàng là của em không ?
+ ...
- Số vàng đó không phải là của em đâu, mà là của mọi người. Em sẽ được hưởng một phần số vàng đó vì đã có công tìm ra. Phần lớn còn lại sẽ được dùng cho ích lợi của mọi người như xây dựng trường học, bệnh viện, nhà dưỡng lão... Các em có hiểu không ?
+...
Tóm lại, điều răn 7 dạy ta sống công bằng theo hai nghĩa sau đây :
* Một là tôn trọng của cải người khác vì mỗi người có quyền có của cải riêng để bảo đảm nhân phẩm và nhu cầu cuộc sống gọi là quyền tư hữu.
* Hai là sử dụng của cải trong tinh thần liên đới và chia sẻ với mọi người vì tài nguyên trong vũ trụ được Thiên Chúa ban chung cho mọi người.
2. Những tội lỗi đức công bằng
(Xh 20,16).
- Chúng ta vừa nói sống công bằng nghĩa là phải tôn trọng của cải người khác, phải không các em ?
+... (phải).
- Nếu ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp thì có tôn trọng của cải người khác không ?
+...
Ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp … là không tôn trọng của cải người khác, nghĩa là lỗi đức công bằng.
- Còn gian lận, ví dụ : khi làm bài kiểm tra, em không học bài mà muốn được nhiều điểm hơn các bạn khác nên em quay bài liệu hay “cóp” bài của bạn khác, làm như thế có công bằng
không ?
+...
- Còn như có nhiều người cho vay ăn lời quá đáng, hay ăn hối lộ, lấy của chung về làm của riêng cho gia đình mình, hay ghìm giá người bán, “cắt cổ” người mua thì có công bằng không ?
+...
Đó là những tội mà người ta gọi là lấy của người khác cách bất công đó các em. Còn một loại tội nữa mà người ta gọi là giữ của người ta cách bất công, chị cũng nói cho các em hiểu nha : đó là mượn tiền mà không trả nè, mượn hay lượm được cái gì mà không trả cho chủ của nó nè, thuê người ta làm công mà không trả tiền công cân xứng nè, trốn thuế nè, chứa đồ ăn cắp nè... Đó là tội giữ của người khác cách bất công.
3. Đền trả theo đức công bằng
(Lc 12,57-59 ; Mt 5,26).
- Chị hỏi các em nha ! Nếu em lỡ lấy hay giữ của nguời khác cách bất công. Sau đó em hối hận biết mình đã làm buồn lòng Chúa thì các em phải sửa chữa như thế nào ?
+... (phải đi xưng tội ạ, phải trả lại ạ...).
- Các em phải đi xưng tội và trả lại cho chủ, nếu đã làm hư thì sao nào ?
+... (phải đền ạ...).
Đúng rồi, phải bồi thường cho cân xứng cái thiệt hại đã gây ra.
Các em thân mến,
Của cải chúng ta có là do công khó của cha mẹ và những người thân làm ra, nhưng thực ra là do Chúa ban cho và Chúa muốn chúng ta phải biết dùng của cải để làm việc bác ái, giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật... Thiên Chúa chúc phúc cho những ai biết thương xót người khác và Người sẽ xót thương người ấy (x. Mt 5,7). Chúa Giê-su còn nói rõ : ai giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật... là giúp đỡ chính Chúa (x. Mt 25,31-46).
Vì thế, không những chúng ta phải sống công bằng mà còn phải sống yêu thương nữa. Làm như thế, chúng ta sắm sẵn cho mình một kho tàng trên trời (x. Mt 19,21). Trong tinh thần đó, chị mời các em đứng lên cầu nguyện :
D. Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa là Đấng thưởng phạt công minh. Xin dạy chúng con biết tôn trọng của cải người khác, và nếu làm thiệt hại thì biết can đảm đền bù.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
- GLV củng cố bài để hình thành bài học :
“Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó” (Rm 13, 7)
98. H. Điều răn thứ bảy dạy ta những gì ? (GLCG.416)
T. Điều răn thứ bảy dạy ta sống công bằng theo hai nghĩa :
- Một là tôn trọng của cải người khác vì mỗi người được quyền có của cải riêng để bảo đảm nhân phẩm và nhu cầu cuộc sống, gọi là quyền tư hữu.
- Hai là sử dụng của cải trong tinh thần liên đới và chia sẻ với mọi người, vì tài nguyên trong vũ trụ được Thiên Chúa ban chung cho mọi người.
99. H. Tội lấy của người khác cách bất công là những tội nào? (GLCG.417)
T. Là những tội này :
- Một là trộm cướp,
- Hai là gian lận,
- Ba là cho vay ăn lời quá đáng,
- Bốn là nhận của hối lộ hoặc thâm lạm của công.
- Năm là đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng.
100.H.Tội giữ của người khác cách bất công là những tội nào ? (GLCG.418)
T. Là những tội này :
- Một là không trả nợ,
- Hai là không hoàn lại của đã mượn hay lượm được,
- Ba là không trả tiền công xứng đáng,
- Bốn là trốn thuế,
- Năm là oa trữ của gian.
101.H.Kẻ đã lỗi đức công bằng thì phải làm thế nào ? (GLCG.420)
T. Phải hoàn trả lại những tài sản đã chiếm đoạt, và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại Ý chính của bài để giúp các em nhất trí quyết tâm :)
Không bao giờ lấy hoặc giữ của gì không phải là của em.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi vào vở bài làm em đang giữ những gì của người khác và xác định ngày trả lại.
V. KẾT THÚC.
(như bài trước).
Bài 26
Điều răn 8 : TÔN TRỌNG SỰ THẬT
Lời Chúa : “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ” (Mt 5, 37).
Ý chính : 1. Tôn trọng sự thật (Mt 5,33-37 ; Gc 5,12 ; 2 Cr 1,18-22).
2. Tội nghịch điều răn 8 (Gc 8,44 ; Mt 5,33-37).
Tâm tình : Yêu mến, tôn trọng sự thật.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa :
(GLV giúp các em cầu nguyện :)
Lạy Chúa Giê-su, chúng con muốn trở thành người tốt để xứng đáng là người con ngoan của Chúa. Xin Chúa giúp và Thánh hóa giờ học này của chúng con.
3. Giới thiệu bài mới :
(tương tự bài trước).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lúc còn nhỏ, Gandhi trốn học về nhà. Vì sợ bị quở trách, ông nói dối mẹ. Bà mẹ biết, bèn nhất định không ăn cơm. Ông khóc nài nỉ mẹ ăn, nhưng bà mẹ cương quyết không đổi ý kiến, bà nói : “Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì nói dối là tỏ ra mình có một tâm hồn khiếp nhược. Có con như thế là một cái nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa”. Gandhi bèn quả quyết đứng lên, đi thẳng lại chỗ nấu ăn, lấy một cục lửa than để trên bàn tay và nói : “Con thề với mẹ, suốt đời con không bao giờ nói dối nữa”. Bà mẹ mừng quá, ôm con vào lòng khóc.
Suốt đời Gandhi không bao giờ thất hứa với mẹ. Ông thường bảo kẻ khác : “cái vết trên bàn tay tôi là hình bóng của mẹ tôi. Đây là vị thiên thần phù hộ tôi trong vòng thành thật và danh dự”.
Các em thấy, mẹ của Gandhi chịu chết đói, chứ không nhận một đứa con nói dối. Bà nói : “Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì nói dối là tỏ ra mình có một tâm hồn khiếp nhược. Có con như thế là một cái nhục cho mẹ”.
Bà dạy con thật thà là một đức tính quý giá, là danh dự của con người.
Hôm nay, chúng ta cùng học bài điều răn 8 “tôn trọng sự thật”. Các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Mt 5,33-37)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng : Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát, rồi mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Tôn trọng sự thật.
(Mt 5,33-37;Gc 5,12;2 Cr 1,18-22).
- Theo bài Tin mừng các em vừa nghe, em nào có thể cho chị biết : Chúa dạy sống thành thật thế nào ?
+... (có thì nói có, không thì nói không).
À đúng rồi, “có thì nói có, không thì nói không”. Nghĩa là chúng ta phải nói sự thật, không được nói thêm, bớt, bóp méo, nói dối… Người nói dối không phải là người tốt.
Khi có chuyện gì xảy ra, ai cũng mong biết đâu là sự thật (GLV cho những thí dụ cụ thể).
- Biết được sự thật người ta mới nói đúng, nghĩ đúng, làm đúng. Ai đánh lừa ta phạm tội, các em biết không ?
+... (ma quỷ).
- Phải rồi, ma quỷ đánh lừa ta, cám dỗ ta phạm tội, để ta phải sống trong ngu dốt và sai lầm. Các em còn nhớ bài “Tội tổ tông” không ?
+... (GLV ôn lại cho các em vài ý).
- Ngày xưa, Chúa Giê-su đi rao giảng, Chúa rất thích các em nhỏ bằng cỡ tuổi các em đó “Thầy bảo thật anh em : “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3 ; Mt 19,14). Các em biết tại sao không ?
+... (vì các em nhỏ đơn sơ thành thật).
- Chị đố các em nhé : Chúng ta là con của ai vậy ?
+... (con của Chúa).
- Là con của Chúa, chúng ta phải làm gì ?
+... (phải vâng lời Chúa và noi gương Chúa).
Chúa Giê-su đã luôn sống chân thật. Nhìn vào Chúa, ta thấy tất cả nơi Người là sự thật, luôn nói sự thật và dám chết vì sự thật (x.Ga 8,40 ; 18.23 ; 18.37). Các tông đồ cũng can đảm nói sự thật và chịu đau khổ vì sự thật. (x.Cv 4,20 ; 5,29-32).
- Vậy muốn nên giống Chúa Giê-su và các tông đồ, chúng ta phải làm gì ?
+... (tôn trọng sự thật).
- Các em lặp lại câu Lời Chúa mà Chúa Giê-su dạy hôm nay nào :
+... (“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ” - Mt 5, 37).
2. Tội nghịch điều răn 8.
(Gc 8,44 ; Mt 5,33-37).
- Các em có nhớ ai cám dỗ bà Evà ăn trái cấm không ?
+... (ma quỷ).
- Khi nghe theo ma quỷ, bà Evà có được gì không ?
+... (không, lại còn mất quyền làm con Thiên Chúa, phải đau khổ, phải chết).
Mời các em đứng lên nghe Lời Chúa. Đoạn Tin mừng này Chúa Giê-su tố cáo hành động của ma quỷ :
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 8,44).
“Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát và mời ngồi)
- Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chị đố các em : cha của dối trá là ai ?
+... (ma quỷ).
- Các em có muốn làm con ma quỷ không ?
+... (không).
- Vậy các em không được nói dối, vì nói dối làm sai sự thật, đánh lừa người ta (GLV cho ví dụ). Nếu ai làm như thế sẽ làm con cái ma quỷ.
Ai trong chúng ta cũng có danh dự của mình, bị mất danh dự, ai cũng xấu hổ, tức tối. Vì thế, khi chúng ta nói xấu, vu oan giá họa cho người khác hoặc làm chứng dối là chúng ta làm mất danh dự người khác. Luật đòi buộc ta phải đền danh dự cho người ta và phải đền bù những thiệt hại vật chất, nếu có.
Các em đã học điều răn 8 “Tôn trọng sự thật”. Với kinh nghiệm của người lớn, chị thấy rằng, khi chúng ta thành thật thì lời nói của chúng ta rất có giá trị, đó là danh dự của mỗi người và chúng ta làm mọi người tin tưởng, quí mến. Còn những người hay dối trá, chẳng ai thèm chơi hoặc nghe lời họ nói.
Ngoài ra, khi nói dối, nói xấu, làm chứng gian, là chúng ta có một tâm hồn đen tối, một cái miệng nhơ bẩn. Ở trong tình trạng như vậy chắc chắn Chúa không dám ở với các em, làm sao các em dám mở miệng rước Mình Máu Thánh Chúa được. Các em nhớ nhé.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
GLV củng cố để hình thành bài học :
“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỉ” (Mt 5, 37)
102.H. Điều răn thứ tám dạy ta những gì ? (GLCG.425)
T. Điều răn thứ tám dạy ta sống thành thật, làm chứng cho sự thật và tôn trọng danh dự mọi người.
103.H.Có những tội nào nghịch với điều răn thứ tám ? (GLCG.427)
T. Có những tội này :
- Một là làm chứng gian dối và bội thề,
- Hai là làm mất thanh danh người khác như : nói hành, nói xấu, và vu khống, cáo gian.
- Ba là nói dối.
- Bốn là tán dương người khác khi họ làm điều xấu.
- Năm là không làm chứng cho sự thật.
104.H. Nói hành, nói xấu là gì ? (GLCG.429)
T. Nói hành, nói xấu là tỏ cho người khác biết những tật xấu hay lỗi lầm của tha nhân khi không có lý do chính đáng.
105.H. Nói dối là gì ? (GLCG.430)
T. Nói dối là nói sai sự thật với ý định đánh lừa người ta. Tội nói dối nặng hay nhẹ tùy theo mức độ sự thật bị bóp méo, các hoàn cảnh, ý hướng của người nói và thiệt hại gây ra.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại Ý chính để hướng dẫn các em nhất trí :)
Em quyết tâm suy nghĩ và nói đúng sự thật.
3. Bài làm ở nhà :
Sau giờ kinh gia đình tối nay, em kiểm điểm trong tuần qua đã nói dối mấy lần và ghi vào tập bài làm để thấy rõ tội của mình mà sám hối.
V. KẾT THÚC.
- Nhắc nhở : là con cái Chúa, chúng ta phải vâng lời Chúa dạy là sống thành thật để Chúa và mọi người thương.
- Đọc kinh Sáng danh.
- (Chào nhau).
Bài 27
Điều răn 10 : CHỚ THAM CỦA NGƯỜI
Lời Chúa : “Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”
(Xh 20,17).
Ý chính : 1. Không tham của người (Mt 4,8-10 ; 23,14 ; 6,19-21).
2. Sửa chữa tính tham lam. (Mt 6,19-21).
Tâm tình : Bằng lòng, vui vẻ chấp nhận những gì Chúa ban cho mình.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước)
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, chúng con tụ họp nhau đây để học biết và tuân giữ các điều Chúa dạy. Xin Chúa giúp chúng con và ban thêm sức mạnh, để chúng con sống điều Chúa muốn là mến Chúa và thương yêu nhau.
3. Giới thiệu bài mới :
(tương tự bài trước).
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một tờ báo đã tường thuật câu chuyện sau :
Do chiến tranh, gia đình nọ đã lạc mất người con, năm tháng qua đi, ai cũng nghĩ anh ta đã chết.
Một buổi tối, trời mưa tầm tã, người cha trong gia đình nọ dìu một anh thanh niên, quần áo sang trọng nhưng mặt mũi trầy xước đầy máu me về nhà.
Vợ cùng hai người con giúp băng bó vết thương cho anh ta. Trong lúc làm, họ thấy trên cổ nạn nhân một sợi dây chuyền vàng rất to và đẹp : trong túi quần có một số tiền lớn. Lòng tham nổi lên, họ đã cho thanh niên nọ uống ly nước có pha thuốc độc để giết chết anh ta và chiếm hữu của cải.
Thời gian sau, câu chuyện bại lộ, người mẹ cùng hai người con phải ra trước tòa án. Người ta điều tra tung tích nạn nhân và cho biết người chết chính là đứa con đã bị lạc năm nào ! Và từ đó trong làng xuất hiện ba người điên, quần áo bẩn thỉu, ngày ngày đứng
ở đầu đường xó chợ, vừa cười vừa khóc !!!
- Chị hỏi các em : người điên đó là ai ?
+... (3 mẹ con).
- Điều gì đã khiến ba người ở câu chuyện trên phạm tội giết người ?
+... (tham của người).
Để biết Chúa dạy làm sao đối với của cải người khác, mời các em đừng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Xh 20,1-2.17)
Lời Chúa trong sách Xuất hành.
“Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây : “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa hay bất cứ vật gì của người ta”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Không tham của người.
(x.Mt 4,8-10; Mt 23,14; Mt 6,19-21; Is 5,8-9; Tv 21,1-24; 2 Sm 12,1-7).
- Qua Lời Chúa vừa nghe, các em có nhớ Chúa dạy điều gì không ?
+... (GLV nhắc cho các em lặp lại). Chúa dạy ta không được ham muốn của cải người khác.
- Điều răn 10 cấm ta tham lam của người, vì lòng tham là nguồn gốc tội ăn cắp, gian lận, ghen ghét, chiếm hữu bằng bạo lực như câu chuyện chị vừa kể ở trên.
+... (GLV có thể lược kể câu chuyện con chiên người nghèo trong 2 Sm 12,1-7 để minh họa).
- Trong cuộc sống hằng ngày, khi thích cái gì, các em có hay nghĩ tới nó không ?
+... (có). (GLV cho ví dụ Mt 6,21).
- Chúng ta thích giàu sang, thích quần áo đẹp, thích có nhiều tiền, lắm của. Đây là những ham muốn chúng ta thường mắc phải, lòng tham của ta dễ bị khơi dậy lắm đó. Những lúc như thế, chúng ta dễ bị cám dỗ, nó làm lòng trí ta lúc nào cũng mơ tưởng, ước ao chiếm đoạt, bày mưu tính kế (x.vườn nho Nabot 1 V 21,1-24). Những người như vậy tâm hồn có bình an không các em ?
+...
- Lòng tham lam khiến lòng ta ra mù tối, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai nhạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội. Các em thấy những tai hại của lòng tham lam chưa ?
+...
- Chỉ ở trong Chúa, các em mới thấy hạnh phúc an bình (x. Tv 33,21), còn những lúc tâm hồn áy náy, bất an là các em đang sống trong vòng vây của tội lỗi. Vậy để tâm hồn được bình an Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay là gì ?
+... (Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta).
- Tóm lại, điều răn thứ 10 dạy ta những gì ?
+... (GLV củng cố các em hình thành câu giáo lý 106 : điều răn thứ 10 dạy ta : giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng,/ để không tham lam / muốn lấy của người khác / và không ghen tỵ với người khác).
2. Sửa chữa tính tham lam.
(Mt 6,19-21).
Một vị thần có rất nhiều phép màu. Người nọ gặp được, xin cho được giàu có hơn thiên hạ. Vị thần đồng ý và phán rằng :
- Ta cho nguơi đuợc làm chủ tất cả những đất nào mà ngươi bước qua, kể từ phút này đến lúc mặt trời lặn.
Nghe thấy thế, ông ta cảm ơn vị thần và cắm đầu cắm cổ chạy như tên bắn. Chạy mãi, chạy mãi, chạy bất kể chông gai, mồ hôi đẫm mình, đói không dám ăn, khát không kịp uống.
Ôi quả đất thì mênh mông mà lòng tham lại không đáy ! mặt trời sắp lặn rồi. Anh ta phóng mình chạy nhanh hơn nữa, hơi thở hổn hển, quả tim muốn tan vỡ, mắt mũi hoa lên. Chỉ còn 5 phút nữa... Một phút nữa là mặt trời khuất dạng ! Mau lên, mau hơn nữa ! Anh ta cố gắng tự nhủ và lê tấm thân tàn tạ giữa khoảng mênh mông của trời đất. Anh chỉ còn là hiện thân của đau khổ, đang vật vờ, khô héo. Mặt trời vừa khuất dạng là lúc anh ngã lăn ra bất tỉnh, ngay sau đó anh ta đã chết vì kiệt sức.
- Chị đố các em, anh ta có được bao nhiêu đất để trở nên giàu có không ?
+... (anh ta chỉ chiếm được 3 tấc đất để chôn tấm thân tàn tạ của anh ta thôi, các em ạ).
(GLV cũng có thể kể Lu-ca 12,16-21).
Như vậy đối với của cải ở trần gian này, Chúa dạy chúng ta điều gì ? Các em đứng lên lắng nghe Lời Chúa nhé.
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu (Mt 6,19-21).
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mốimọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát rồi mời ngồi)
- Chúa dạy chúng ta ham muốn kho tàng trần gian hay kho tàng nào các em ?
+...
- Kho tàng trên trời là nơi hạnh phúc nhất của con người, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ sệt gì nữa. Được nằm trong vòng tay yêu thương của Chúa, như em thơ ngủ yên giấc trong tay mẹ hiền. Các em có thích được như vậy không ?
+... (GLV có thể minh hoạ chim trên trời, huệ ngoài đồng trong Mt 6,25-32 rồi kết luận :)
Các em phó thác cuộc đời mình trong tay của Chúa. Tìm kiếm Chúa trong mọi suy nghĩ, hành động vì Chúa nói : “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ cho thêm” (Mt 6,33).
- Tìm kiếm Chúa như vậy, các em có bị thiệt thòi không ?
+...
- Có Chúa là có tất cả, thế nên khi thấy người ta giàu có, nhiều của cải, các em không những không được ghen tức hay tham lam ao ước mà còn phải cầu nguyện cho họ, có khi lại phải khuyên nhủ họ nữa đó. Vì sao, các em biết không ?
+...
- Vì ma lực của tiền bạc dễ làm lòng người ra tối tăm “... anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Chính vì điều này mà ta phải cầu xin cho họ.
- Các em có biết ghen tị là gì không ?
+... (GLV giải thích : là buồn phiền khi thấy người khác có của cải và ước ao chiếm đoạt, là mong cho người khác gặp tai hoạ, tìm cách trù diệt người khác. GLV có thể minh hoạ bằng câu chuyện Sao-lê ghen với Đa-vit - 1 Sm 18,6-15).
- Biết ghen tị là như thế. Thánh Au-gus-ti-nô nói rằng đây là tội phạm hàng đầu của ma quỷ vì từ ghen tị sinh ra lòng ghen ghét, nói xấu, vu khống, mong người ta gặp điều bất hạnh. Vậy không ghen tị là chúng ta giữ được giới răn thứ mấy của Chúa?
+...
- Của cải trần gian này sẽ qua đi và mau hư mất, chết rồi chẳng đem theo được gì (x. Lc 12,20) nên các em phải tìm kiếm Chúa trong đời sống hàng ngày bằng những việc lành như : bố thí, giúp bạn khi khó khăn, đừng lo lắng trau chuốt cho vẻ bên ngoài của mình nhiều quá. Đó là cách để chúng ta kiềm giữ lòng tham của mình. Có như vậy, tâm hồn các em mới được bình an. Chúa thích ở với người như vậy không ?
+...
- Để Chúa thêm sức mạnh và giúp chúng ta khỏi bị cám dỗ bởi tính tham lam, các em hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là siêng năng gặp gỡ Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh thể. Khi đó, lòng trí các em đã thuộc về Chúa, nghĩa là các em đang tích trữ cho mình kho tàng ở đâu ?
+... (ở trên trời).
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin giúp con biết sống công bằng, không tham lam, ghen tị và biết vui mừng khi thấy người khác được may lành.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20, 17)
106.H.Điều răn thứ mười dạy ta những gì?(GLCG.438)
T. Điều răn thứ mười dạy ta giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, để không tham lam muốn lấy của người khác và không ghen tỵ với người khác.
107.H.Sự tham lam làm hại ta thế nào ? (GLCG.439)
T. Sự tham lam khiến lòng ta ra mù tối, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội.
108.H.Muốn giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, ta cần làm những gì ? (GLCG.441)
T. Ta cần tập sống tinh thần nghèo khó để hằng ngày biết hy sinh từ bỏ, tập dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, và nhất là luôn hướng lòng về Thiên Chúa, ao ước được ngắm nhìn Người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Sau mỗi ý chính, GLV có thể sinh hoạt, chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT hoặc nơi khác.
2. Thực hành :
“Em quyết tâm không ước muốn của cải người khác.
3. Bài làm ở nhà :
Tìm Lời Chúa dạy phải từ bỏ của cải để theo Chúa. Viết Lời Chúa đó vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
Qua bài học về điều răn thứ 10, các em đã nhận biết thái độ của chúng ta đối với của cải trần gian và tính tham lam làm hại tâm hồn ngây thơ trong trắng của chúng ta. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa và xin Chúa giúp đỡ chúng ta giữ giới răn của Người.
- Đọc kinh Sáng danh.
- Chào nhau.
Phần III : CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO
Bài 28
PHỤNG VỤ
Lời Chúa : “Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần Thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 15,16).
Ý chính : 1. Phụng vụ là gì ? (Rm 12,1 ; 15,16 ; Rm 6,11.13.16).
2. Bí tích là gì ? (Ga 19,34 ; Rm 6,4 ; 1 Cr 11,24).
3. Tham dự phụng vụ (Rm 10,9-10).
Tâm tình : Sốt sắng tham dự phụng vụ : thánh lễ, lãnh nhận Bí tích Rửa tội, giải tội.
Chuẩn bị : Bức tranh vẽ cộng đoàn đang tham dự thánh lễ, tranh 27 + 34 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV vui vẻ đón tiếp các em và nhắc nhở về y phục, đi đứng, nhất là trong nhà thờ.
2. Thánh hóa :
(GLV hướng ý cầu nguyện :)
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đang ở giữa chúng con. Chúa đang nhìn, đang nghe và đang yêu thương chúng con. Chúng con dâng lên Chúa giờ học này. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
3. Giới thiệu phần III và bài mới :
Mầu nhiệm Ki-tô giáo là đối tượng của Đức tin (phần I). Mầu nhiệm ấy hiện diện để soi sáng và nâng đỡ con cái Chúa trong hành động (phần II). Mầu nhiệm này được cử hành và hiệp thông trong Phụng vụ : Đây là việc tuyên xưng đúng chỗ nhất. Nếu Đức tin không biểu lộ ra hành động (cử hành Phụng vụ và đời sống) thì đó là một đức tin chết (x. Jc 2,17), không đem lại hoa trái vĩnh cửu. Trái lại, cử hành Phụng vụ sẽ vừa là bài giáo lý thiết thực vừa là nguồn suối trao ban Ân sủng cho đời sống tín hữu (x. TH.DGL 23).
Vì thế, sau khi đã học phần I (Tuyên xưng Đức tin) và phần II (Sống trong Chúa Ki-tô), chương trình Giáo lý cấp I ĐBTT trình bày việc cử hành mầu nhiệm Ki-tô giáo, đặc biệt về Bí tích Rửa tội, Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể mà Phụng vụ là bài mở đầu.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Hai chị em Thu và Xuân ngày nào cũng đi lễ, nhưng hôm nay, Thu bị đau phải ở nhà. Xuân đi lễ về liền chạy vào giường chị nói :
- Chị Thu ơi ! Đố chị hôm nay Cha mặc áo màu gì ?
Thu mệt nhọc trả lời : “Không biết, chị đang đau đây”.
Xuân liền chạy tới má : “Má ơi, con đố má hôm nay Cha mặc áo gì ?”
Má thinh lặng một chút rồi nhìn cuốn lịch công giáo trên trên tường, má nói : “Cha mặc áo lễ màu xanh, phải không con ?”
“Ồ ! Má giỏi quá, má ở nhà mà má cũng biết cha mặc áo màu xanh ! Làm sao má biết vậy má ?”
Má xoa đầu Xuân nói : “Ngày trước, khi còn nhỏ, má cũng đi học giáo lý. Má được học về phụng vụ nữa. Hôm nay, con hỏi thì má xem lịch công giáo là má biết, vì hôm nay không có kính Thánh nào, và là mùa thường niên nên Cha mặc áo xanh. Con chịu khó đi học giáo lý thì con cũng sẽ biết”.
Các em thân mến,
Các em cũng như hai bạn trẻ trên, chúng ta đều là con cái Chúa, chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa với tất cả tâm tình của người con đối với cha mình, như Thánh Phao-lô nói với tín hữu Rô-ma xưa. Mời các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : Rm 15,16.18.19a
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô tông đồ gởi tín hữu Rô-ma.
“Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần Thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.
Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Thinh lặng giây lát và GLV tóm ý :)
Thánh Phao-lô đã dạy chúng ta biết người đã được Thiên Chúa chọn để lo việc tế tự để nhờ đó Thánh thể Chúa biến đổi tất cả nên lễ phẩm tôn thờ Thiên Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Phụng vụ là gì ?
(Rm 12,1 ; 15,16 ; Rm 6,11.13.16).
Trong thời cựu ước, Thiên Chúa truyền dạy Môsê thiết lập những lễ nghi và cách thờ phượng Thiên Chúa : xây nhà tạm, đặt hòm bia Giao ước, cách thức làm tế đàn (bàn thờ) và nghi thức hiến tế chiên bò cho Thiên Chúa (x. Xh 30,40 ; Lv 1-27). Chúa Giê-su cũng tiếp tục thực hiện những nghi lễ thờ phượng Thiên Chúa đó và đặt ta những nguyên tắc cơ bản cho việc tôn thờ đó.
Ngày nay, Hội thánh nhờ Chúa Thánh Thần soi dẫn, thiết lập những nghi thức thờ phượng Thiên Chúa theo truyền thống và giáo huấn của các tông đồ dựa vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Như vậy : Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức / của toàn thể Hội thánh / để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi / và Thánh hóa con người. Các em lặp lại :
+... (GLV giúp các em lặp lại để hiểu và thuộc câu GL 109).
- Vậy, những việc nào là việc phụng vụ ?
+... (GLV khuyến khích các em phát biểu và ghi nhận trên bảng đen, nếu có, làm 2 cột, một bên là việc đạo đức, một bên là việc phụng vụ, để cuối cùng xác định :)
Những việc phụng vụ chỉ gồm có thánh lễ, các Bí tích và các giờ kinh phụng vụ. Thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ chúng ta sẽ học sau, bây giờ chúng ta học chút xíu về Bí tích.
2. Bí tích là gì ? (Ga 19,34 ; Rm 6,4 ;
1 Cr 11,24 ; Lc 12,14-20).
Các em có biết cảnh người ta chận nước ở từng khúc sông để cho nước chảy vào các ô ruộng chưa ? Nhờ nước chảy vào như thế mà cây lúa được xanh tốt. Nếu không có nước, lúa sẽ chết khô. Chúng ta cũng như những cây lúa trong ruộng, còn Chúa Giê-su là nguồn nước. Từ Chúa Giê-su, ơn thánh qua các Bí tích chảy tràn vào tâm hồn chúng ta và làm chúng ta trở nên tươi tốt. Bảy Bí tích như những máng chuyển thông ơn Chúa. Cây lúa khi không có nước sẽ chết khô như thế nào, thì đời sống chúng ta không ơn Chúa vì không lãnh các phép Bí tích cũng sẽ héo khô như vậy.
Mời các em đứng để nghe Lời Chúa.
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an. (Ga 7,2.10.37-38)
“Lễ lều của người Do thái gần tới, …
Khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật …
Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng : “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi hãy đến mà uống !” Như Kinh thánh đã nói : từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng một lát rồi mời ngồi).
- Trong Lời Chúa các em vừa nghe, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta đến với ai ?
+...
- Chúng ta đến với Chúa để làm gì ?
+... (uống nước trường sinh).
- Nước Chúa Giê-su nói ở đây có phải là nước uống hằng ngày như : nước lọc, nước mía, nước côca-côla, sữa đậu nành không... ?
+...
- Lời Chúa diễn tả cho ta biết : ơn thánh Chúa tuôn chảy như dòng sông không bao giờ cạn, bắt nguồn từ ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su. Và để chuyển thông ơn thánh này, Chúa đã lập ra các Bí tích. Các em có biết Bí tích là gì không ?
+...
- Chị hỏi các em nhé, các Bí tích do ai lập ?
+ …
- Các em có thấy tâm hồn chị không ?
+...
- Các em không thấy được, nhưng các em có thể nhìn một vài dấu hiệu bên ngoài để biết được, ví dụ : thấy chị cười thì biết chị vui hay buồn ?
+...
- Thấy chị khóc thì biết chị sướng hay khổ ?
+...
- Thấy chị la mắng thì biết chị bằng lòng hay buồn lòng ?
+...
Ơn Chúa vô hình ta không thấy được. Để giúp ta nhận biết, Chúa đã dùng dấu hiệu bên ngoài để ban ơn sủng cho ta.
Ví dụ : - Nước : rửa sạch tội - Xức dầu thánh : ban sức mạnh - Bánh ăn : nuôi sống.
Khi học đến từng Bí tích các em sẽ hiểu rõ hơn.
- Các em có tha tội được không ?
+... (chỉ có các cha).
- Ba má các em có làm lễ được không?
+... (chỉ có các cha).
- Chú bác các em có xức dầu thánh trong bí tích Thêm sức được không ?
+... (không, chỉ có Đức Cha).
- Vậy Chúa Giê-su trao quyền cho ai ban Bí tích ?
+... (Hội thánh). (Đọc lại trong sách) : Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu / của ân sủng do Chúa Giê-su thiết lập/ và đuợc trao lại cho Hội thánh / để ban sự sống thần linh cho chúng ta.
- Các em đã nghe nói tới những Bí tích nào ?
+... (GLV cho các em phát biểu và ghi lên bảng, nếu có, bảy Bí tích. Nhớ viết theo đúng thứ tự các Bí tích từ 1-7 như trong sách, dù các em phát biểu không đúng thứ tự).
Chúa Giê-su đã lập ra bảy Bí tích để trong suốt cuộc đời, chúng ta luôn được đón nhận những ân sủng Người ban và can đảm đi theo Chúa trên đường về quê trời.
3. Tham dự phụng vụ. (Rm 10,9-10).
- Sau những tháng hè được vui chơi, nô đùa thỏa thích, các em chuẩn bị quần áo mới, mua sách, mua vở, mua cặp... để làm gì, các em có nhớ không ?
+... (để đi học).
Hôm đó, các em đến trường dự lễ khai giảng với những bộ quần áo xinh đẹp, với những khuôn mặt vui tươi hớn hở vì gặp lại thầy, gặp lại bạn.
Từ khi chào cờ, các em có dám nói chuyện to tiếng không ? Có dám đi lại tự nhiên không ? À ! lúc đó, các em phải nghiêm trang, giữ trật tự vì chúng ta đang dự lễ khai giảng năm học mới mà ; hơn nữa trước mặt các em có thầy, cô.
Tham dự lễ khai giảng các em còn như thế, huống chi khi tham dự phụng vụ, ta cần phải có một thái độ cao hơn nữa, nghĩa là cử chỉ bên ngoài lẫn tâm tình bên trong ta phải chuẩn bị để trình diện trước Thiên Chúa như Thánh Phao-lô căn dặn chúng ta : (mời đứng)
Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma (Rm 10,9-10).
“Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính ; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ.”
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Thinh lặng giây lát. GLV nhắc lại :)
Để tham dự phụng vụ, Thánh Phao-lô căn dặn chúng ta : trước tiên phải có lòng tin. Chính lòng tin sẽ làm cho việc cử hành phụng vụ đem lại ân sủng cho chúng ta. (Mời ngồi).
- Khi đón nhận hồng ân cứu độ qua phụng vụ, tâm hồn các em phải làm sao ?
+... (phải tin và mong muốn).
- Để có lòng tin và mong muốn ơn cứu độ, chúng ta phải làm gì ?
+ …
- Không biết phụng vụ thì ta có yêu mên phụng vụ được không ?
+ …
- Muốn biết thì phải làm gì ?
+ … (Học giáo lý)
Nhờ học mà ta biết Phụng vụ, nhờ biết mà yêu mến Phụng vụ. Nhờ yêu mến ta sẽ sốt sắng tham dự Phụng vụ, bằng cách đến trước giờ với tâm hồn thanh thản, hiệp lòng trí với cộng đoàn để nghiêm trang khi đứng lúc ngồi, sốt sắng thưa kinh, hát thánh ca, chăm chú nghe giảng và hết lòng thờ phượng Thiên Chúa.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chịu khổ nạn và phục sinh để cứu độ loài người. Ngày nay Chúa vẫn hằng tiếp tục ban ơn cứu độ cho chúng con qua Hội thánh. Xin cho chúng con luôn sốt sắng tham dự các nghi thức Phụng vụ, để tôn vinh Chúa và mưu ích cho mọi người.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần Thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15,16).
109.H.Phụng vụ là gì ? (GLCG.184)
T. Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của toàn thể Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và Thánh hóa con người.
110.H.Những việc nào là việc Phụng vụ ? (GLCG.201)
T. Là Thánh lễ, các Bí tích và Các Giờ kinh Phụng vụ.
111.H.Bí tích là gì ? (GLCG.189)
T. Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Giê-su thiết lập và được trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho chúng ta.
112.H.Có mấy Bí tích ? (GLCG.190)
T. Có bảy Bí tích :
- Một là Bí tích Rửa tội,
- Hai là Bí tích Thêm sức,
- Ba là Bí tích Thánh thể,
- Bốn là Bí tích Hòa giải,
- Năm là Bí tích Xức dầu bệnh nhân,
- Sáu là Bí tích Truyền chức thánh,
- Bảy là Bí tích Hôn phối.
113.H.Ta phải tham dự Phụng vụ thế nào?(GLCG.203)
T. Ta phải tham dự Phụng vụ cách ý thức, linh động, hữu hiệu và đầy đủ (x.PV. 11).
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Sau từng ý chính, GLV có thể sinh hoạt, chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại ý chính bài và dẫn các em đến nhất trí :)
Em sốt sắng tham dự phụng vụ.
3. Bài làm ở nhà :
Em quét dọn bàn thờ gia đình và ghi vào tập bài làm thời gian làm việc đó.
V. KẾT THÚC.
Phụng vụ là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho Hội thánh, đồng thời Hội thánh luôn sinh động và sung mãn nhờ việc cử hành các nghi thức phụng vu. Các em cố gắng tham dự các việc phụng vụ, nhất là thánh lễ.
- Sáng danh....
- (Chào nhau).
Lời Chúa : “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,5).
Ý chính : 1. Bí tích Rửa tội là gì ? (Ga 3,5).
2. Ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Rửa tội (Rm 6,3-4 ; Ga 3,5 ; Mc 16,16).
3. Những ai được lãnh nhận Bí tích Rửa tội (Mc 16,15-16).
Tâm tình : Sung sướng và biết ơn vì đã được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội.
Chuẩn bị : - Hình ảnh về lễ nghi rửa tội, áo rửa tội, nến, nước rửa tội.
- Hình 27 bộ tranh ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước).
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, chúng con vui mừng vì được gặp gỡ Chúa và sống với nhau trong giờ học này. Xin Chúa giúp chúng con hiểu và sống những điều Chúa dạy.
3. Giới thiệu bài mới :
Hồng ân cứu độ đã được Chúa Kitô thực hiện qua cuộc sống trần gian, nhất là qua cuộc khổ nạn và phục sinh. Hôm nay, hồng ân đó được trao cho mỗi người khi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Lúc bấy giờ lệnh vua Pharaon, truyền cho toàn dân : “Tất cả con trai trong dòng tộc Do Thái, các ngươi hãy thả xuống sông”.
Có một phụ nữ Do thái sinh hạ một đứa bé khôi ngô kháu khỉnh, bà đem giấu đứa trẻ đi, sau đó bị lộ ra, bà liền nghĩ ra một kế, bà đặt đứa bé vào cái thúng được tráng nhựa rồi đem thả xuống sông.
Một hôm nàng công chúa con vua Pharaon đi ra sông tắm nghe thấy có tiếng khóc của một đứa bé, bà liền tiến vài bước thì thấy chiếc thúng trôi. Bà sai nữ tỳ vớt cái thúng lên. Ngạc nhiên thấy đứa bé đang khóc, bà nhận đứa bé làm con, và đặt tên cho đứa bé là Mô-sê. (x. Xh 2,1-10).
Mô-sê đã được công chúa cứu sống khi vớt lên khỏi nước. Chúng ta còn có diễm phúc hơn Mô-sê vì đã được Chúa Ki-tô cứu sống qua Bí tích Rửa tội như các em nghe Chúa nói sau đây. Mời các em đứng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 3,5-7)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô : “Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể thấy được Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi ơn trên”. Ông Ni-cô-đê-mô thưa : “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được ? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao ?” Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Bí tích Rửa tội là gì ? (Ga 3,5).
- Các em đã biết, Chúa Giê-su lập Bí tích để ban ơn cứu độ cho chúng ta, để ta đến và sống với Người. Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, em nào có thể nói cho cả lớp biết : Chúa dùng hình ảnh nào để nói về Bí tích Rửa tội ?
+... (Nước và Thần khí).
- Các em thấy cây cối xanh tươi, lớn lên là nhờ nước, nếu không có nước, cây cối sẽ chết. Do đó nước là biểu hiệu của điều gì ?
+... (Sống và phát triển).
- Các em thấy nước là biểu hiệu của sự sống, có công hiệu tẩy rửa, làm cho sạch, làm cho nên mới. Nhưng mà nước tự nhiên có rửa sạch được tội lỗi trong tâm hồn chúng ta không ?
+... (không).
- Nếu chỉ đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, có phải là Bí tích Rửa tội không ?
+... (không).
- Như vậy, qua lời linh mục đọc và đổ nước, nhờ ý muốn và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giê-su và quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tha tội tổ tông, tha các tội riêng, được làm con Chúa và trở nên một chi thể trong Hội thánh. Vậy Bí tích Rửa tội là gì ?
+... (GLV củng cố cho các em hình thành câu giáo lý 114 : Bí tích Rửa tội / là Bí tích Chúa Giê-su đã lập / để tái sinh ta trong đời sống mới / bởi nước và Chúa Thánh Thần).
2. Ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Rửa tội. (Rm 6,3-4 ; Ga 3,5 ;
Mc 16,16 ; 1 Cr 12,3).
Một người da đen được một nhà truyền giáo rửa tội vào lúc ông 80 tuổi. Hai năm sau ông bệnh nặng. Có người đến thăm hỏi ông : “Năm nay cụ được bao nhiêu tuổi”. Ông cụ vui vẻ trả lời : “cám ơn Chúa, tôi được hai tuổi”. Mọi người sửng sốt, gởi trước mặt họ là một ông cụ hom hem, râu tóc bạc phơ. Thấy thế, ông cụ : “tôi đúng hai tuổi vì tôi thực sự sống từ ngày tôi chịu phép rửa tội. Còn thời gian trước kia tuy tôi sống nhưng là sống trong cái chết.”
Tất cả các em ngồi đây đã may mắn hơn ông cụ trong câu chuyện chị vừa kể. Các em đã được rửa tội từ khi còn bé tí xíu. Thế nhưng ông cụ thì hiểu được ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Rửa tội, còn các em thì hình như chưa biết. Thế nên mời các em đứng dậy nghe Lời Chúa trong thư Thánh Phao-lô gởi tín hữu Rôma (Rm 6,3-4).
“Anh em không biết rằng : khi chúng ta được dìm vào nước Thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Cũng như những người đã sống lại từ cõi chết, nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(Thinh lặng giây lát và mời ngồi).
Qua đoạn Lời Chúa trên, Thánh Phao-lô cho ta biết Bí tích Rửa tội làm ta thuộc về Chúa Ki-tô, được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa.
* Chúa chết chôn trong mộ tức là sự sống cũ đã chết. Còn ta, ta được dìm trong nước để giết chết con người cũ.
* Từ trong mộ bước ra, Chúa sống lại vinh hiển trong sự sống mới. Ta ra khỏi nước, mặc lấy con người mới trong Chúa.
Ngày xưa, khi rửa tội, người tín hữu được dìm vào bể nước hoặc dòng sông rồi sau đó bước ra. Ngày nay khi rửa tội, linh mục đổ nước trên đầu. Chính vì lẽ này mà các em nghe Thánh Phao-lô nói (GLV đọc chậm lại Rm 6,3-4).
- Các em đã chịu phép rửa tội chưa ?
+...
- Nhờ Bí tích nào, các em được tha tội tổ tông và tội riêng ?
+...
- Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các em được làm con cái của ai ?
+... (Thiên Chúa)
Đây cũng là Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5), nên chi thể trong thân thể Chúa Ki-tô là Hội thánh (x. 1Cr 12,13), gia nhập gia đình Thiên Chúa là Hội thánh, được tham dự vào chức tư tế của Chúa Ki-tô.
- Khi tâm hồn tinh tuyền thì tâm hồn chúng ta là Đền Thờ của ai ?
+... (Chúa Thánh Thần).
- Bí tích Rửa tội còn ghi vào ta dấu ấn thiêng liêng không thể xóa được. Như vậy, Bí tích Rửa tội ban cho ta những ơn nào ?
+... (GLV nhắc lại từng ơn trên để hình thành câu giáo lý 115 :) Bí tích Rửa tội ban cho ta những ơn này :
* Một là rửa ta sạch tội nguyên tổ và các tội ta phạm, tha mọi hình phạt do tội gây ra,
* Hai là làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể Chúa Ki-tô và đền thờ Chúa Thánh Thần, * Ba là sát nhập ta vào Hội thánh, và cho ta tham dự chức tư tế của Chúa Ki-tô,
* Bốn là ghi vào linh hồn ta dấu ấn thiêng liêng không thể xoá được.
- Như vậy, Bí tích Rửa tội có cần thiết cho được rỗi linh hồn không ?
+... (rất cần).
Rất cần thiết để được ơn cứu độ, vì Chúa Giê-su phán : “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí” (Ga 3,5). Trước khi về trời, Chúa Ki-tô còn khẳng định : “Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Hơn nữa, nếu không lãnh nhận Bí tích rửa tội, sẽ không được lãnh nhận các Bí tích khác.
3. Những ai được lãnh nhận Bí tích Rửa tội (Mc16,15-16).
Chuyện xưa kể rằng vào năm trời khô hạn, trong ruộng lúa nọ, các cây lúa than thở với nhau : “Ôi ! tôi chết mất, nắng quá làm tôi cháy da mất rồi”.
Cây lúa khác thì nói : “Cổ họng tôi đắng quá, tôi thở không nổi vì thiếu nước”.
Cây khác lại than : “Thân hình tôi khô đét rồi. Mắt tôi hoa lên. Các anh các chị ơi ! Ta tạm biệt nhau thôi !”
Thình lình, chiều đó mưa lớn, ruộng lúa ngập nước, các cây lúa uống lấy uống để những giọt nước mát lạnh quí giá mà đã lâu họ không được hưởng. Ai nấy tươi cười vui vẻ vì nguồn nước đã phục hồi sinh lực mình.
Các em thân mến, ơn Chúa cũng như mưa từ trời rơi xuống, đó là ân huệ Chúa ban để con người được sống dồi dào trong tình yêu của Người. Thế nên, trong Bí tích Rửa tội, Chúa Giê-su trước khi về trời đã nói với các tông đồ thế này. Các em đứng lên nghe Lời Chúa. (Mc 16,15-16).
Bài Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Đức Giê-su nói với các Tông đồ : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
- Các em thấy, Chúa truyền cho các tông đồ đi khắp thế gian nhưng có phải là đi du lịch không ?
+... (không, đi rao giảng Tin mừng).
- Tin mừng nào ?
+...
- Tin mừng Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi đã sai Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô xuống thế là người, chịu chết và sống lại để con người được tha tội và được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng với Chúa. Những ai được đón nhận Tin mừng này ?
+...
- Tất cả mọi loài thọ tạo, nghĩa là tất cả mọi tạo vật, nhất là con người thuộc mọi dân tộc, mọi thời, mọi nơi... Vì đây là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người, không loại trừ ai. Các em thấy Chúa yêu thương loài người chúng ta không ?
+...
Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Do đó, chúng ta phải có sứ mạng rao giảng Tin mừng cho mọi người biết tình yêu thương của Thiên Chúa để mọi người, cụ thể các bạn cùng khu xóm, cùng lớp học với các em, để họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhé. Chúng ta dâng lời cầu nguyện :
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng Chúa yêu thương, vì nhờ Bí tích Rửa tội, chúng con được sạch tội và làm con Chúa. Xin cho chúng con sống xứng đáng với tình yêu Chúa dành cho chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5).
114.H.Bí tích Rửa tội là gì ? (GLCG.204)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để tái sinh ta trong đời sống mới bởi nước và Chúa Thánh Thần
115.H.Bí tích Rửa tội ban cho ta những ơn nào ? (GLCG.205)
T. Bí tích Rửa tội ban cho ta những ơn này :
- Một là rửa ta sạch tội nguyên tổ và các tội ta phạm, tha mọi hình phạt do tội gây ra,
- Hai là làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể Chúa Ki-tô và đền thờ ChúaThánh Thần,
- Ba là sát nhập ta vào Hội thánh, và cho ta tham dự chức tư tế của Chúa Ki-tô,
- Bốn là ghi vào linh hồn ta dấu ấn thiêng liêng không thể xoá được.
116.H.Bí tích Rửa tội có cần thiết không ?(GLCG.206)
T. Bí tích Rửa tội rất cần thiết, vì Chúa Giê-su đã nói : “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5).
117.H. Những ai được lãnh nhận Bí tích Rửa tội ? (GLCG.211)
T. Tất cả những người chưa được rửa tội đều có thể lãnh nhận Bí tích Rửa tội vì đây là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
Hãnh diện được làm con Chúa, em luôn cố gắng sống tốt với mọi người.
3. Bài làm ở nhà :
Tuần này em nói với các bạn ý muốn của Chúa mời gọi đón nhận Bí tích Rửa tội và ghi lại câu trả lời của một bạn cùng lớp.
V. KẾT THÚC.
Các em đã được rửa tội, thân xác và linh hồn các em đã trở nên Đền thờ của Chúa. Vì thế, các em cố gắng giữ tâm hồn trong trắng và làm chứng cho mọi người niềm tin vào Chúa Ki-tô trong cuộc sống.
- Kinh sáng danh.
- Chào nhau.
Lời Chúa : “Bấy giờ người con nói rằng : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...” (Lc 15, 21)
Ý chính : 1. Bí tích Hòa giải là gì ? (Lc 15,11-24 ; Mt 9,13).
2. Ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Hòa giải (Lc 15,4-7).
3. Những ai cần lãnh nhận ? (1 Gc 1,8-9).
Tâm tình : Tin tưởng Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người sẵn sàng yêu thương, tha thứ mọi tội lỗi ta đã phạm.
Chuẩn bị : Tranh 28 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp : (như bài trước).
2. Thánh hóa :
GLV hướng dẫn các em đọc kinh lạy Cha, ngắt ở từng chỗ : ... tha nợ chúng con... kẻ có nợ chúng con... xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ... nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.
3. Giới thiệu bài mới :
Chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Nhờ đó, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi và trở nên con Chúa. Nhưng vì con người yếu hèn, chúng ta đã phạm tội nên chúng ta lại cần được tha thứ. Biết rõ yêu cầu này nên Chúa Giê-su đã lập Bí tích Hòa giải. Hôm nay, chúng ta bắt đầu học về Bí tích này.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Thánh Lu-ca đã kể lại một câu chuyện rất cảm động về tình thương của người cha đối với đứa con hư :
Một người cha có 2 con trai. Ông tận tình yêu thương chăm sóc, nuôi dưỡng 2 cậu lớn khôn. Không ngờ, cậu út nghe theo chúng bạn, đã đòi ông chia gia tài, ông khuyên lơn nhưng cậu không chịu, ông đành chia gia tài cho cậu. Nhận được tiền của rồi, cậu thu vén bỏ nhà đi hoang, ăn chơi, nhậu nhẹt, say sỉn... Cuộc sống đàng điếm như thế tiền của nào chẳng hết ! Khi đã ăn tiêu hết sạch thì lại xảy ra trong vùng ấy nạn đói khủng khiếp. Cậu út bắt đầu lâm cảnh túng thiếu. “Bụng đói, đầu gối phải bò” : cậu đi xin việc, những việc thanh lịch chẳng còn. Những việc có lương cao, cậu không có năng lực...! Cuối cùng, cậu phải xin làm người giúp việc cho người dân thường. Ông chủ sai cậu ra đồng chăn heo (các em biết quan niệm của người Do thái xưa heo là loài vật ô uế, chăn heo vừa cực khổ, dơ bẩn vừa là nghề mạt rệp, có lẽ còn thấp kém hơn cả nghề mót bịch nylon ngày nay!). Đã vậy, mà cậu cũng không đủ ăn ! Đói đến mức độ muốn ăn cả cám heo mà cũng không được... ! Trong cảnh đói khổ cùng cực ấy, cậu đã hồi tâm và nhớ tới nhà của cha cậu : “Bao người làm công cho cha mình được ăn no thỏa, mà mình ở đây sẽ chết đói mất !” Nghĩ vậy, cậu quyết định trở về với cha và chỉ xin làm người giúp việc cho cha... Thế là cậu lên đường tìm về nhà cha...
Còn người cha như thế nào, mời các em đứng nghe nguyên văn lời tường thuật của thánh Lu-ca :
B. Công bố Lời Chúa : (Lc 15,20-24)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca.
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
- Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, các em thấy cậu út thế nào ?
+... (bỏ cha già ở lại quê nhà, lấy phần gia tài của mình đi ăn chơi).
- Chị chắc là anh ta thế nào cũng mua sắm những đồ “xịn” cho mình. Có tiền nên ăn nhậu, đàng điếm, coi chừng còn cờ bạc nữa chớ giỡn đâu. Tiền của dù nhiều bao nhiêu nhưng tiêu xài hoang phí như vậy, thì sẽ thế nào, các em ?
+... (hết tiền, gặp nạn đói, đi chăn heo thuê. Ngày xưa thì ăn uống đầy đủ, bây giờ muốn ăn cám heo cũng chẳng được).
- Trong cảnh cơ cực ấy, anh nhớ đến nơi nào ?
+... (nhà cha).
- Nhớ đến ai nữa ?
+... (những người làm công cho cha được cơm dư, gạo thừa...).
- Khi ấy, anh ta quyết định làm sao ?
+... (trở về với cha).
- Còn người cha, ngày ngày đứng ngồi, chờ mong không biết con mình ra sao, chắc hẳn ông gầy yếu đi vì mong mỏi. Thế rồi một ngày kia, ánh mắt già nua của người cha bỗng thấy bóng đứa con của mình từ đằng xa, ông mừng không các em ?
+... (thưa có).
- Người cha chạy tới ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Người con nói thế nào ?
+... (“Thưa cha, con đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa” - Lc 15,21).
- Người con đã phạm tội với cha, có bị đánh đập, bị la mắng hoặc chịu hình phạt nào không ?
+...
- Đã không bị phạt, người cha còn bảo đầy tớ đem áo mới nhất mặc cho cậu, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu rồi bắt bê béo làm tiệc ăn mừng nữa chứ. Ông nói thế nào ?
+... (con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” - Lc 15,24).
Các em thấy đó, người con còn sống trở về, nhưng người cha lại nói rằng anh ta đã chết, đã mất. Ý ông ta muốn nói người con tuy sống về thể xác, nhưng linh hồn đã chết trong tội !
1. Bí tích Hòa giải là gì ?
(Lc 15,11-24 ; Mt 9,13).
Ÿ Khi người con thật tình hối hận vì đã không vâng lời, tìm về cha để xin lỗi, người cha đã tha thứ.. Các em thấy cha mẹ bình thường còn mong muốn những điều tốt lành cho con cái, huống chi Thiên Chúa, Cha yêu thương (x. Lc 11,13).
Ÿ Khi phạm tội, ta trở thành đứa con hư hỏng. Như các em đã học trong bài 17 (tội lỗi), Phạm tội là coi thường Thiên Chúa và chống lại tình yêu của Thiên Chúa, bỏ Thiên Chúa mà đi hoang và vì thế không còn được sống thân mật với Chúa nữa (Ga 15,6).
Ÿ Như người cha ngóng chờ con, Thiên Chúa cũng chờ đợi ta trở về
(x. Mt 9,13). Người sẵn sàng tha thứ để ta lại được làm con của Chúa. Trên thập giá Chúa Giê-su nói : “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Ÿ Chúa đã lập Bí tích Rửa tội, thế nhưng Chúa biết rằng bản tính con người thì yếu đuối và hay phản bội tình thương của Chúa, nên vào chiều ngày Phục sinh, Chúa đã trao quyền tha tội cho Hội thánh đễ ban ơn tha thứ cho ta và đem ta trở lại làm hòa với Thiên Chúa và Hội thánh.
- Như vậy, Bí tích nào nói lên lòng nhân từ của Chúa đối với người tội lỗi ?
+... (Bí tích Hòa giải).
- Ai lập Bí tích ấy ?
+... (Chúa Giê-su).
- Trong Bí tích Hòa giải, Chúa Giê-su làm gì cho ta ?
+... (Chúa tha các tội ta phạm từ khi Rửa tội).
2. Ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Hòa giải (Lc 15,4-7).
Hôm nay các em nghe tiếp câu chuyện người cha nhân hậu và đứa con hư (x. Lc 15,4-32) nhé :
Khi cậu út trở về, người cha đã tha thứ tất cả, lại còn mặc áo đẹp nhất cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu, xỏ dép vào chân cậu, và bắt bê béo làm thịt ăn mừng. Mọi người vui sướng ăn tiệc. Lúc ấy, anh hai (cậu cả) từ ngoài đồng về. Gần nhà anh nghe tiếng om sòm vui nhộn. Anh gọi một đầy tớ hỏi và khi biết thằng út, em anh đã về. Anh bực tức vô ngần : nó đã phá tán tài sản đi hoang, nay trở về, không bị phạt, lại còn được giết bê ăn mừng !
Các em có biết người cha nói sao với Anh Hai không ? ông nói : “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
- Các em thấy nguời cha trong câu chuyện này có lòng nhân từ không ?
+... (có).
- Người cha đó là hình ảnh của ai, các em ?
+... (của Thiên Chúa).
- Còn cậu út là hình ảnh của ai vậy ?
+... (của tội nhân).
- Tội nhân là ai đó, các em ?
+ … (chúng ta)
Phải, Thiên Chúa là người cha nhân từ còn yêu thương chúng ta hơn người cha trong câu chuyện, và cậu út là hình ảnh của tội nhân. Tội nhân đó, chính là chúng ta, là chị, là các em. Chúng ta đã phạm tội bỏ nhà Thiên Chúa là Hội thánh đi hoang. Khi chúng ta trở về cùng Chúa, lãnh nhận Bí tích Hòa giải, chúng ta sẽ được Chúa thương yêu, ban muôn vàn hồng ân. Chúng ta lần lượt khám phá những ơn ích và sự cần thiết của Bí tích Hòa giải nhé. Các em chú ý theo dõi bài giảng nè :
- Khi cậu út trở về và thú lỗi với người cha, thì cậu được tha thứ hay bị phạt :
+... (được tha).
- Tha tất cả mọi tội hay chỉ tha một tội ?
+... (tha tất cả).
- Và khi đã được tha rồi, cậu út được dẫn vào nhà hòa giải với mọi người, kể cả với Anh Hai (cậu cả) khó tính. Cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, ta được ơn tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội thánh. Đó là ơn ích thứ nhất. Các em lặp lại :
+... (Bí tích Hòa giải / ban cho ta ơn tha tội / để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội thánh).
- Cậu út có bị phạt không ?
+... (không).
- Cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, ta được tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra và tha một phần hình phạt tạm. Đó là ơn ích thứ hai. Các em lặp lại :
+... (Bí tích Hòa giải / tha hình phạt muôn đời / do các tội trọng đã gây ra/ và tha một phần các hình phạt tạm).
- Khi được dự tiệc mừng của người cha thết đãi, đố các em, cậu út được vui sướng hay vẫn còn lo buồn ?
+... (vui sướng).
- Được bình an hay lo âu, sợ sệt ?
+... (bình an).
- Nếu có ai rủ rê đi hoang, cậu út có nghe theo nữa không ?
+... (không).
- Dứt khoát hay chần chừ ?
+... (dứt khoát).
- Đó là ơn ích thứ ba : Bí tích Hòa giải/ ban cho ta sự bình an / và gia tăng sức mạnh / cho cuộc chiến đấu thiêng liêng của người Kitô hữu./ Các em lặp lại ơn ích thứ ba của Bí tích Hòa giải.
+...
- Các em lặp lại cả 3 ơn ích của Bí tích Hòa giải : Bí tích Hòa giải ban những ơn ích thiêng liêng nào ?
+... (các em lặp lại câu giáo lý 120).
- Như vậy, Bí tích Hòa giải có cần thiết không ?
+... (có).
- Các em đã rửa tội chưa ?
+... (rồi).
- Hiện nay chúng ta có tội không ?
+... (có). (GLV giúp các em nhận ra những tội cụ thể đã phạm).
Tội lỗi, nhất là tội trọng là sự nặng nề nhất. Khi học về tội lỗi (bài 17) các em đã biết những tai hại của tội lỗi. (GLV ôn lại cho các em câu giáo lý 67 và câu giáo lý 70 trang 47 sách thủ bản ĐBTT, rồi hình thành câu giáo lý 121 :)
Bí tích Hòa giải cần thiết,/ vì Bí tích này tha thứ tội lỗi / là sự dữ nặng nề nhất / xúc phạm đến Thiên Chúa,/ làm tổn thương phẩm giá con người / và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội thánh.
3. Những ai cần lãnh nhận ?
(1 Gc 1,8-9).
Sau cơn mưa tầm tã, cục đá mở mắt nhìn vũng nước bên cạnh :
- Này bạn ơi, sao bạn giữ được nước, còn tôi lại không ?
Vũng nước mỉm cười nói : “Nước ở với tôi, vì tôi có chỗ chứa. Còn anh cứng và phẳng lì thế kia, làm sao nước đọng lại được ?
Câu chuyện trên cho các em thấy nếu tâm hồn chai lì trong tội lỗi như cục đá, ơn Chúa, được ví như nước mưa, sẽ không giữ lại được. Có một tội làm chúng ta dễ chai lì nhất là tội kiêu ngạo, không nhìn nhận sự yếu đuối và tội lỗi của mình như thánh Gio-an dạy
(mời các em đứng :)
Lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
“Nếu chúng ta nói chúng ta vô tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta” (1 Ga 1.8-9).
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
(thinh lặng giây lát và mời ngồi).
- Qua lời thánh Gio-an, chị hỏi các em nhé : chị có tội không ?
+...
- Các em có tội không ?
+...
- Đúng rồi, tất cả chúng ta đều có tội. Do đó, nếu “chúng ta nói chúng ta vô tội là chúng ta lừa dối mình”.
- Chị hỏi các em điều này nhé, khi bị nhức đầu, đau bụng, các em thường làm gì ?
+... (xức dầu, uống thuốc).
- Nếu bệnh nặng thì đi đâu ?
+... (đến bệnh viện, bác sĩ).
- Bệnh thể xác mà ta còn lo lắng, còn sợ chết, còn phải chạy chữa. Vậy bệnh tâm hồn còn cần chạy chữa hơn nữa. Vì thế, những người phạm tội trọng, phải chữa trị ngay để khỏi chết đời đời. Chúng ta chữa bằng cách nào, các em biết không ?
+... (lãnh nhận Bí tích Hòa giải).
- Bị ốm sơ sơ như nhức đầu sổ mũi... Các em uống mấy viên thuốc cảm, xức chút dầu. Cũng vậy, khi phạm tội nhẹ, các em cũng nên đi xưng tội nhẹ, để Chúa ban ơn giúp các em chống trả tội lỗi vì “Nếu không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Đằng khác, cũng giống như trong cuộc sống hàng ngày, ta năng tắm rửa, thân thể được sạch sẽ, lười biếng tắm sẽ bẩn. Lâu ngày không tắm sẽ ghẻ lở. Khi phạm tội nhẹ, ta đi xưng tội, tâm hồn sẽ được trong sạch. Phạm tội nhẹ nhiều lần không xưng tội, dễ dẫn đến phạm tội trọng. Mà tội trọng thì làm sao, các em ?
+... (chết).
- Vậy những ai cần lãnh nhận Bí tích Hòa giải ?
+... (Những người đã phạm tội trọng thì cần lãnh nhận Bí tích Hòa giải ; còn ai chỉ mắc tội nhẹ mà lãnh Bí tích này thì được nhiều ơn ích thiêng liêng).
Qua bài Bí tích Hòa giải, các em thấy Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót. Người luôn mong chờ chúng ta trở về, Người sẵn sàng tha thứ cho những ai lầm lỗi mà biết nhận lỗi và đến gặp Chúa nơi Bí tích Hòa giải. Để cảm tạ tình thương bao la đó, chúng ta dâng lời cầu nguyện.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ lòng Chúa khoan dung, đã lập Bí tích Hòa giải cho chúng con được trở về với Chúa. Xin cho chúng con mau mắn chạy đến cùng Chúa mỗi khi lỡ sa ngã phạm tội, để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Bấy giờ người con nói rằng : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...” (Lc 15, 21)
118.H.Bí tích Hòa Giải là gì ?(GLCG.237)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để tha các tội ta phạm từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích này còn được gọi là Giải tội hay Sám hối.
119.H.Chúa Giê-su đã lập ra Bí tích Hoà Giải khi nào ? (GLCG.238)
T. Chúa Giê-su đã lập Bí tích này vào chiều ngày Phục sinh, khi hiện đến cùng các Tông đồ và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23).
120.H.Bí tích Hòa Giải ban những ơn ích thiêng liêng nào ? (GLCG.239)
T. Bí tích Hòa giải ban cho ta những ơn này :
- Một là tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội thánh.
- Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra và tha một phần các hình phạt tạm.
- Ba là ban sự bình an và gia tăng sức mạnh cho cuộc chiến đấu thiêng liêng của người Ki-tô hữu.
121.H.Bí tích Hòa Giải có cần thiết không? (GLCG.240)
T. Cần thiết, vì Bí tích này tha thứ tội lỗi là sự dữ nặng nề nhất xúc phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội thánh.
122.H.Những ai cần lãnh nhận Bí tích Hòa Giải ? (GLCG.242)
T. Những người đã phạm tội trọng thì cần lãnh nhận Bí tích Hòa giải ; còn ai chỉ mắc tội nhẹ mà lãnh Bí tích này thì được nhiều ơn ích thiêng liêng.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Có thể sinh hoạt ngay sau diễn giải từng ý, tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
(GLV nhắc lại ý bài để dẫn đến nhất trí :)
Khi lỡ phạm tội, em biết nhận lỗi.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi vào tập bài làm em đã làm gì khi phạm lỗi.
V. KẾT THÚC.
(như bài trước).
Bài 31a
LÃNH NHẬN BÍ TÍCH HÒA GIẢI
XÉT MÌNH(1)
Lời Chúa : “Chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11)
Ý chính : 1. Những việc làm để lãnh nhận Bí tích Hòa giải ? (Ga 8,10-11)
2. Xét mình (2 Cr 13,5).
a) Xét mình là gì ?
b) Hiệu quả của việc xét mình ?
c) Cách xét mình ?
Tâm tình : - Khiêm tốn - trông cậy.
Chuẩn bị : Tranh số 28-29 ĐBTT cũ.
********
(1) : - Bài 31 này là đề tài thực tế cần giúp các em kỹ lưỡng nên chúng tôi phân làm 4 bài 31a-b-c-d.
- Ngoài phần giáo lý căn bản, chúng tôi mạo muội đề xuất một cách lãnh nhận dựa vào đề xuất và kinh nghiệm của một số nơi. Vì thế, GLV phụ trách cần xem xét kỹ trước, lãnh nhận ý kiến cụ thể của Cha Sở và chỉ hướng dẫn theo cách đề xuất này khi được Cha Sở chấp thuận rõ rệt.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Hát một bài ca giáo lý, nhắc nhở đến thực trạng tội lỗi của mình để khiêm tốn học hỏi.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa Giê-su, Chúa lập Bí tích Hòa giải để tha những tội con đã phạm. Xin dạy con biết cách đón nhận ơn thứ tha của Chúa.
3. Giới thiệu bài mới :
Thiên Chúa là Cha yêu thương hằng sẵn lòng tha thứ tội lỗi ta, cụ thể Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Hòa giải. Chúng ta có lãnh nhận hay không và có hiểu biết cách lãnh nhận hay không. Đó là đề bài hôm nay.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
(GLV treo tranh số 28 ĐBTT cũ và lược kể câu chuyện người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang trong Ga 8,2-11 đến chỗ : “Chỉ còn lại một mình Chúa Giê-su và người phụ nữ’. GLV nói tiếp :)
Người nữ tội lỗi này không biết số phận mình sẽ ra sao ? Các em có thể tưởng tượng tâm trạng của chị : lo lắng và hồi hộp chờ đợi lời phán quyết của Chúa Giê-su : chắc là sẽ bị ném đá chết mất ! Chúng ta hãy nghiêm trang đứng lên nghe Lời Chúa để biết thái độ của Chúa Giê-su.
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 8,10-11)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Chúa Giê-su ngẩng lên và nói : “Này chị, họ đâu cả rồi ? không ai lên án chị sao ?”. Người đàn bà đáp : “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giê-su nói : “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị
đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(Thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Những việc làm để lãnh nhận Bí tích Hòa giải.
- Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy thái độ của Chúa Giê-su ác nghiệt hay nhân từ ?
+... (nhân từ).
- Tha thứ hay kết án ?
+... (tha thứ).
Thiên Chúa của chúng ta là thế đó! Người rất thánh thiện và công bình nhưng Người giàu lòng nhân ái và tha thứ. Vì thế, chúng ta được mời gọi mau chóng đến với Chúa qua Bí tích Hòa giải để lãnh nhận lòng thuơng xót của Thiên Chúa là Cha quyền năng và yêu thương. Tuy nhiên, muốn lãnh nhận Bí tích Hòa giải, chúng ta phải làm những việc nào ? Chúng ta ôn lại thái độ của cậu út trong câu chuyện của bài 30 :
- Khi cậu út đã tiêu sạch tài sản của cha, cậu đã phải đi chăn heo cho người ta và uớc muốn ăn cám heo mà cũng không được. Lúc đó, cậu có suy nghĩ gì, em nào nhớ ?
+... (GLV khuyến khích cho các em phát biểu và ghi nhận lên bảng theo thứ tự 4 việc : xét mình - ăn năn dốc lòng chừa - xưng tội - đền tội).
Tiên vàn, cậu út đã hồi tâm kiểm điểm bản thân. Đó là XÉT MÌNH, thấy mình đầy tội lỗi xúc phạm đến cha nên cậu đã hối hận và quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Đó là ĂN NĂN DỐC LÒNG CHỪA. Cậu đã tự nguyện trở về thú tội với cha : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha” (Lc 15,21). Đó là XƯNG TỘI. Và cuối cùng, cậu nhất quyết sửa đổi đời sống, cố gắng sống hiếu thảo với cha và tử tế với mọi người để đền bù những ngày tháng hư hỏng trước đây. Đó là ĐỀN TỘI.
- Như vậy, muốn lãnh nhận Bí tích Hòa giải thì phải làm gì ?
+... (GLV khuyến khích các em phát biểu, bổ túc trên bảng cho hoàn chỉnh câu giáo lý 123).
Biết được tổng quát các việc cần làm để lãnh nhận Bí tích Hòa giải rồi. Giờ đây, chúng ta cùng nhau học hỏi về từng việc làm đó. Việc phải làm đầu tiên là xét mình.
2. Xét mình (2 Cr 13,5).
a) Xét mình là gì ?
- Trong một phút thinh lặng các em cố nhớ xem từ sáng đến giờ, em đã không vâng lời mấy lần, đã chửi tục chửi thề ? Các em có nhớ được không ?
+... (có)
(GLV có thể cho vài em phát biểu thú tội công khai : không vâng lời thế nào, mấy lần).
Tốt đó, vậy là các em đã xét mình. Xét mình là cố nhớ lại xem mình đã phạm những tội nào ? Ngày nay quen gọi là tự kiểm. (GLV cho nhiều ví dụ cụ thể tương tự để giúp các em hiểu xét mình là gì ; ôn lại bài 17 (tội lỗi) để biết tội là gì và phân biệt tội trọng tội nhẹ, bao nhiêu lần).
Để xét mình trong một ngày, thì cần ít phút. Nhưng để xét mình xem một tháng qua hoặc một năm qua, em đã phạm những tội nào thì phải lâu hơn, em mới có thể xét được đầy đủ.
- Chị hỏi lại : xét mình là gì ?
+... (là thành tâm nhớ lại các tội mình đã phạm... bao nhiêu lần... nặng hay nhẹ... ).
Nếu các em không nhớ chính xác bao nhiêu lần, thì các em cũng phải cố xét xem em phạm tội đó khoảng bao nhiêu lần, nhất là tội trọng.
b. Hiệu quả của việc xét mình ?
- Ở nhà, các em thấy mấy người lớn soi gương một ngày mấy lần ?
+... (nhiều lần).
- Trước khi đi làm cũng soi gương, trước khi đi chợ cũng soi gương, trước khi đón khách cũng soi gương. Họ soi gương để kiểm tra cái gì ?
+... (xem mặt có bị dơ bẩn không).
Nếu có vết dơ thì họ rửa mặt ngay nên mặt lúc nào cũng sạch. Xét mình cũng vậy đó : Ai siêng năng xét mình sẽ dễ nhận ra điều sai lỗi của mình để sửa chữa hoặc xưng tội, nên lúc nào tâm hồn họ cũng trong sạch, đẹp lòng Chúa. Quan trọng hơn nữa, khi xét mình, em nhận ra mình có nhiều lỗi lầm, nhiều tội mà Chúa vẫn cứ thương, em càng cảm thấy tình thương của Chúa rất to lớn, từ đó em càng yêu mến Chúa hơn.
- Vậy từ nay, các em có thể xét mình mỗi ngày được không ?
+...
- Mỗi ngày, sau giờ kinh tối gia đình, các em dành một phút để nhớ lại xem trong ngày đã phạm những tội nào ? Tội trọng hay tội nhẹ. Nếu xúc phạm đến cha mẹ, anh chị, em đến xin lỗi các ngài, được không ?
+... (được, giơ tay nhất trí).
c) Cách xét mình ?
- Các em ôn lại : tội là gì ?
+... (tội là nghịch lại luật Chúa).
- Chúa bảo đừng làm mà các em cứ làm thì có tội không ?
+... (có) (GLV có thể cho nhiều thí dụ để giúp các em nhận diện ra tội và phân biệt tội trọng, tội nhẹ).
- Chúa dạy em làm mà em không làm có tội không ?
+... (có).
- Vậy tội là không vâng giữ luật Chúa. Luật Chúa được ghi chép ở đâu ?
+...
Trong Thánh Kinh, được thâu tóm trong 10 điều răn Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su dạy lại luật này kỹ lưỡng theo tinh thần mến Chúa yêu người. Chúng ta còn xét mình theo 6 điều răn Hội thánh và 7 mối tội đầu.
(GLV cho các em đọc kinh 10 điều răn - 6 luật Hội thánh và 7 mối tội đầu).
Khi xét mình, em có thể đọc từng điều răn, rồi nhớ lại xem Chúa Giê-su đã dạy thế nào. Nếu em không sống đúng theo điều Chúa dạy thì khi đó em có tội.
Thí dụ : Thứ ba, giữ ngày Chúa nhật. Chúa Giê-su dạy ta Thánh hóa ngày Chúa nhật. Em có bỏ dâng lễ ngày Chúa nhật không ? Mấy lần ? (GLV có thể cho thêm những thí dụ khác).
Khi đã thấy tội rồi, chúng ta còn tìm xem tội đó là tội trọng hay tội nhẹ. (GLV cố gắng giúp các em phân biệt tội trọng, tội nhẹ bằng những thí dụ cụ thể dựa vào 3 yếu tố thành tội trọng :
* Điều luật trọng.
* Đã biết đầy đủ.
* Đã muốn hoặc đã làm)
Em cũng có thể dựa vào bản xét mình để xét theo bổn phận :
* Đối với Chúa.
* Đối với cha mẹ, bề trên.
* Đối với người khác.
* Đối với chính mình.
- Nhưng trước khi xét mình, có một việc rất quan trọng, các em có biết là gì không ?
+...
- Chị hỏi nhé. Mỗi sáng khi quét nhà lúc trời còn tối, em thường đóng cửa hay mở cửa ?
+... (mở cửa).
Đúng đó, mở toang các cửa để ánh sáng chiếu vào nhà, mới dễ thấy chỗ dơ bẩn để quét dọn sạch sẽ hơn.
Cũng thế, trước khi xét mình, em hãy cầu xin Chúa soi sáng cho em để em nhớ lại những lỗi lầm của em. Sau đó em đặt mình trước mặt Chúa để em thành tâm xét mình.
(GLV nên tập cho các em xét mình và kiểm tra từng em).
d) Bản xét mình (1).
* Xét mình theo 10 Điều răn.
* Xét mình theo các bổn phận.
* Xét mình theo luật yêu thương.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha nhân ái, Chúa luôn mong chờ kẻ có tội ăn năn sám hối. Xin giúp chúng con biết chuẩn bị chu đáo mỗi khi đi xưng tội.
(1) Có nhiều cách xét mình, nhưng GLV nên lãnh ý cha xứ để học theo kinh nghiệm mục vụ của ngài tại địa phương : nên dạy cách nào tốt nhất, hữu ích nhất cho các em.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11).
123.H.Muốn lãnh nhận Bí tích Hòa Giải thì phải làm gì ? (GLCG.243)
T. Phải làm bốn việc này :
- Một là xét mình.
- Hai là ăn năn dốc lòng chừa.
- Ba là xưng tội.
- Bốn là đền tội.
124.H.Xét mình là gì ? (GLCG.244)
T. Xét mình là thành tâm nhớ lại các tội đã phạm từ lần xưng tội sau hết cho đến bây giờ, mỗi tội phạm mấy lần và những trường hợp làm cho tội ra nặng hơn.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tìm trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Em tập xét mình mỗi tối trước khi đi ngủ.
3. Bài làm ở nhà :
Em chép lại 1 bản xét mình.
V. KẾT THÚC.
- Đọc kinh sáng danh.
- Chào nhau.
A.XÉT MÌNH THEO 10 ĐIỀU RĂN.
1. Lỗi điều răn thứ nhất :
- Bỏ cầu nguyện sáng tối --------------------------------------------------------------------------------- lần
- Lười đọc Lời Chúa --------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Chơi giỡn khi nghe Lời Chúa ------------------------------------------------------------------------- lần
- Làm biếng học giáo lý ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Chối mình là người Công giáo ----------------------------------------------------------------------- lần
- Giấu tội trong khi xưng tội ----------------------------------------------------------------------------- lần
- Còn tội trọng chưa xưng mà
chịu lễ -------------------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Mới ăn xong mà chịu lễ --------------------------------------------------------------------------------- lần
2. Lỗi điều răn thứ hai :
- Nói phạm đến Chúa -------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Kêu tên Chúa để chơi ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Nói phạm đến Đức Mẹ
hay các Thánh -------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Thề dối, thề vặt -------------------------------------------------------------------------------------------- lần
3. Lỗi điều răn thứ ba :
- Bỏ lễ Chúa nhật ------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Dự lễ Chúa nhật không trọn --------------------------------------------------------------------------- lần
- Làm việc xác ngày lễ buộc ---------------------------------------------------------------------------- lần
4. Lỗi điều răn thứ bốn :
- Bất kính với ông bà cha mẹ :
nói hỗn, cãi trả … ---------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Không vâng lời ông bà cha mẹ ---------------------------------------------------------------------- lần
- Giận ghét cha mẹ ----------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Nói dối phỉnh phờ cha mẹ ----------------------------------------------------------------------------- lần
- Ăn cắp của cha mẹ -------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Đánh đập anh chị em ------------------------------------------------------------------------------------ lần
- Mắng chửi anh chị em ---------------------------------------------------------------------------------- lần
- Giận ghét anh chị em ------------------------------------------------------------------------------------ lần
5. Lỗi điều răn thứ năm :
- Đánh đập người khác ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Mắng chửi người khác --------------------------------------------------------------------------------- lần
- Giận ghét người khác ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Xúi người khác đánh nhau ---------------------------------------------------------------------------- lần
6. Lỗi điều răn thứ sáu và thứ chín :
- Cắp đôi cắp lứa -------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Nói tục tĩu ---------------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Tưởng nghĩ ước ao điều tục tĩu -------------------------------------------------------------------- lần
- Làm điều tục tĩu ------------------------------------------------------------------------------------------- lần
7. Lỗi điều răn thứ bảy và thứ mười :
- Làm biếng học hành ------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Làm biếng việc bổn phận ------------------------------------------------------------------------------ lần
- Ăn cắp của người ta ------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Muốn ăn cắp của người ta ---------------------------------------------------------------------------- lần
- Ăn gian của người ta ------------------------------------------------------------------------------------ lần
- Phá hoại của người ta ------------------------------------------------------------- lần
8. Lỗi điều răn thứ tám :
- Nói dối --------------------------------------------------------------------------------- lần
- Làm chứng dối --------------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Kiêu ngạo, khoe khoang -------------------------------------------------------------------------------- lần
- Nói xấu người ta ------------------------------------------------------------------------------------------ lần
- Nói vu cho người ta -------------------------------------------------------------------------------------- lần
- Phỉnh gạt người khác ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Ghen tỵ, bới móc người khác ------------------------------------------------------------------------ lần
Xét mình rồi, bây giờ tôi đã biết các tội đã phạm, tôi lo ăn năn tội, xin lỗi Chúa vì đã làm mất lòng Chúa, cùng thật lòng cương quyết chừa cải không dám tái phạm nữa.
B. XÉT MÌNH THEO BỔN PHẬN.
1. Bổn phận đối với Chúa :
- Con đã bỏ Thánh lễ Chúa nhật hoặc dự lễ không nên --------------------------------- lần
- Con đã bỏ kinh sáng tối lần
- Khi đọc kinh, dự lễ ngày thường, con đã ngủ gục, chia trí, nghịch phá --------- lần
- Con đã bỏ hoặc lơ là học giáo lý, đọc Lời Chúa ------------------------------------------ lần
- Con đã kêu tên Chúa vô cớ, thề gian, nói dối --------------------------------------------- lần
2. Bổn phận đối với cha mẹ, người trên :
- Con thiếu tôn kính vâng lời ----------------------------------------------------------------------- lần
- Con lụng bụng, chửi lại, cãi lại ------------------------------------------------------------------ lần
- Con nói dối, nói lời vô phép ---------------------------------------------------------------------- lần
- Con giận hờn, ăn cắp, và chưa thú tội ------------------------------------------------------- lần
- Con không chia sẻ trách nhiệm gia đình ---------------------------------------------------- lần
3. Bổn phận đối với người khác :
- Con có đánh nhau, cãi nhau, nói xấu, dèm pha ------------------------------------------- lần
- Con có giận hờn, thù ghét ------------------------------------------------------------------------ lần
- Con không giúp đỡ khi có thể ------------------------------------------------------------------- lần
- Con ước muốn, lấy cắp của người khác
(nói rõ cái gì, đáng giá bao nhiêu, đền trả chưa) ----------------------------------------- lần
- Con ăn, sử dụng của cắp, hoặc xúi giục người khác ăn cắp ------------------------ lần
4. Bổn phận đối với chính mình :
- Con lười biếng bê trễ bổn phận ----------------------------------------------------------------- lần
- Con nói tục, nghĩ bậy ------------------------------------------------------------------------------- lần
- Con đọc sách báo xấu, xem phim ảnh xấu ------------------------------------------------- lần
- Con mê ăn quá độ ----------------------------------------------------------------------------------- lần
- Con khoe khoang, cậy mình, ghen tức ------------------------------------------------------ lần
C. XÉT MÌNH THEO LUẬT YÊU THƯƠNG.
I. Sống cho Chúa.
Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha.
1. Hằng ngày, em có nhớ cầu nguyện với Chúa, cám ơn Chúa về tất cả những điều tốt đẹp Chúa đã làm và đã ban cho em không ?
2. Hằng tuần, em có tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật không ? Em có bỏ lễ Chúa nhật vì ham chơi hay lười biếng không ?
3. Trong khi cầu nguyện và tham dự Thánh lễ, em có tích cực tham gia đọc kinh, ca hát với cộng đoàn không ? Em có giữ thái độ nghiêm túc khi cầu nguyện và dâng Thánh lễ không ?
II. Sống cho anh chị em.
Chúa Giêsu dạy ta yêu mến và tôn trọng mọi người.
1. Yêu mến và tôn trọng mọi người.
- Em có tôn trọng sức khỏe, của cải, danh thơm tiếng tốt của người khác không ?
- Em có tha thứ thay vì cãi nhau, đánh nhau và trả thù không ?
- Em đã sống thành thật hay giả dối, nói dối và lường gạt người khác ?
- Có em nói có, không em nói không hay ngược lại, có nói không, không nói có ? Có khi nào em đã nói xấu, vu oan và tố gian người khác không ?
- Em thường nói lời đàng hoàng trong sạch hay mở miệng là buông lời thô tục, cộc cằn ?
- Em đã sống công bình hay đã lấy trộm tiền bạc, đồ vật của người khác ?
- Em có tôn trọng và bảo vệ của chung hay đã phá hoại súc vật, cây cối, hoa quả nơi công viên hay sở thú … có mượn và trả sách thư viện đúng hẹn không ?
- Em có yêu mến và xây dựng quê hương bằng cách học tập và lao động tốt không hay em lười biếng trốn học và trốn việc ?
- Em có sẵn sàng giúp đỡ và bênh vực bạn tốt không ? Có sẵn sàng cho bạn mượn đồ dùng học cụ của em không ?
2. Yêu mến và tôn trọng bản thân.
- Em có gìn giữ thân thể sạch sẽ và khỏe mạnh không ? Hay em đã phí phạm sức khỏe vì những cuộc chơi giữa trưa nắng nôi, vì ăn uống quá độ ?
- Em có gìn giữ quần áo, sách vở, … tiết kiệm tiền bạc cha mẹ cho không ? hay đã hoang phí cách vô tâm ?
- Em có siêng năng học hỏi và để tâm rèn luyện các đức tính tốt không ? Em có cầu nguyện, học hỏi giáo lý để biết yêu và biết sống như Chúa Giêsu không ?
- Em có lo âu thắc mắc điều gì không ? Có điều gì em đã nghĩ và làm nhưng phân vân không biết tốt hay xấu không ?
3. Tóm lại, khuyết điểm nào là khuyết điểm lớn nhất làm cho em xa Chúa ? Tháng này em quyết tâm sửa đổi điều gì ?
Lời Chúa : “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”(Lc 7,47).
Ý chính : 1. Ăn năn dốc lòng chừa là gì ? (Tv 50,1-19 ; Hs 6,1-6 ; Ga 3,1-10).
2. Hiệu quả của ăn năn dốc lòng chừa (Lc 7,44-48).
3. Cách ăn năn dốc lòng chừa (Lc 7,47 ; 15,17-18).
Tâm tình : Lo buồn, chê ghét và chừa tội.
Chuẩn bị : Tranh 30 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Ổn định, hát bài ca giáo lý, GLV giúp các em biết kiểm điểm bản thân về y phục và đời sống.
2. Thánh hóa :
Nhớ mình là kẻ có tội và gợi ý cầu nguyện với lòng thống hối ăn năn. Cầu xin Chúa ban ơn tha thứ.
3. Giới thiệu bài mới :
- Muốn lãnh nhận Bí tích Hoà giải, chúng ta phải làm mấy việc ?
+... (4 việc).
- Các em lần lượt kể 4 việc đó :
+...
- Các em đã học việc thứ nhất là xét mình. Hôm nay chúng ta học việc thứ 2 : ăn năn dốc lòng chừa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
(GLV lược kể chuyện người phụ nữ tội lỗi được tha thứ trong Lc 7,36-48).
Một lần kia Chúa Giê-su vào nhà người Pha-ri-sêu để dùng tiệc. Có một người phụ nữ tội lỗi đã ôm một bình dầu thơm đến. Chúa Giê-su đang nằm ăn tiệc theo kiểu người Do thái. Chị ta đến chân Chúa mà khóc. Chị khóc thảm thiết đến độ nước mắt ướt đẫm chân Chúa. Rồi chị lấy tóc mà lau chân Chúa. Chị còn hôn chân Chúa và lấy dầu thơm xức lên chân Chúa.
Thấy vậy, chủ nhà liền lẩm bẩm : “Nếu ông Giê-su này là một ngôn sứ thì phải biết “bả” là người tội lỗi chứ !?
Biết được lòng dạ của ông, Chúa nói : “Này ông Si-mon, tôi có điều muốn nói với ông.” Ông ấy vội vàng thưa : “Dạ... Xin Thầy cứ nói...”. Chúa Giê-su nói : “Một chủ nợ kia có hai con nợ, một người nợ 500 quan tiền người, kia nợ 50. Vì cả hai đều không có gì trả nên ông chủ thương tình tha cho cả hai. Vậy đố ông : trong hai người đó, ai mến chủ nhiều hơn”. Ông Si-mon đáp : “Tôi cho là người được tha nhiều hơn”. Chúa Giê-su bảo : “Ông xét đúng lắm.” Rồi nhìn về phía người phụ nữ, Chúa nói với ông Si-mon : “Ông thấy người phụ nữ này chớ ? Tôi vào nhà ông mà ngay cả nước lã ông cũng không đổ lên chân tôi. Còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, lại còn lấy tóc mà lau chân tôi. Ông chẳng hôn chào tôi. Còn chị này không ngớt hôn chân tôi. Đầu tôi, ông cũng chẳng xức dầu thơm, còn chị ấy đã lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi”.
Các em thấy đó, người phụ nữ có rất nhiều tội. Người Pha-ri-sêu khinh và gọi là hạng người tội lỗi. Còn Chúa Giê-su thì sao ? Mời các em đứng lên nghe lời tuyên bố của Chúa :
B. Công bố Lời Chúa : (Lc 7,47-48.50)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
“Tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng chứng là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”
Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Tội của chị đã được tha rồi... Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi)
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
- Tại sao người phụ nữ lại khóc lóc dữ vậy ?
+...
Vì chị ấy nhận ra mình tội lỗi quá. Chị ấy khóc lóc là dấu chỉ của sự ăn năn hối cải. Chị đã làm bao nhiêu chuyện xấu. Chị mong muốn được Chúa Giê-su tha thứ. Chắc chắn chị không muốn làm điều xấu ấy nữa.
- Đố các em : Chúa Giê-su có nhận ra được lòng sám hối ăn năn của chị ấy không ?
+... (thưa có).
- Chúa có thấy được lòng sám hối ăn năn của chị và Chúa biết chị ấy yêu mến Chúa rất nhiều. Chúa có tha tội cho chị ấy không ?
+... (thưa có).
- Chúa nói với chị ấy thế nào ?
+... (“tội của chị đã được tha rồi”).
Chị đã ăn năn tội thật lòng nên chị ấy đã xứng đáng được Chúa tha tội. Hôm nay, các em chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích Hòa giải, các em hãy noi gương chị ấy để biết cách ăn năn tội.
1. Ăn năn tội là gì ?
(Tv 50,1-19 ; Hs 6,1-6 ; Gn 3,1-10 ;…)
- Người phụ nữ tội lỗi ấy, sau khi đã nhận ra mình là kẻ có tội thì chị ta vui hay buồn ?
+... (thưa buồn).
(GLV treo tranh 30 ĐBTT cũ và diễn giải :)
- Còn chúng ta, sau khi đã XÉT MÌNH, biết mình có tội, chúng ta nên vui hay buồn.
+... (buồn).
- Chúng ta buồn vì mình đã không vâng lời Chúa, đã xúc phạm đến Chúa, đã làm điều xấu. Chính tội lỗi ấy đã giết chết sự sống của linh hồn ta. Những tội ấy có đáng ghét không ?
+... (thưa có).
Đúng, nguời nào ăn năn tội thì trước hết lo buồn phàn nàn vì đã xúc phạm đến Chúa và chê ghét tội của mình. Hơn thế nữa, phải dốc lòng chừa, quyết tâm không phạm tội ấy nữa.
- Các em có nhớ, khi có lỗi với ba má, em xin lỗi làm sao ?
+... (thưa ba má con chừa, con không dám làm chuyện ấy nữa, xin ba má tha cho con).
Với Chúa cũng vậy : em phải quyết tâm chừa tội, dốc lòng không phạm tội nữa.
- Tóm lại, sau khi nhận ra mình là kẻ tội lỗi, em ăn năn tội làm sao ?
Trước hết :
+... em lo buồn.
- Rồi sao nữa ?
+... em chê ghét.
- Rồi sao nữa ?
+... em dốc lòng chừa cải.
2. Hiệu quả : được Chúa tha thứ.
(Lc 15,22-24 ; Ga 8,11)
- Chị hỏi nhé : sau khi chị phụ nữ tội lỗi khóc lóc tỏ lòng ăn năn sám hối, Chúa Giêsu đã nói với chị ấy thế nào?
+... (“tội của chị đã được tha rồi”).
Đúng thế, khi ăn năn dốc lòng chừa, chúng ta được Chúa tha tội.
- Trong bài Bí tích Hòa giải, các em nghe Chúa Giê-su dạy về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu. Cậu út khi nghĩ lại và về xin lỗi cha, cha cậu đã làm gì ?
+... (ông ra đón, ôm chầm lấy cậu mà hôn).
- Như vậy cha cậu có tha thứ cho cậu chưa ?
+... (thưa rồi).
Vâng, người cha đó là hình ảnh của Thiên Chúa, Cha của chúng ta đó. Ai sám hối ăn năn dốc lòng chừa thì Chúa Cha tha thứ. Khi đã có lòng thống hối ăn năn, người ấy chỉ cần, như người con hoang đàng, đến thú tội nơi tòa giải tội thì liền được Chúa thứ tha.
- Chị đố các em nè : Có một người phạm tội rất nặng. Sau đó hối hận, ăn năn vì lòng yêu mến Chúa, nhưng chưa kịp xưng tội, thì bị đụng xe chết. Người ấy có bị Chúa phạt trong hỏa ngục không ?
+... (không).
Chắc chắn là không. Người ấy đã thật lòng ăn năn tội rồi. Người ấy đáng được Chúa tha tội và không bị phạt trong hỏa ngục nữa.
- Các em nhắc lại theo chị : “Khi em ăn năn dốc lòng chừa tội - em được Chúa tha thứ”.
(Có thể lặp lại hai, ba lần).
+ …
Vậy các em nhớ nhé : Bất cứ khi nào nhận ra mình đã phạm tội, em hãy ăn năn dốc lòng ngay.
3. Cách ăn năn tội.
- Trong bài Tin mừng được công bố, các em đã nghe Chúa Giê-su nói : “Tội của chị ấy rất nhiều nhưng đã được tha”, vì chị đã có tâm tình nào ?
+... (chị đã yêu mến nhiều).
Đúng rồi, tội của chị ấy rất nhiều nhưng đã được tha vì chị đã yêu mến nhiều, chị ăn năn dốc lòng chừa vì yêu mến Chúa. Đây là cách ăn năn tội đẹp lòng Chúa nhất.
Em cũng vậy, khi nhận biết tội xúc phạm đến Chúa, làm mất lòng Chúa là Cha nhân từ, nên em ăn năn tội, đó cũng là ăn năn tội vì yêu mến Chúa.
- Còn như người con hoang đàng, cậu út trong bài trước, tại sao anh ta lại sám hối ăn năn. Có phải vì thương cha không ?
+...
Ít có, nhưng vì phải khổ sở, đói khát, nhục nhã mà muốn trở về. Anh ta sợ khổ, đó là cách ăn năn tội vì sợ.
- Chị hỏi nè, nếu các em phạm tội trọng mà chết thì các em sẽ đi đâu ?
+... (xuống hỏa ngục).
- Các em có sợ không ?
+... (sợ).
- Vậy các em phải làm sao để khỏi xuống hỏa ngục ?
+... (phải ăn năn tội và đi xưng tội).
À, em đó ăn năn tội không phải vì yêu mến Chúa mà vì sợ bị phạt. Đó là ăn năn tội vì sợ, khác với chị phụ nữ : ăn năn tội vì yêu.
(GLV dùng nhiều thí dụ khác giúp các em phân biệt ăn năn tội vì yêu, vì sợ).
- Trong hai cách ăn năn tội này : một là vì yêu, hai là vì sợ Chúa phạt. Cách nào đẹp lòng Chúa hơn
+... (ăn năn tội vì yêu Chúa).
Vậy các em hãy tập ăn năn tội vì yêu Chúa nhé sau khi nhận ra mình là kẻ có tội :
* Em nhớ đến Chúa là Cha chúng ta, Người tốt lành vô cùng. Người rất thương em, cho em được làm người, được làm con Chúa. Vậy mà em đã không vâng lời Chúa, em xúc phạm đến Chúa. Tội này làm buồn lòng Chúa. Do đó em phàn nàn, trách mình, ăn năn tội và quyết tâm từ bỏ tội.
* Em nhớ tới Chúa Giê-su đã chịu đau khổ, nhục nhã và sau cùng chết trên thập giá vì tội em. Người yêu em như vậy mà em dám phạm tội nên em ăn năn dốc lòng chừa.
- Các em nhắc lại : Có mấy cách ăn năn dốc lòng chừa ?
+... (có hai cách :
* Một là ăn năn vì yêu Chúa.
* Hai là ăn năn vì sợ Chúa).
- Cách nào đẹp lòng Chúa hơn ?
+... (cách ăn năn tội vì yêu Chúa).
- Khi ăn năn tội vì yêu Chúa thì em nhớ tới những ai ?
+... (nhớ đến Chúa là Cha nhân từ ..., nhớ đến Chúa Giê-su vì thương em ...).
D. Cầu nguyện :
(GLV nhắc các em nhớ lại lỗi lầm của các em từ trước đến nay, nhất là những lỗi lầm trong ngày và giúp các em ăn năn dốc lòng chừa. Sau đó đọc kinh ăn năn tội :)
Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng …
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47).
125.H.Ăn năn dốc lòng chừa là gì ? (GLCG.245)
T. Ăn năn dốc lòng chừa là thật lòng thống hối vì đã phạm tội mất lòng Chúa và quyết tâm chừa cải.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tập hát bài : Tin lòng Cha.
2. Thực hành :
“Mỗi khi lỡ phạm tội, em ăn năn tội ngay”.
3. Bài làm ở nhà :
Trong tuần qua, em đã xin lỗi ba má, anh chị mấy lần ? ghi số lần vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
- Sau khi nhắc nhở, hát bài “Tin lòng Cha” hoặc một bài hát về sám hối.
- Chào nhau ra về.
MẪU I
1. Hát khai mạc.
“Chúa chính là thành luỹ che chở con,
Người là núi đá kiên vững con vào nương thân …”
2. Lời chào và mời gọi sám hối.
- Chúa ở cùng chúng con.
+ Và ở cùng Cha.
- Chúng con thân mến, Chúa tập họp chúng ta lại đây và nói với ta : “Hãy hết lòng trở về với Cha, cũng là Thiên Chúa của chúng con. Vì Cha từ bi và nhân hậu, khoan dung và nhân nghĩa, Cha sẽ thương và tha thứ cho chúng con” (Joel 2,12-13).
3. Lời nguyện :
- Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con khiêm tốn khẩn nguyện, xin tha cho chúng con vì đã xúc phạm đến Chúa. Xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con và ban cho chúng con sự bình an. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con …”
+ Amen.
4. Cử hành sám hối
Đọc đoạn Tin mừng Luca 15,11-24 : “Dụ ngôn người cha nhân hậu”.
5. Giảng.
- Khi ta quay lưng lại với Chúa : ta cảm thấy như có một hàng rào ngăn cách ta với Chúa, ta nghĩ rằng có lẽ Chúa không còn thương ta như trước nữa ; và ta không biết phải làm gì để giao hòa với Chúa.
- Chúa luôn chờ ta, Người thích thứ tha : hằng ngày khi ta quên Chúa, Chúa vẫn chờ ta. Người tìm gặp để tha thứ cho ta, đón nhận và nâng đỡ ta. Tình thương của Chúa mạnh hơn tội lỗi ta. Người chỉ biết có một điều là : “Con Ta đã mất và nay đã tìm lại được”.
- Ta tin vào Chúa, Đấng tha thứ cho ta : chính tình thương và sự tha thứ của Chúa giúp ta khám phá ra tội lỗi ta và tự hứa sẽ không tái phạm nữa. Như người con hoang đàng, ta muốn nói với Chúa : “Lạy Chúa, con đã phạm tội mất lòng Chúa, xin Chúa thứ tha”. Nay con chỗi dậy và đi về cùng Chúa.
6. Hướng dẫn xét mình.
Xem “Bản hướng dẫn xét mình”.
Trong khi xét mình, có thể để một lúc thinh lặng rồi kết bằng lời khấn xin : “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã xúc phạm đến Chúa” (Tv 50) hoặc bằng điệp khúc của một bài hát ngắn.
7. Sám hối chung.
Đọc kinh cáo mình : “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều …”
8. Xưng tội riêng.
Các em đi xưng tội riêng.
Trong thời gian này, có thể vặn nhạc đệm thật êm hay nói một vài câu rất chậm, cách khoảng bằng những phút thinh lặng. Ví dụ : “Lạy Chúa, con đã biết tội con rồi. Và con tìm đến Chúa để thú tội con”.
- Con sẽ lên đường, đi về cùng Cha. Và con thưa Người rằng : “Thưa Cha, con đã phạm tội nghịch cùng Cha”.
- “Lạy Chúa, xin thương con, lạy Chúa, Đấng nhân hậu từ bi. Người luôn thương con và tha thứ tội lỗi con”.
- “Con thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, con đã xúc phạm đến Người, lỗi lầm của con luôn ở trước mặt con … Xin Người tẩy xóa. Xin ban cho con quả tim trong sạch … Xin ban lại cho con nguồn vui cứu độ” (Tv 51).
9. Giải tội chung.
- Việc xưng tội chấm dứt, các linh mục họp nhau lại trước bàn thờ, giơ tay trên các em mà ban phép giải tội như sau :
“Thiên Chúa là Cha hay thương xót đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội thánh mà ban cho chúng con ơn tha thứ và bình an. Vậy Cha tha tội cho chúng con. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”
+ Amen.
10. Khuyên bảo và việc thống hối.
- Linh mục chủ sự nói vài lời có ý nhấn mạnh rằng mọi thống hối thật lòng đòi hỏi phải có sự cố gắng sửa lại các lỗi lầm.
- Kế đến, mời gọi các em tự chọn một cố gắng đích xác, thực tiễn và dễ thực hiện (thinh lặng vài phút để các em chọn lựa).
- Sau đó, tất cả có thể trình diện Cha như những người con của Người, đang khi đọc kinh Lạy Cha với niềm hân hoan cảm tạ : “Lạy Cha chúng con ở trên trời …”
11. Ca ngợi lòng từ bi của Thiên Chúa.
Các em cùng hát lên niềm vui được Chúa thứ tha và ước muốn yêu Chúa hơn : “Chúng con xin ngợi khen Cha …” (Thành Tâm).
12. Nghi lễ kết thúc.
Bây giờ các Linh mục ban phép lành cho các em :
- “Xin Chúa hướng dẫn các em trong tình yêu và bình an của Chúa.
+ Amen.
- “Để chúng con tiến bước trong đời sống mới, sống đẹp lòng Chúa trong hết mọi sự.
+ Amen.
- “Và xin Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho chúng con”.
+ Amen.
- Giải tán : “Chúa đã tha tội cho chúng con, chúc chúng con về bình an”.
+ Amen.
MẪU II
I. Nghi thức mở đầu :
- Chủ sự và giúp lễ tiến ra, cộng đoàn hát : Bài ca sám hối.
- Khai mạc :
* Chủ sự kêu gọi :
Các con thân mến, chúng con họp nhau nơi đây để làm việc thống hối và canh tân đời sống các con. Thống hối không phải là việc cam go đầy vẻ âu sầu như nhiều người nghĩ, nhưng là hành động vui tươi, hướng về tương lai hơn là quá khứ : Chính Thiên Chúa dùng sự thống hối, mở cho các con một con đường mới, càng ngày càng dẫn chúng con tới hưởng tự do hoàn toàn của con cái Chúa. Đức Kitô gọi chúng con trở về, đã chỉ cho chúng con đường tiến về nước của Cha Ngài, như Ngài dạy trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, quyết tâm trở về với Cha mìmh. Theo lời khuyên ấy, chúng con hãy bỏ đời sống cũ, theo đời sống mới quí hóa hơn nhiều.
- Đọc lời nguyện :
Chúng ta dâng lời cầu nguyện,
Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con bỏ con đường cũ, con đường tối tăm, gian tà để đi vào con đường ánh sáng, con đường chân thật,và thánh thiện, Chúa đã mời gọi chúng con ra khỏi cõi chết để đi vào cõi sống. Xin Chúa đổ ơn Thánh Thần Chúa xuống trên chúng con, mở tai chúng con, để chúng con đón nhận tiếng Chúa gọi và can đảm lên đường, bước theo Chúa, sống đời Kitô hữu trưởng thành, nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con. Amen
II. Cử hành Lời Chúa :
- Bài đọc 1 : Rm 7,18-25.
- Đáp ca : Hãy chỗi dậy.
- Alleluia : Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi. Allêluia.
- Tin Mừng : Lc 15,11-32.
- Giảng, hướng dẫn xét mình.
III . Nghi thức giao hòa :
- Chủ sự : Chúng con hãy quỳ gối xuống thú nhận tội lỗi mình và cầu xin cho nhau để lãnh ơn cứu độ.
- Cộng đoàn : Tôi thú nhận....
+ Kinh nguyện cầu :
- Chủ sự :
Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết chúng con có lòng thành muốn trở về phụng sự Chúa và anh em tốt hơn. Xin đoái nhìn chúng con và nghe lời chúng con cầu xin.
- Một em đọc :
1) Xin Chúa giúp chúng con biết thành tâm ăn năn thống hối trở về cùng Chúa, và quyết tâm xây dựng đời sống mới.
2) Xin Chúa thúc đẩy chúng con cải thiện và canh tân đời sống, cùng giúp chúng con luôn trung thành với lòng cải thiện và canh tân ấy.
3) Xin Chúa đoái thương tha thứ tội lỗi và mọi khuyết điểm của chúng con.
4) Xin Chúa đổ tràn tâm hồn chúng con lòng trông cậy, một đức tin vững mạnh và một lòng mến Chúa bền vững trung kiên, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
5) Xin Chúa làm cho chúng con trở nên chứng nhân trung thành của Chúa và thành chi thể sống động trong Hội Thánh.
+ Chủ sự :
Giờ đây, vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta hãy xin Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi chúng ta đã phạm và cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ.
+ Cộng đoàn : Lạy Cha chúng con ở trên trời ...
+ Chủ sự :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ trở về để được sống. Xin Chúa đoái thương ban ơn tha thứ cho chúng con để chúng con được sống trong tình yêu Chúa, xứng đáng hưởng ơn cứu chuộc Chúa hứa ban, và cho chúng con được như ý nguyện đã xin, chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen
MẪU III
I. Nghi thức mở đầu :
- Chủ sự và giúp lễ tiến ra, hát : Bài ca sám hối.
- Khai mạc : Chủ sự kêu gọi :
Các bạn trẻ thân mến, chúng ta họp nhau đây để làm việc thống hối và canh tân đời sống chúng ta. Thống hối không phải là việc cam go đầy vẻ âu sầu như nhiều người nghĩ. Nhưng là hành động vui tươi, hướng về tương lai hơn là quá khứ. Chính Thiên Chúa dùng sự thống hối mở cho chúng ta một con đường mới, càng ngày càng dẫn chúng ta tới hưởng tự do hoàn toàn của con cái Chúa. Đức Ki-tô gọi chúng ta trở về để chỉ cho chúng ta con đường tiến về Nước của Cha Ngài như Ngài dạy trong dụ ngôn : Đứa con hoang đàng, quyết tâm trở về với Cha mình. Theo lời khuyên ấy, chúng ta hãy bỏ đời sống cũ, theo đời sống mới quý hoá hơn nhiều.
- Hát : Hãy chỗi dậy.
- Chủ sự đọc Lời nguyện :
Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con bỏ con đường cũ, con đường tối tăm, gian tà, tội lỗi để đi vào con đường ánh sáng, con đường chân thật và thánh thiện, Chúa đã mời gọi chúng con ra khỏi cõi chết để đi vào cõi sống. Xin Chúa đổ ơn Thánh Thần Chúa xuống trên chúng con, mở tai chúng con, bồi dưỡng tâm hồn chúng con, để chúng con đón nhận tiếng Chúa gọi và can đảm lên đường bước theo Chúa, sống đời Ki-tô hữu trưởng thành, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng ta.
- Cộng đoàn : Amen.
II . Cử hành Lời Chúa :
- Đọc Tin Mừng : Lc 15, 11-32.
- Suy niệm :
a) Người con trai hoang đàng phung phí hết của cải :
Đó là khuôn mặt thứ nhất của tội, như là đoạn tuyệt, cắt đứt mọi hiệp thông ân tình giữa Thiên Chúa và con người ; như là chối từ không sống san sẻ giữa Cha và con : anh ta đòi gia tài của anh ta để thụ hưởng một mình. Anh ta chiếm lấy quyền sở hữu, nhất định tự mình làm chủ lấy của cải của mình, không phục vụ Cha. Anh ta chọn lấy cái hữu hạn làm tài sản riêng, thay vì chọn tất cả trong tinh thần chia sẻ.
Đòi phần gia tài của mình, tức là mặc cả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, nghĩa là đặt mối quan hệ đó trên cơ sở công bình nhân văn. Anh không chờ đợi một ân huệ nào khác, một ân huệ vô hạn, vô giá mà con người có thể nhận được khi sống hiệp thông với Thiên Chúa. Tội ở đây là hạ giá ân sủng thành quyền lợi, là thay thế giao ước ân tình bằng một thứ hiệp thương.
Rồi anh ta ôm phần gia tài đi tha phương cầu thực, sống không phục vụ Cha, không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai. Do đó, tội như là đoạn tuyệt mọi hiệp thông, lôi theo sự ích kỷ, cô đơn và do đó như là kinh nghiệm thất vọng : con người chứng kiến một thất bại của ước muốn hão huyền, chỉ đưa con người tới tuyệt vọng vì xa Chúa, xa anh em của mình.
- Hát : Con nay trở về (câu 1)
- Xét mình : Đối chiếu với Lời Chúa chúng ta vừa phân tích trên, chúng ta hãy nhìn lại mình và khiêm nhu, chân thật thú nhận những tội lỗi của chúng ta :
1. Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, vì đã làm hại cho kẻ khác, nhất là cho người nghèo khó, thiếu thốn khi chúng con tiêu xài vô trách nhiệm, khi chúng con lo tìm cách sống tiện nghi dưới mọi hình thức mà không nghĩ tới phải chia sẻ với anh chị em của chúng con. (Thinh lặng giây lát)
2. Con xin lỗi Chúa, vì trong những hoạt động thường ngày, con chỉ nghĩ tới mình mà quên đi những người đang gặp thử thách, những kẻ đang mang bệnh hoạn tật nguyền, những người già cả, những kẻ neo đơn. (Thinh lặng giây lát).
3. Con xin lỗi Chúa, vì với những của cải vật chất Chúa ban, với địa vị xã hội con được, với tài năng con có, ngay cả với những nhân đức, nhờ ơn Chúa, con đã tập, thay vì phục vụ tha nhân, con đã lên mặt tự đắc, khinh miệt anh em, xúc phạm đến những người xấu số. (Thinh lặng giây lát).
4. Con xin lỗi Chúa, vì đã mặc cả mối quan hệ giữa con với Chúa. Thay vì sống thân phận làm con, chọn không có gì để có tất cả, con đã dành lấy cái ít ỏi mình có, và do đó, đã hạ giá ân sủng của Thiên Chúa xuống hàng quyền lợi con người.
(Thinh lặng giây lát).
5. Con xin lỗi Chúa, vì đã sống ích kỷ, nên cuối cùng đã phải sống cảnh cô đơn, làm mồi ngon cho tuyệt vọng. (Thinh lặng giây lát).
b) Người con trai hoang đàng quyết định trở về :
Khi phung phí hết tiền của với bọn đàng điếm, người con trai hoang đàng phải lâm vào một hoàn cảnh tuyệt vọng : đói khát, cô đơn, không ai thông cảm, không ai giúp đỡ, cũng chẳng biết cậy nhờ vào ai !...
Cũng may là anh ta còn nhớ về nhà Cha, nơi mà anh đã được hưởng cảnh đầy đủ sung túc của một đời sống biết san sẻ. Con người không lầm lẫn, không sa ngã một lần cho hết mọi lần. Mà con người có khả năng làm lại cuộc đời bằng tâm tình khiêm tốn, nhận chân lỗi lầm, để nhờ ơn Chúa, hoán cải trở về.
Khi tự nhủ : Thôi, ta lên đường, đi về cùng Cha và thưa với Người : “Thưa Cha, con đắc tội với Trời và với Cha”, người con hoang đàng bỗng dưng xuất hiện dưới một hình ảnh mới : Anh ta bây giờ là một con người biết nhận tội để đủ cởi mở mà đón nhận ân sủng. Thái độ của anh ta là suy nghĩ khi nhìn lại thái độ của mình.
- Hát : Con nay trở về (câu 2)
- Xét mình :
1. Con xin lỗi Chúa, vì hơn một lần, con đã không đủ can đảm, khiêm tốn để nhìn nhận tội lỗi của con, để trở về làm hòa với Chúa, với chính mình và với anh chị em (Thinh lặng giây lát).
2. Con xin lỗi Chúa, vì có những ngày con không muốn đi bước trước, vì còn đố kị với anh chị em, vì phán đoán của con hãy còn nặng nghi ngờ, tự ái. (Thinh lặng giây lát).
3. Con xin lỗi Chúa, vì khi bị cảnh đời gian nan thử thách, con đã nhát đảm phản bội, đã ngã lòng rủn chí mà đóng lòng lại không nhận ra sáng kiến từ người khác. (Thinh lặng giây lát).
4. Con xin lỗi Chúa, vì con đã không đủ can đảm phản ứng chống lại những điều bất công mà con hoặc người anh chị em con gặp phải, nhằm thăng tiến một cuộc sống cho ra người hơn. (Thinh lặng giây lát).
- Chủ sự : Lạy Chúa là Thiên Chúa Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết chúng con có lòng thành muốn trở phụng vụ Chúa và anh em tốt hơn. Xin Chúa đoái nhìn chúng con và nghe lời chúng con cầu xin.
1. Xin cho mọi thanh niên nam nữ chúng con biết thành tâm ăn năn thống hối, trở về cùng Chúa và quyết tâm xây dựng đời sống mới.
2. Xin thúc đẩy chúng con cải thiện và canh tân đời sống, cùng giúp chúng con luôn luôn trung thành với lòng cải thiện và canh tân ấy.
3. Xin Chúa đoái thương tha thứ tội lỗi và mọi khuyết điểm của chúng con.
4. Xin Chúa đổ tràn tâm hồn chúng con lòng trông cậy, một đức tin vững mạnh, và một lòng mến Chúa bền vững trung kiên trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
5. Xin Chúa làm cho chúng con trở nên chứng nhân trung thành của Chúa và thành chi thể sống động trong Hội thánh.
+ Chủ sự :
Giờ đây, vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta hãy xin Thiên Chúa Cha tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta đã phạm và cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ :
- Cộng đoàn : Lạy Cha chúng con ở trên trời....
+ Chủ sự :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ trở về để được sống. Xin Chúa đoái thương ban ơn tha thứ cho, để chúng con được sống trong tình yêu Chúa, xứng đáng hưởng ơn cứu chuộc Chúa ban và cho chúng con được như ý nguyện đã xin. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
IV. Nghi thức kết thúc :
+ Chủ sự : Xin Thiên Chúa hướng dẫn lòng trí anh chị em trong tình yêu của Ngài và tình yêu hiến mình của Chúa Kitô.
+ C. đoàn : Amen
+ Chủ sự : Xin Thiên Chúa giúp anh chị em vững tiến trên đường sống mới và làm đẹp lòng Chúa trong hết mọi sự.
+ C. đoàn : Amen
+ Chủ sự : Xin Thiên Chúa toàn năng : là Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em.
+ C. đoàn : Amen
+ Chủ sự : Nào ta chúc tụng Chúa.
+ C. đoàn : Tạ ơn Chúa.
Lời Chúa : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15,21).
Ý chính : 1. Xưng tội là gì ? (Lc 15,11-24).
2. Hiệu quả : ơn giao hòa - ơn tha thứ.
3. Cách xưng tội.
Tâm tình : Khiêm nhường - thống hối - thành thật.
Chuẩn bị : Tranh 31 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Ổn định - hát bài ca giáo lý, nhắc các em nhìn nhận những lỗi lầm đã phạm, ăn năn tội.
2. Thánh hóa :
Lạy Cha là Chúa trời đất, Cha luôn yêu thương chúng con. Vậy mà chúng con đã phạm tội xúc phạm đến Cha và làm thiệt hại cho nhiều người. Xin Cha tha thứ cho chúng con.
3. Giới thiệu bài mới :
- Muốn lãnh nhận Bí tích Hòa giải thì phải làm gì ?
+... (Phải làm bốn việc này :
* Một là xét mình.
* Hai là ăn năn dốc lòng chừa.
* Ba là xưng tội.
* Bốn là đền tội).
- Các em đã biết làm những việc nào rồi ?
+... (Xét mình - ăn năn tội).
Hôm nay các em học về việc xưng tội.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Washington khi còn bé rất thích trồng cây. Có lần Washington đã bứng một cây quý của ba đem đi trồng chỗ khác. Khi ba về đến nhà, thấy vậy ông rất tức giận. Washington đã can đảm vào xin lỗi mà không sợ bất cứ hình phạt nào.
Thấy con xin lỗi, ba của Washington đã ôm ông vào lòng và nói : “Tất cả tài sản của ba không quý bằng lòng thành thật sám hối của con”.
Quả thực, sau này Washington trở thành một tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ.
- Các em thấy Washington biết khiêm nhường nhìn nhận lỗi lầm của mình và can đảm xin lỗi tức là xưng thú tội mình với ba. Ba của Washington có trách mắng hay phạt ông không ?
+... (không).
Không những Washington không bị phạt mà trái lại còn được ba yêu thương hơn. Người ba đó là hình ảnh của Chúa. Chúa còn nhân từ hơn thế nữa. Các em cùng đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Lc 15,11-24)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Diễn giải nội dung Giáo lý :
(GLV treo tranh 31).
- Người con hoang đàng sau khi đòi chia gia tài, đã tiêu phí hết của cải, gặp nạn đói. Cậu lâm cảnh khốn khổ, đã biết nhận lỗi của mình. Anh ta quyết định trở về và thú nhận với cha thế nào ?
+... (thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha...).
- Người cha của anh đã làm gì ?
+... (ôm anh mà hôn... kêu đầy tớ...)
- Tất cả những điều ấy chứng tỏ người cha đã tha thứ cho anh ta chưa ?
+... (rồi).
Không những tha thứ mà còn thương anh ta thật nhiều. Ông còn giết bê béo để ăn mừng. Khi em xưng tội, em cũng theo gương người con hoang đàng biết sám hối trở về xưng thú tội mình, em cũng theo gương của Wangshington xin lỗi, chắc chắn em sẽ được Chúa tha và thương em nhiều lắm.
1. Xưng tội là gì ? (Lc 15,11-24)
- Khi các em hỗn láo với mẹ thì em xin lỗi ai ?
+... (xin lỗi mẹ).
- Nếu em làm hư sách của bạn thì em xin lỗi ai ?
+... (xin lỗi bạn).
- Đúng rồi, mình có lỗi với ai thì xin lỗi người ấy. Vậy khi phạm tội, em không vâng lời Chúa, em đã xúc phạm đến Chúa thì em phải xưng tội với ai ?
+... (xưng tội với Chúa).
- Mà Chúa đã trao quyền cho ai đại diện Chúa để ban Bí tích Hòa giải ?
+... (cho các linh mục).
Vậy khi xưng tội là xưng với linh mục đại diện cho Chúa.
- Đố các em : trước khi đến tòa giải tội xưng thú tội của mình, Chúa đã biết em có tội nào chưa ?
+... (Chúa biết rồi).
- Biết rõ ràng hay biết sơ sơ ?
+... (biết rất rõ).
Vậy khi xưng tội các em nhớ nhé : phải thành tâm xưng thú hết mọi tội mình đã phạm, không được giấu tội nào.
2. Hiệu quả : ơn giao hòa - ơn tha thứ.
- Các em ôn lại nhé : hỏi Bí tích Hòa giải ban những ơn ích thiêng liêng
nào ?
+... (Thưa, Bí tích Hòa giải ban cho ta những ơn này :
* Một là tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội thánh.
* Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra và tha một phần hình phạt tạm.
* Ba là ban sự bình an và gia tăng sức mạnh cho cuộc chiến đấu thiêng liêng của người Kitô hữu).
3. Cách xưng tội.
- Chị hỏi lại : xưng tội là gì ?
+... (là thành tâm thú nhận với linh mục đại diện Chúa Kitô, các tội mình đã phạm).
- Đúng thế, nhưng trước hết em phải cho linh mục giải tội biết em đã xưng tội được bao lâu rồi. Riêng các em, đã xưng tội được bao lâu rồi ?
+... (chưa lần nào).
- Vậy sắp tới đây, câu đầu tiên em thưa là : “Thưa cha, con xưng tội lần đầu”. Còn những lần sau, em thưa rằng : Thưa cha, con đã xưng tội một tháng, (hai tháng...) tùy theo thời gian từ lần xưng tội trước. Các em lặp lại câu đầu tiên khi vào tòa xưng tội ?
+... (thưa cha, con xưng tội lần đầu).
Tiếp đó, em phải thành thật thưa : “Con xưng tội trọng”, đoạn xưng thú tất cả các tội trọng đã xét thấy, tội gì, bao nhiêu lần. Phải thành tâm xưng hết mọi tội trọng mà em đã phạm.
Ví dụ : Con có bỏ lễ Chúa nhật vì lười 2 lần (GLV cho nhiều thí dụ cụ thể để các em tập làm quen).
- Sau đó, khi xưng thú hết các tội trọng rồi, em thưa lời nào ?
+...
- Em thưa “con xưng tội nhẹ”. Rồi xưng thú một hoặc hai tội nhẹ nào mà em đã cố tình phạm (thí dụ cố tình bỏ lễ ngày thường) hoặc tội nào phạm nhiều lần (thí dụ nói tục), hoặc gây tai hại lớn (thí dụ bỏ đi học giáo lý). (GLV cho nhiều thí dụ cụ thể).
- Các em lặp lại lời thứ ba khi vào xưng tội ?
+... (con xưng tội nhẹ).
Nếu em không nhớ chính xác mấy lần thì xưng khoảng ... lần.
Ví dụ : con có đánh nhau khoảng 7 lần (GLV cho nhiều em tập xưng thú).
- Em phải xưng rõ ràng, đừng xưng lý nhí. Chúng ta phải xưng hết mọi tội trọng. Còn tội nhẹ có buộc phải xưng hết không ?
+... (không).
- Không buộc phải xưng hết. Nhưng tội nhẹ vẫn là tội. Ai xưng tội nhẹ thì được tha và được thêm nhiều ơn ích. Tuy nhiên các em có nhiều tội nhẹ không?
+... (nhiều, rất nhiều).
Không thể xưng hết và cũng không cần xưng hết. Các em chỉ xưng những tội nhẹ cố tình, hoặc tội nhẹ quen phạm, tội nhẹ gây tác hại lớn, để nhờ ơn Chúa, em sửa chữa những tội ấy.
- Sau khi xưng tội nhẹ rồi, em thưa với cha làm sao ?
+...
- Thưa “thưa cha, con xưng hết”. Các em lặp lại.
+... (thưa cha, con xưng hết).
Sau đó, em lắng nghe lời cha khuyên bảo và nhớ kỹ việc đền tội cha chỉ dạy rồi thật lòng ăn năn tội và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân từ. Khi cha đọc lời tha tội đến câu “Vậy cha tha tội cho con : nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì em sốt sắng làm dấu thánh giá trên mình và thưa “Amen”. Liền sau lời Amen, em thưa: “con cám ơn cha” rồi ra khỏi tòa.
Các em lặp lại những lời em thưa khi vào tòa xưng tội :
(GLV lần lượt giơ từng ngón tay và cha cả các em giơ từng ngón tay để đọc những lời tương xứng :)
1. Thưa cha, con xưng tội lần đầu (các lần sau : thưa cha, con đã xưng tội.... tháng).
2. Con xưng tội trọng : ....
3. Con xưng tội nhẹ : ....
4. Con xưng hết.
5. Amen - Con cám ơn cha.
- Chị hỏi nè ! lỡ đang xưng tội, em run quá mà quên mất tội nào đó thì Chúa có tha tội ấy cho em không ?
+...
Chúa tha thứ vì trước đó em đã ăn năn dốc lòng chừa rồi, nhưng em lỡ quên thôi, chứ em đâu có ý giấu tội.
Khi em lỡ quên tội thì em cứ yên tâm và tin là Chúa vẫn tha cả tội ấy cho em. Nếu quên tội trọng thì lần xưng tội sau, em xưng tội đó ra.
Tuy nhiên, em nào chủ ý giấu tội trọng thì không được tha tội nào mà còn thêm tội nói dối với Chúa. Tội nói dối đó sẽ là tội trọng, người ta quen gọi là tội phạm sự thánh, làm hư Bí tích Giải tội.
Các em thân mến, (còn ít tuần, tháng nữa) các em sẽ được xưng tội lần đầu. Các em hãy cầu nguyện cho mình và cho các bạn biết dọn mình thật sốt sắng, thật nghiêm chỉnh nhé.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha nhân ái. Chúa luôn mong cho kẻ có tội trở về. Xin giúp chúng con biết mau mắn chạy đến cùng Chúa thành tâm xưng thú mọi tội lỗi đã xúc phạm đến Chúa và anh em để chúng con được sống an bình trong tình yêu của Chúa luôn mãi.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15,21).
126.H. Xưng tội là gì ? (GLCG.246)
T. Xưng tội là thành tâm thú nhận với linh mục đại diện Chúa Ki-tô, các tội mình đã phạm.
127.H.Phải xưng tội thế nào ? (GLCG.247)
T. Hội thánh buộc phải xưng cách thành thật, rõ ràng tất cả các tội trọng chưa xưng, và khuyên xưng các tội nhẹ để sống đẹp lòng Chúa hơn.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tập hát, băng reo trong tập sinh hoạt ĐBTT hay nơi khác.
2. Thực hành :
Khi làm buồn lòng ai, em đến xin lỗi ngay.
3. Bài làm ở nhà :
Em viết vào tập 5 câu em sẽ nói khi vào tòa xưng tội.
V. KẾT THÚC.
- Hát bài “Tin lòng Cha”.
- Chào nhau ra về.
Lời Chúa : “Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi nhưng còn vì tội lỗi của thế gian nữa” (1 Ga 2,2).
Ý chính : 1. Đền tội là gì ? (1 Ga 2,1-2)
2. Hiệu quả của việc đền tội : đền bù và sửa chữa hậu quả của tội (1 Ga 2,1-2)
3. Cách làm việc đền tội.
Tâm tình : Khiêm nhường nhận tội và đền bù.
Chuẩn bị : Tranh 32 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Ổn định trật tự - hát bài ca giáo lý.
2. Thánh hóa :
Nhớ Chúa là Cha nhân từ và sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
Để lãnh nhận Bí tích Hòa giải, chúng ta phải làm 4 việc. Chúng ta đã học 3, nay đến việc thứ bốn là ĐỀN TỘI.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
- Hôm qua mải xem tivi nên Tâm không học bài, sáng nay đến lớp, đầu giờ học cô giáo kêu Tâm lên trả bài. Vậy khi cô giáo hỏi bài, đố các em biết : Tâm có thuộc không ?
+... (không).
- Nếu không thuộc bài thì bạn Tâm có bị cô giáo phạt không ?
+...
À, Cô giáo của Tâm không đánh đòn, nhưng bắt Tâm phải chép phạt bài học đó 20 lần để cho nhớ và chừa tội lười học bài.
Việc Tâm chép phạt đó chính là một cách để Tâm đền bù và sửa chữa lại lỗi lầm.
Cũng vậy, khi các em xưng tội với Chúa nơi Bí tích Hòa giải, sau khi các em xưng thú tội đã phạm, cha sẽ chỉ định cho các em một việc phải làm để đền tội.
Trước khi nghe hướng dẫn mời các em đứng lên nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (1 Ga 2,1-2)
Lời Chúa trong thơ thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Đền tội là gì ? (1 Ga 2,1-2).
- Các em thân mến, như các em đã biết tội lỗi gây ra những hậu quả nặng nề. Khi phạm tội, em xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, đến Thiên Chúa là Cha, đến Chúa Giê-su, Đấng đã chết để cứu em. Khi phạm tội, em phá huỷ sự sống siêu nhiên mà Chúa đã ban cho em. Khi phạm tội, em gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho nguời khác. Khi ấy em đáng bị trừng phạt đời đời. Tự em không thể nào đền bù được tội lỗi của em. Nhưng em hãy nhớ lời thánh Gio-an vừa nghe : chúng ta có một Đấng Bảo Trợ, Đấng đó là ai ?
+... (Chúa Giê-su Ki-tô).
- Người đã làm gì để đền tội cho ta ?
+...
- Người đã tự dâng mình hiến tế trên thập giá làm của lễ đền tội cho ta, các em lặp lại :
+ …
- Người là của lễ đền tội cho hết mọi người. Chỉ có Chúa Giê-su Ki-tô mới có thể đền bù hết mọi tội lỗi của chúng ta bằng giá máu của Người. Thế nhưng em đã phạm tội thì chính em, em có phải đền bù tội lỗi của mình không ?
+...
Chắc chắn là có rồi. Khi phạm tội trọng, em đáng bị phạt đời đời trong hỏa ngục. Khi xưng tội, em được Chúa tha mọi tội và dĩ nhiên em không lo bị phạt đời đời nữa. Nhưng em đã xúc phạm đến Chúa, em đã phá vỡ sự sống siêu nhiên của em, em đã gây thiệt hại cho người khác... thì em phải lo đền bù, sửa chữa lại những hậu quả ấy.
- Chị hỏi nhé : Tâm mải xem tivi nên không thuộc bài. Giờ đây, sau khi chép phạt 20 lần, Tâm đã thuộc bài chưa ?
+... (thưa thuộc).
- Lần sau bạn Tâm còn lười học bài nữa không ?
+... (không).
Cũng thế, khi em xưng tội xong. Cha giải tội sẽ khuyên dạy giúp em sửa chữa mọi lỗi lầm. Sau đó, Người ra chỉ định cho em một việc phải làm để đền tội như : đọc kinh, lần hạt, làm một việc hy sinh, một việc bác ái... để giúp em tạ lỗi cùng Thiên Chúa và đền bù, sửa chữa lại mọi hậu quả của tội lỗi.
- Chị hỏi lại : Sau khi xưng tội xong, em ghé tai vào tòa trước hết cha sẽ nói gì ?
+... (trước hết cha khuyên dạy).
- Sau đó, em phải lắng nghe gì nữa ?
+... (nghe cha ra việc đền tội).
- Đền tội để làm gì ?
+... (tạ lỗi cùng Thiên Chúa và đền bù, sửa chữa lại mọi hậu quả của tội lỗi).
Các em nhớ nhé : chúng ta đã có một Đấng Bảo Trợ là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là của lễ đền tội cho chúng ta. Nên sau khi xưng tội, em phải cầu xin Chúa Giê-su Ki-tô để nhờ Chúa Ki-tô và cùng với Chúa Ki-tô, em làm các việc đền tội do cha dạy. Em nhớ làm việc đền tội càng sớm càng tốt, kẻo lỡ quên. Ngoài việc đền tội do cha giải tội dạy, em còn phải :
a) Đền bù thiệt hại vật chất và tinh thần nếu em đã lỗi đức công bằng. Thí dụ em đã ăn cắp, ăn trộm của ai cái gì thì phải đền trả cho người đó vật đã lấy hoặc cái khác tương đương. Thí dụ khác, khi em đã tố cáo gian cho ai mà vì đó họ bị mất danh dự, mất việc làm, phải đuổi học chẳng hạn, em phải đến với những người có trách nhiệm để thanh minh, cải chính cho người bị oan.
b) Làm các việc sám hối khác (Ví dụ : bố thí, đọc kinh, dâng lễ, ăn chay...) và chấp nhận mọi đau khổ để kết hiệp với Chúa Ki-tô mà đền tội.
2. Hiệu quả của việc đền tội : đền bù và sửa chữa hậu quả của tội.
Khi nhờ Chúa Kitô và cùng với Chúa Kitô để làm việc đền tội như cha dạy, chúng ta đã tạ lỗi cùng Thiên Chúa. Việc đền tội còn giúp ta sửa chữa những hậu quả của tội, như giúp ta khiêm nhường phục vụ thay vì kiêu ngạo, giúp ta sống yêu thương thay vì hận thù. Đồng thời việc đền tội giúp ta nên giống Chúa Ki-tô là “của lễ đền tội” vì tội lỗi chúng ta (x. 1 Ga 2,1-2).
Tóm lại, việc đền tội sinh ra những hiệu quả nào ?
* Tạ lỗi cùng Thiên Chúa.
* Đền bù, sửa chữa những hậu quả của tội.
* Làm cho ta nên giống Chúa là “của lễ đền tội”.
3. Cách làm việc đền tội (Mt 5,26).
Các em phải lắng tai nghe cha giải tội ra việc đền tội, nhớ lấy, rồi ra khỏi tòa giải tội thì làm càng sớm càng tốt. Nhớ chân thành và sốt sắng kết hợp với Chúa Ki-tô khi làm việc đó.
Sau đó, các em còn phải đền bù những thiệt hại, mất mát, nếu có, mà các em đã gây ra cho người khác.
- Chị hỏi nếu cả năm em mới xưng tội, em có nhớ hết được các tội trọng đã phạm không ?
+... (không).
- Còn các điều thiếu sót, các em có xưng không ?
+... (không).
- Các tội nhẹ, nhiều vô kể, các em có xưng hết không ?
+... (không).
- Những tội ấy cũng xúc phạm đến Chúa, cũng gây thiệt hại cho mình và cho kẻ khác. Vậy mà các em đã đền những tội ấy chưa ?
+... (chưa).
Các em hãy nhớ lời Chúa Giêsu đã nói : “Anh sẽ không ra khỏi đó (ngục) trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26). Nếu bây giờ em không đền tội, thì sau khi chết, em sẽ phải đền tội trong luyện ngục. Vì thế chúng ta hãy làm nhiều việc để đền hết mọi tội cho mình và cho người khác, như tham dự thánh lễ, lần hạt, làm việc hy sinh bác ái...
Tóm lại, sau khi xưng tội, em phải làm những việc linh mục dạy để đền tội. Ngoài ra, em còn phải làm những việc lành khác để đền tội cho mình và mọi người.
Cụ thể, ra khỏi tòa giải tội, em làm 5 việc sau :
a) Cám ơn Chúa đã tha tội.
b) Nhớ lại lời cha giải tội khuyên bảo trong tòa hoặc trong giờ dọn mình.
c) Nhắc lại điều quyết tâm. (Quyết tâm chung ngày xưng tội - Rước lễ lần đầu hay quyết tâm cho năm đó hoặc quyết tâm cho lần đó).
d) Làm việc đền tội (nếu là đọc kinh).
e) Xin ơn bền đỗ : Xin Chúa và Đức Mẹ cùng các thánh giúp cho em sống sạch tội, đừng tái phạm.
D. Cầu nguyện :
(GLV gợi ý :)
Đã bao nhiêu lần khi cầu nguyện chúng ta đã không nghiêm trang, đã chia trí, ngủ gật.. Bây giờ em làm một việc hy sinh để đền tội là đứng thật nghiêm trang và sốt sắng cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu / Chúa đã sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng con / khi chúng con chạy đến với Chúa./ Nguyện xin Chúa giúp chúng con / luôn biết tạ lỗi cùng Thiên Chúa / bằng những việc đền tội / và mau mắn đền bù / những thiệt hại đã gây ra cho người khác,/ cùng làm việc lành phúc đức / để xứng đáng với những ân huệ Chúa ban.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi nhưng còn vì tội lỗi của thế gian nữa” (1 Ga 2,2).
128.H.Đền tội là gì ? (GLCG.248)
T. Đền tội là làm việc mà cha giải tội chỉ định để tạ lỗi cùng Thiên Chúa, và đền bù, sửa lại những thiệt hại do tội lỗi gây ra.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Tập hát - băng reo.
2. Thực hành :
Mỗi ngày làm một việc lành để đền tội.
3. Bài làm ở nhà :
Trong tuần, em đã làm được những việc lành nào để đền tội, em ghi vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
- Nhắn nhủ.
- Đọc kinh Sáng danh.
- Chào nhau.
Lời Chúa : “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51).
Ý chính : 1. Bí tích Thánh Thể là gì ? Chúa lập khi nào ? (Ga 6,53-57)
2. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.
3. Quyền cử hành Bí tích Thánh Thể (Lc 22,19 ; 1 Cr 11,23-25).
4. Tôn thờ Thánh Thể (Mt 28,20).
Tâm tình : Cảm tạ Chúa Giêsu và ước ao được rước Chúa.
Chuẩn bị : Ảnh tiệc ly tranh 33 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Nhắc về tư cách, ăn mặc, đi đứng.
2. Thánh hóa :
Tin Chúa đang hiện diện và đang âu yếm nhìn em, lắng nghe em cầu nguyện : “Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang mong mỏi đến ngày được dự Bàn Tiệc Thánh. Chúng con ao ước được rước Chúa vào lòng. Xin giúp chúng con hiểu và tin Bí tích Thánh Thể”.
3. Giới thiệu bài mới :
Bí tích Thánh Thể là đề tài của tiết giáo lý hôm nay. Mời các em chăm chú theo dõi.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Trời còn sớm tinh sương, bỗng cảnh tĩnh mịch của tu viện Chiovia bị phá vỡ bởi nhiều tiếng la thất thanh : “giặc tới, giặc tới”. Giặc đó là quân mọi rợ, thù ghét đạo, dữ tợn vô cùng. Trai gái, già trẻ trong làng đều la lên chạy trốn. Các tu sĩ cũng chạy. Bề trên dòng là Giaxintô, trước khi chạy, tạt qua nhà nguyện. Bỗng nghe một tiếng rõ gọi tên ngài : Giaxintô.
Giaxintô giật mình nhìn tứ phía, nhưng đâu đó vắng tanh. Tưởng nghe lầm, Ngài vội chạy mau, thì tiếng đó lập lại lần nữa : “Giaxintô”. Ngài nhìn lên, tiếng đó phát ra từ nhà chầu : “Giaxintô, con chạy trốn để Cha ở đây một mình sao ? Ngày mai, ngày mốt, các con lấy gì mà ăn nếu không có của ăn này ? Con làm thế nào để chống lại quân mọi rợ và với nguy hiểm đường xa, nếu không có Cha ?
Giaxintô liền mở cửa Nhà Tạm, lấy bình Mình Thánh ôm vào ngực mang chạy trốn theo mình.
- Chị đố các em, ai ở Nhà Tạm nói với Giaxintô ?
+...
Đó chính là Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa ngự trong Bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn. Đây, chính Chúa sẽ nói cho chúng ta tin điều ấy : (mời đứng).
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 6,53-57)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Đức Giê-su nói với họ : “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Bí tích Thánh Thể là gì ?
(Ga 6,53-57).
a) Chúa Giê-su lập Bí tích Thánh Thể
(Lc 22,19-20).
Sau khi làm phép lạ hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi hơn 5000 người ăn no nê còn dư 12 thúng, dân chúng lũ lượt đi theo Chúa Giê-su. Chúa đã nói với họ về bánh linh hồn là Mình và Máu Người : “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,14). Rồi trong bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su đã cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói : “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
- Em nào thử kể lại : đang khi ăn Chúa làm gì, nói gì ?
+... (GLV kkhuyến khích các em phát biểu. GLV ghi nhận lên bảng, nếu có, những việc chính yếu : Chúa Giê-su cầm lấy bánh - dâng lời tạ ơn - bẻ ra - trao cho các môn đệ và nói : “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”).
- Chúa Giê-su cầm gì trong tay ?
+... (bánh).
- Nhưng Người lại nói là gì ?
+... (Mình Thầy hiến tế vì anh em).
- Bánh trên tay Chúa Giê-su có còn là bánh thường nữa không ?
+... (không).
- Nhưng bây giờ đã là gì ?
+... (Thịt Chúa Giê-su).
- Rượu trong chén có còn là rượu thường nữa không ?
+... (không).
- Bây giờ đã là gì ?
+... (Máu Chúa Giê-su).
- Chúa đã biến bánh thành Thịt Chúa, rượu thành Máu Chúa. Chúng ta có biến bánh thành thịt và rượu thành máu được không ?
+... (không).
- Chúa Giê-su có làm được không ?
+... (được).
- Tại sao ?
+... (Chúa Giê-su là Thiên Chúa quyền năng. Người muốn làm gì đều được cả).
- Như vậy, ai đã lập Bí tích Thánh Thể?
+... (Chúa Giê-su).
- Chúa Giê-su lập Bí tích Thánh Thể khi nào ?
+... (trong bữa Tiệc ly).
b) Chúa lập Bí tích Thánh Thể để làm gì ? (Ga 6,54)
Người cầm lấy bánh và nói “này là Mình Thầy”. Người nói tiếp “Các con hãy cầm lấy mà ăn”. Người cũng cầm lấy chén rượu và nói : “Này là Máu Thầy”. Người nói tiếp “các con hãy cầm lấy mà uống”.
- Vậy đố các em : Chúa lập Bí tích Thánh Thể để làm gì ?
+...
Để ban Mình và Máu làm của ăn của uống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta để chúng ta được sống đời đời như Chúa đã nói : “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54).
- Các em nhớ lại lời Chúa Giê-su : sau khi Chúa nói hãy cầm lấy mà uống này là Máu Ta. Chúa còn nói tiếp gì nữa ?
+...
- Máu giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Chúa nói đến Máu Chúa trên bàn tiệc ly. Chúa còn nói đến Máu Chúa sẽ đổ ra ở đâu để cứu chuộc chúng ta ?
+...
Ở trên thánh giá. Vâng, trên thánh giá, Chúa đã đổ máu mình ra để hiến dâng hy lễ cứu chuộc loài người. Máu Chúa ở trên bàn tiệc ly cũng chính là máu Chúa trên thánh giá.
Vậy ngày nay khicử hành Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su tiếp tục lễ hy sinh trên thánh giá và ban Mình Máu Chúa làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn ta.
2. Chúa Giê-su hiện diện trong Bí tích Thánh Thể (Lc 22,19-20).
- Chị hỏi các em nhé, trong câu chuyện kể lúc đầu giờ thì ai đã nói với Gia-xin-tô rằng : “Con chạy trốn để Cha ở đây một mình sao ?” Ai nói đó ?
+... (Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể (nhà tạm).
- Lúc đầu Giaxintô có nghĩ là Chúa gọi không ?
+...
Không, lúc đầu Giaxintô không nghĩ là Chúa vì chưa lần nào Giaxintô thấy như vậy. Nhưng lại là Chúa Giê-su mới lạ chứ.
Các em ạ ! Chúng ta không thấy Chúa Giê-su, nhưng Chúa Giê-su ở đó một cách nhiệm mầu. Nếu cần Chúa Giê-su sẽ tỏ hiện cho chúng ta thấy.
Thánh Thể chính là Chúa Giê-su một cách thực sự với đủ quyền năng của Thiên Chúa, có đầy đủ thân xác và linh hồn con người Chúa Giê-su. Ngày nay, trong thánh lễ khi linh mục truyền phép thì nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và rượu sẽ trở nên Mình và Máu Chúa Giê-su. Các em nhớ nhé : Chúa Giê-su rất quyền năng nên Người muốn là được. Em hãy giục lòng tin Chúa Giê-su đang hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.
3. Quyền cử hành Bí tích Thánh Thể. (Lc 22,19 ; 1 Cr 11,23-25).
(GLV treo tranh 33 ĐBTT cũ mời các em nhìn lên và hỏi :)
- Ai ở giữa ?
+... (Chúa Giê-su).
- Những ai chung quanh ?
+... (các tông đồ).
- Vậy khi Chúa truyền : các con hãy làm việc này, hãy cử hành Bí tích Thánh Thể để nhớ đến Ta, là Chúa truyền cho ai ?
+... (cho các tông đồ).
Vâng, chỉ có các tông đồ mới có quyền cử hành Bí tích Thánh Thể. Ngày nay, chỉ có những người kế tiếp các tông đồ trong chức linh mục mới được cử hành Bí tích Thánh Thể.
- Cụ thể, ngày nay những ai cử hành thánh lễ ?
+... (Linh mục, Giám mục : những người có chức linh mục do các tông đồ truyền lại).
4. Tôn thờ Thánh Thể.
a) Viếng Chúa Thánh Thể :
Các em đã biết, Thánh Thể là chính Chúa Giê-su. Sau thánh lễ, mọi người ra về, một mình Chúa Giê-su ở trong nhà Tạm. Người ở đó để sẵn sàng trao ban của ăn đàng cho các bệnh nhân. Hội thánh mời gọi các tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể vì Chúa Giê-su muốn ở với Hội thánh trong Bí tích Thánh Thể như Chúa đã hứa : “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- Vì thế mỗi khi đi qua nhà htờ, em hãy ghé vào thăm Chúa. Các em sẽ nói gì với Chúa nào ?
+...
Các em chưa biết thì chị gợi ý nhé. Chị nói trước rồi các em nói sau : “Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,/ con tin Chúa đang ở trong Bí tích Thánh Thể,/ con yêu mến Chúa,/ con thờ lạy Chúa”./ (có thể lặp lại vài lần).
Rồi sau đó các em nói chuyện với Chúa : các em kể cho Chúa nghe chuyện của mình : niềm vui nỗi buồn, chuyện học hành. Các em có thể cầu xin cho cha mẹ, anh chị em... Nếu có nhiều giờ, em mở sách Kinh thánh ra đọc chậm rãi như Chúa nói với em, rồi em lại thưa chuyện với Chúa về những gì Lời Chúa vừa gợi ý cho em.
b) Nghiêm trang trước Thánh Thể.
- Nhà thờ có ai, các em ?
+... (có Chúa).
- Nhất là khi các em vào nhà thờ thấy có ngọn đèn sáng trước nhà Tạm là dấu hiệu cho biết có Mình Thánh Chúa. Do đó, các em có thái độ nào khi bước vào nhà thờ ?
+... (trang nghiêm).
- Trang nghiêm thế nào ?
+...
Vì tin có Chúa hiện diện thực sự trong nhà thờ có Mình Thánh nên em biểu lộ niềm tin đó bằng thái độ đứng đắn : bắt đầu vào đến cửa nhà thờ là không nói chuyện, đi lại đàng hoàng, khoanh tay, đến trước ghế muốn vào thì cúi đầu sâu chào Chúa, trong lòng thầm nói : “Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa”. Vào ghế, em đứng hay quì làm dấu thánh giá, cầu nguyện tự phát hay đọc kinh, đọc Lời Chúa. Nếu là giờ cử hành phụng vụ hay đọc kinh chung, em sốt sắng thưa kinh, hát xướng, hợp lòng trí với chủ sự và cộng đoàn để thờ lạy Chúa...
(GLV nên cố gắng tranh thủ lúc thuận tiện để tập cho các em ra vào nhà thờ, thái độ trong nhà thờ và theo dõi góp ý với các em về các buổi cử hành phụng vụ và kinh chung).
c) Tham dự thánh lễ và rước lễ.
Trong bài sau các em sẽ học về thánh lễ. Các em sẽ thấy thánh lễ vừa là việc cử hành Bí tích Thánh Thể vừa là việc tôn thờ Thánh Thể quan trọng nhất. Nên ai yêu mến Chúa Giê-su người ấy sẽ siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ.
Các em thân mến. Vì yêu thương chúng ta mà Chúa Giê-su đã chết trên thập giá để cứu chúng ta. Chúa còn ban Mình và Máu Chúa làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Các em sắp sửa được Chúa tha thứ mọi tội qua Bí tích Hòa giải và Chúa đến ở trong lòng mình khi rước lễ. Các em hãy sống thật ngoan để xứng đáng đón nhận Chúa và em hãy ao ước, khao khát, mời Chúa đến ngự trong lòng em. Giờ đây, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện với Chúa Giê-su.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con cám ơn Chúa đã ban chính Mình Máu Chúa để nuôi sống chúng con. Xin cho chúng con biết đáp lại tình yêu Chúa bằng việc chăm học giáo lý hầu biết cách giữ tâm hồn trong sạch mà dọn mình rước Mình Máu Thánh Chúa.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51).
129.H.Bí tích Thánh Thể là gì ? (GLCG.221)
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập để tiếp tục lễ hy sinh trên thánh giá và để ban Mình Máu Người dưới hình bánh rượu làm của nuôi linh hồn ta.
130.H. Chúa Giê-su đã lập Bí tích Thánh Thể khi nào ? (GLCG.222)
T. Chúa Giê-su đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc sau hết, trước khi Người đi chịu chết.
131.H. Chúa Giê-su đã lập Bí tích Thánh Thể thế nào ? (GLCG.223)
T. Chúa Giê-su “cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói : “Tất cả các con cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con” ; rồi Người cầm lấy chén rượu cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói : “Tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Kinh nguyện Thánh Thể II).
132.H.Trong Thánh Lễ, khi nào bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giê-su ? (GLCG.224)
T. Khi linh mục đọc lời truyền phép thì nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giê-su.
133.H. Chúa Giê-su hiện diện trong Bí tích Thánh Thể thế nào ? (GLCG.225)
T. Chúa Giê-su hiện diện dưới hình bánh rượu cách thực sự và toàn vẹn cùng với linh hồn và thần tính của Người (x.Dz. 1651).
134.H.Chúa Giê-su ban quyền cho ai được cử hành Bí tích Thánh Thể ? (GLCG.227)
T. Chúa Giê-su ban quyền cho các tông đồ và những người kế tiếp các ngài trong chức linh mục khi nói rằng : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Kinh nguyện Thánh Thể).
135.H.Ta phải thờ kính Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể thế nào ? (GLCG.228)
T. Ta phải siêng năng kính viếng thờ lạy Thánh Thể, giữ nghiêm trang đứng đắn trong nhà thờ, nhất là tham dự thánh lễ và rước lễ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Hát, băng reo, chuyện kể giúp sống Lời Chúa.
2. Thực hành :
Em quyết tâm sống trong sạch, để xứng đáng rước Mình Thánh Chúa.
3. Bài làm ở nhà :
Em viết và đóng khung câu Lời Chúa của bài hôm nay vào tập bài làm.
V. KẾT THÚC.
Nhắc lại những việc làm tôn thờ Thánh Thể và nhắc điểm thực hành.
Sau đó đứng lên cầu nguyện kết thúc. Gợi ý cho các em : Chúa Giê-su sắp đến ở trong lòng mình và mỗi em âm thầm mời Chúa đến ngự trong lòng mình.
Sáng danh...
(chào nhau).
Lời Chúa : “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19)
Ý chính : 1. Thánh lễ là gì ? (1 Cr 11,23-26).
2. Ý nghĩa việc cử hành Thánh lễ.(Ga 6,52-58).
3. Các phần của Thánh lễ (Cv 2,42).
Tâm tình : Sốt sắng tham dự Thánh lễ.
Chuẩn bị : Tranh 34 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Nhắc nhở các em đến tư cách, tác phong của người con Chúa.
2. Thánh hóa :
Bất cứ lúc nào trong ngày cũng có biết bao Thánh lễ đang cử hành trên toàn thế giới. Giờ này đây trong một phút thinh lặng, chúng ta cùng hướng về các Thánh lễ ấy. Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết về Thánh lễ nhiều hơn.
3. Giới thiệu bài mới :
Thiên Chúa là Cha yêu thương không chỉ sẵn sàng tha thứ khi chúng ta lỗi lầm mà Người còn làm cho chúng ta biết biến đổi cuộc đời trở thành một lễ dâng cùng với Chúa Ki-tô. Hôm nay, chúng ta sẽ học về Thánh lễ.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Một bà lão kia có đứa con trai duy nhất, bị bọn côn đồ đâm chết. Sau đó tên tội phạm đã bị bắt và bị đem ra trước tòa án để xét xử.Vị quan tòa hỏi bà lão rằng : “Bà muốn được đền bù bao nhiêu tiền cho đứa con thân yêu của bà. Năm triệu hay mười triệu ?” Bà lão run run đứng lên, trả lời với hai hàng nước mắt : “Tôi rất đau lòng vì con tôi đã chết. Nhưng tôi không đòi đồng xu nào cả. Tôi chỉ xin rằng hằng năm, tới ngày giỗ con tôi, thì xin anh ấy (tên tội phạm) nhớ xin một Thánh lễ để cầu nguyện cho linh hồn của người mà anh ấy giết là Augustinô. Như thế là tôi cảm thấy hạnh phúc rồi”
Các em thấy không, cho dù có năm triệu hay mười triệu cũng không thể làm nguôi ngoai nỗi đau lòng của người mẹ trước đứa con bị giết chết. Chính Thánh lễ giỗ hàng năm lại làm cho bà hạnh phúc.
Vậy Thánh lễ là gì mà có sức mạnh làm cho người đau khổ trở nên can đảm và hạnh phúc như vậy, chị mời các em đứng lên lắng nghe Lời Chúa :
B. Công bố Lời Chúa : (1 Cr 11,23-26)
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
“Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em : trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em ; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói : “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới ; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”.
Đó là Lời Chúa.
+ Tạ ơn Chúa.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Thánh lễ là gì ? (1 Cr 11,23-26).
(GLV treo tranh 34 ĐBTT cũ và diễn giảng :)
- Thánh Phao-lô thuật lại việc Chúa Giê-su thiết lập Bí tích Thánh Thể. Các em có biết Chúa truyền lệnh gì cho các tông đồ ?
+... (“anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”).
- “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Việc này là việc nào ?
+...
Là việc Chúa Giê-su vừa làm, là việc làm cho bánh và rượu biến thành Mình Máu Chúa.
Việc đó như các em đã học trong bài trước, là việc Chúa tự hiến làm của ăn của uống nuôi dưỡng mọi người. Đó cũng là việc Chúa hiến tế trên thánh giá (máu giao ước sẽ đổ ra - Xem bài Bí tích Thánh Thể) Chúa đã chết và sống lại.
- Vậy nhớ đến Chúa là nhớ đến gì ?
+...
Nhớ đến lễ hiến tế của Chúa Giê-su, nhớ đến việc Chúa chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.
Vâng, Thánh lễ là việc tưởng niệm, là lễ vượt qua của Chúa Giê-su : vượt qua sự chết để đạt tới sự sống lại.
- Sau khi chủ tế truyền phép, em có tin là có Chúa Giê-su Thánh Thể trên bàn thờ không ?
+... (có).
Nghĩa là ngày nay, trên bàn thờ lại diễn ra lần nữa một cách thực sự việc Chúa Giê-su dâng mình cứu chuộc chúng ta. Trong Thánh lễ, Chúa Giê-su nhờ bàn tay linh mục, hiến dâng lên Chúa Cha lễ vật cứu độ là Mình Máu Người. Chúng ta gọi là hiện tại hóa lễ hy sinh độc nhất của Chúa Giê-su (hiện tại hóa là làm cho cái đã xảy ra xưa được xảy ra hôm nay).
Chị hỏi lại nhé :
- Chúa Giê-su dạy cử hành Bí tích Thánh Thể để làm gì ?
+... (để nhớ đến Chúa, để tưởng niệm lễ Vượt qua của Chúa. Người vượt qua sự chết để đạt tới sự sống lại).
- Trong Thánh lễ chỉ kính nhớ, tưởng niệm Chúa thôi sao ?
+... (không).
- Đó còn là việc gì nữa ?
+... (việc diễn ra lần nữa một cách thực sự chết và sống lại của Chúa Giê-su Ki-tô, gọi là hiện tại hóa lễ hy sinh cứu chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô).
2. Ý nghĩa việc cử hành Thánh lễ
(Ga 6,52-58).
- Chúa Giê-su đã chịu chết và sống lại. Đây là lễ tế cứu chuộc toàn thể nhân loại, không cần một lễ tế nào khác. Vậy các em có biết tại sao ngày nay Hội thánh dâng Thánh lễ không ?
+...
a) Tạ ơn và ca ngợi Chúa.
- Chị hỏi em nhé : ở nhà bố mẹ cho em cái gì, thì em làm sao ?
+... (em cám ơn).
A ! đu#ng rồi. Cũng vậy, Thiên Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người có trí thông minh. Chúa cho chúng ta được làm con Chúa. Hằng ngày Chúa ban cho chúng ta biết bao ơn lành hồn xác. Nên chúng ta phải cám ơn Chúa hằng ngày. Vì thế, Hội thánh ngày nào cũng dâng Thánh lễ để cảm tạ và ngợi khen Chúa.
b) Tưởng niệm hy tế của Chúa Giê-su và của Hội thánh.
- Chúa Giê-su dạy : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” nghĩa là nhớ đến Chúa Giê-su đã làm gì nào ?
+... (nhớ đến Chúa Giê-su đã dâng mình trên thánh giá).
Ngày xưa Chúa Giê-su đã dâng mình trên thánh giá để đền tội cho chúng ta. Ngày nay, sau khi truyền phép, Chúa Giê-su cũng ở trên bàn thờ để nhờ tay linh mục hiến dâng cho Chúa Cha của lễ đền tội.
- Hội thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Vậy hy tế của Chúa Giê-su có là hy tế của Hội thánh không ?
+... (có).
Lễ dâng của Chúa Giê-su cũng là lễ dâng của Hội thánh.
c) Đền bù tội lỗi và xin ơn :
- Các em có tội không ?
+... (có).
- Chị có tội không ?
+... (có).
- Hết thảy, ai cũng có tội với Thiên Chúa, chỉ trừ Chúa Giê-su. Vậy ai có thể đền tội cho chúng ta ?
+... (chỉ có Chúa Giê-su).
Chính vì thế trong Thánh lễ, Máu Chúa Giê-su lại đổ ra một lần nữa cách mầu nhiệm để đền tội cho hết mọi người (Mt 26,28) : người còn sống cũng như những người đã chết. Vì thế bà mẹ trong câu chuyện đầu giờ đã yêu cầu tên tội phạm hàng năm xin lễ đền tội cho con bà để con bà sớm về thiên đàng.
- Hơn nữa, trong Thánh lễ, Hội thánh còn cầu xin nhiều ơn lắm. Các em đã dự lễ nhiều lần rồi, các em cho biết Hội thánh xin ơn cho những ai ?
+... (cho Đức Thánh Cha, cho các Đức Giám Mục, cho ông bà tổ tiên,...).
Cho hết mọi người, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác.
d) Các tín hữu được kết hiệp với nhau trong Chúa Kitô (1 Cr 10,16-17).
- Trong Thánh lễ, các em thấy các người lớn đi lên gần bàn thờ. Họ đi đâu vậy ?
+... (đi rước lễ).
- Rước lễ là rước gì ?
+... (rước Chúa Giê-su).
Các em sẽ học trong bài sau : khi rước lễ, chúng ta được hiệp nhất với Chúa Kitô. Do đó được hiệp nhất với nhau và được kết hợp với phụng vụ trên trời.
Tóm lại : Hội thánh cử hành Thánh lễ với 4 mục đích : (Các em lặp lại theo chị nhé).
* Một là để cảm tạ, ngợi khen Chúa.
* Hai là để tưởng niệm hy tế của Chúa Giê-su và của Hội thánh.
* Ba là để đền tội và xin ơn.
* Bốn là để hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô và kết hợp với phụng vụ trên trời.
Sắp tới đây các em được rước lễ lần đầu, được kết hiêp nên một với Chúa Giê-su, em được cùng với Chúa Giê-su để cảm tạ, ngợi khen Chúa, em được cùng với Chúa Giê-su dâng mình để đền tội và kéo ơn Chúa xuống cho mọi người, em được hiệp nhất với hết mọi người trên toàn thế giới. Vậy em hãy nhớ : khi tham dự Thánh lễ, điều quan trọng nhất là hiệp lòng hiệp ý với Chúa Giê-su và với mọi người mà dâng chính mình làm của lễ tiến dâng lên Thiên Chúa là Cha yêu thương nhé.
3. Các phần của Thánh lễ (Cv 2,42).
- Những em nào đã dự Thánh lễ ?
+... (GLV cho các em giơ tay và khích lệ các em siêng năng tham dự Thánh lễ và diễn giảng tiếp :)
- Khi dự Thánh lễ, các em thấy lúc đầu lễ, cha chủ tế và giúp lễ đứng ở chỗ nào ?
+... (ở dưới, gần giáo dân, ngoài bàn thờ).
- Từ đầu lễ đến hết lời nguyện chung, cha chủ tế đứng ngồi ở ngoài bàn thờ : phần này gọi là phụng vụ Lời Chúa. Các em lặp lại : Thánh lễ gồm 2 phần chính : phần thứ nhất là phụng vụ Lời Chúa.
+... (GLV đọc trước để các em lặp lại câu trên).
- Sau lời nguyện chung, cha chủ tế cử hành ở đâu ?
+... (ở bàn thờ).
Phần này gọi là phụng vụ Thánh Thể.
Các em lặp lại : Thánh lễ gồm 2 phần chính :
* Phần thứ nhất là phụng vụ Lời Chúa.
* Phần thứ hai là phụng vụ Thánh Thể.
+... (GLV giúp các em lặp lại câu trên).
- Trong phần phụng vụ Thánh Thể có 2 nghi thức quan trọng nhất là :
* Nghi thức truyền phép làm cho bánh, rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa.
* Nghi thức rước lễ : mọi người được mời gọi lên đón nhận lấy Mình và máu Chúa Ki-tô. Khi các em xưng tội lần đầu rồi, các em sẽ được rước lễ.
Trong mỗi phần có những kinh nguyện riêng, cử hành riêng mà các em sẽ học ở cấp III.
Vậy các em hãy dọn lòng thánh sạch và khao khát, ước ao Chúa ngự đến lòng em.
Mời các em đứng lên để cầu nguyện.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con đã biết Thánh lễ là nguồn ơn vô giá, vì chính là hy lễ của Chúa dâng lên Chúa Cha để đền tội và ban mọi ơn lành cho chúng con. Xin giúp chúng con biết siêng năng, sốt sắng tham dự Thánh lễ.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông và nói : “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”(Lc 22,19).
136.H. Thánh lễ là gì ? (GLCG.229)
T. Thánh lễ là cuộc tưởng niệm lễ Vượt Qua của Chúa Ki-tô, là hiện tại hóa và tiến dâng lễ hy sinh độc nhất của Người lên Chúa Cha trong phụng vụ của Hội thánh.
137.H.Hội thánh dâng thánh lễ vì những ý nào? (GLCG.230)
T. Hội thánh dâng thánh lễ vì những ý này :
- Một là để cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha vì các ơn huệ Người ban cho loài người.
- Hai là để tưởng niệm Hy tế của Chúa Ki-tô và Thân thể Người là Hội thánh.
- Ba là để đền bù tội lỗi của người sống, người chết, đồng thời xin Thiên Chúa ban cho ta những ơn lành hồn xác.
- Bốn là để các tín hữu được hiệp nhất với nhau trong Chúa Ki-tô và được kết hợp với phụng vụ trên trời.
138.H. Thánh lễ có mấy phần ? (GLCG.231)
T. Thánh lễ có hai phần chính :
- Một là phụng vụ Lời Chúa.
- Hai là phụng vụ Thánh Thể.
139.H.Phụng vụ Lời Chúa gồm những gì ? (GLCG.232)
T. Phụng vụ Lời Chúa gồm những lời cầu nguyện, ngợi khen, ta dâng lên Thiên Chúa và những lời Chúa dạy ta trong Kinh Thánh và bài diễn giảng. Phần này khởi sự từ lời nguyện nhập lễ cho đến hết lời nguyện chung.
140.H.Phụng vụ Thánh Thể gồm những gì? (GLCG.233)
T. Phụng vụ Thánh Thể gồm việc chuẩn bị lễ vật, kinh Tạ ơn và việc rước lễ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Hát, băng reo...
2. Thực hành :
Em sốt sắng tham dự Thánh lễ.
3. Bài làm ở nhà :
Em đóng khung thật đẹp câu Lời Chúa : “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
V. KẾT THÚC.
Các em vừa học hỏi về Thánh lễ. Các em thấy Thánh lễ vô cùng quý giá. Chính Chúa Giê-su ngày ngày tế lễ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta thấy Chúa rất thương yêu chúng ta : Người ban Lời để dạy bảo ta, Người ban Mình Máu để nuôi dưỡng ta, cho ta được hiệp nhất với Người.
Trong thinh lặng, mỗi em hãy nói với Chúa một lời cám ơn. Chúng ta cùng xin lỗi Chúa về những lần chúng ta không sốt sắng dâng lễ.
- Im lặng giây lát.
- Đọc kinh Sáng Danh - hoặc hát : đến muôn đời...
- Chào nhau.
RƯỚC LỄ
Lời Chúa : “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54)
Ý chính : 1. Ơn ích của việc rước lễ (1 Cr 10,16-17 ; Ga 6,56-57).
2. Điều kiện để rước lễ (1 Cr 11,27-29).
3. Siêng năng rước lễ (Xh 16,1-18 ; Ga 6,1-58 ; Mt 22,2-7).
Tâm tình : Ước ao, khao khát rước lễ.
Chuẩn bị : Tranh 35 ĐBTT cũ.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Nhắc nhở và thái độ nghiêm túc khi bắt đầu giờ giáo lý.
2. Thánh hóa :
Chúng ta đang dọn lòng để rước lễ lần đầu. Hôm nay, học bài này để chúng ta biết cách dọn mình rước lễ cho xứng đáng. Vậy chúng ta sốt sắng cầu nguyện : “Lạy Chúa Giê-su, chúng con tin Chúa đang hiện diện nơi Bí tích Thánh Thể và mời gọi con đón rước Chúa. Xin cho chúng con biết phải dọn mình thế nào để xứng đáng rước Chúa.
3. Giới thiệu bài mới :
Chúa mời gọi chúng ta đón nhận Mình và Máu Người để được sống đời đời. Hôm nay chúng ta sẽ học bài Rước lễ để biết cách dọn mình xứng đáng rước Mình Máu Chúa.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Đức hồng y Newman là một chức sắc cao cấp và nổi tiếng của Giáo hội Anh, mỗi năm hưởng một khoản trợ cấp của nhà nước là 100.000 bảng Anh. Ngài đã nghiên cứu lâu năm đạo công giáo và cuối cùng xin qua đạo Công giáo.
Vài ngày trước khi Ngài trở lại, người bạn thân nói với Ngài : “Ngài hãy nghĩ lại việc Ngài làm. Nếu Ngài trở thành người Công giáo, Ngài sẽ mất 100.000 bảng Anh mỗi năm”. Newman bình tĩnh trả lời : “100.000 bảng Anh là gì so với chỉ một lần rước lễ !?”.
Các em thân mến, việc rước lễ có giá trị hết sức cao cả, mà cả cuộc đời chúng ta dần dần mới cảm nhận được. Chính Chúa Giê-su đã bảo chứng cho chúng ta điều ấy. Bây giờ chị mời các em đứng lên để lắng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Ga 6,53-56)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
“Đức Giê-su nói với họ : “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Ơn ích của việc rước lễ.
(1 Cr 10,16-17 ; Ga 6,56-57)
- Khi rước lễ là rước gì ?
+... (rước Chúa Giê-su).
Đúng rồi. Như Thánh Phao-lô dạy : “Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11,26). Khi rước lễ là đón nhận Chúa Giê-su, được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô và Hội thánh, được tẩy xoá các tội nhẹ, được lớn lên trong Ân sủng. Chính vì cảm nhận được những ích lợi to lớn này mà Đức Hồng y Newman đã nói : “Được 100.000 bảng Anh có là gì so với việc được rước Chúa Giê-su, dù chỉ một lần !”.
- Hơn nữa, Chúa Giê-su đã nói với đám đông Do Thái : Ai ăn thịt và uống máu Chúa thì được điều gì ?
+... (được sống muôn đời).
- Được điều gì nữa ?
+... (Sống lại ngày sau hết).
- Các em có muốn được sống hạnh phúc muôn đời và được sống lại trong ngày sau hết không ?
+ … (muốn)
Muốn thì ngay bây giờ phải chăm chỉ học giáo lý, cố gắng sửa đổi đời sống và thực hiện những điều kiện cần thiết để được rước lễ.
2. Điều kiện để rước lễ
(x. 1 Cr 11,27-29).
- Các em đã đi lễ nhiều lần rồi. Các em thấy khi cha chủ tế giơ cao Mình Thánh và đọc : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian …”, thì mọi người đáp lại lời nào ?
+... (Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn sẽ lành mạnh).
Chẳng ai dám tự cho mình là xứng đáng rước Chúa vào lòng. Ai cũng khiêm nhường nhìn nhận mình bất xứng. Thánh Phao-lô đã dạy :“Bất cứ ai ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa … Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình” (1 Cr 11,27.29). Vì thế, chúng ta phải dọn mình chu đáo hơn để bớt bất xứng.
- Ta phải có những điều kiện nào mới được rước lễ ?
+...
- Trước hết, một người có tội trọng có được phép rước Chúa không ?
+... (không).
- Vậy khi rước lễ chúng ta phải làm sao ?
+... (sạch tội trọng).
- A, đúng rồi. Khi rước lễ phải sạch tội trọng. Đó là điều kiện thứ nhất. Các em lặp lại : muốn rước lễ, phải sạch tội trọng.
+ …
- Nêu có tội trọng thì phải làm gì ?
+... (phải xưng tội).
- Còn nếu chỉ có tội nhẹ có được dọn mình rước lễ không ?
+... (được).
- Nếu chỉ có tội nhẹ thì ăn năn tội xin Chúa tha thứ rồi dọn mình lên rước lễ. Các em lặp lại điều kiện thứ nhất?
+... (Muốn rước lễ phải sạch tội trọng).
- Thứ đến, khi lên rước lễ, em có suy nghĩ rước lễ để ba mẹ thích, để được tiếng là đạo đức... có phải không ?
+... (không). (GLV nêu lên những ý nghĩ bất chính khi lên rước lễ để giúp các em thanh luyện tâm trí).
- Em có ý nghĩ : rước lễ để được đón nhận Mình Máu Chúa làm của nuôi linh hồn, có được không ?
+... (được). (GLV nêu lên những ý nghĩ tốt, thánh thiện để các em thực hiện).
- Như vậy điều kiện thứ hai để rước lễ là gì ?
+...
- Là có ý ngay lành. Các em lặp lại.
+... (có ý ngay lành).
- Em nào ăn một tô cơm rồi lên rước lễ có được không ?
+... (không). (GLV đưa ra những thí dụ cụ thể về ăn uống làm cản trở rước lễ).
- Nhưng nếu em bị trúng gió, anh chị GLV cho uống một viên thuốc cảm cùng với một ly nước lã. Liền sau đó, em có được lên rước lễ không ?
+... (được).
- Vậy điều kiện thứ ba là gì ?
+...
- Điều kiện thứ ba là giữ chay theo luật dạy. (hiện nay luật buộc phải giữ chay 1 giờ trước khi rước lễ). Các em lặp lại điều kiện thứ ba.
+...
- Có đủ 3 điều kiện : sạch tội trọng, có ý ngay lành, giữ chay 1 giờ.
- Nhưng em đang nói chuyện, giật mình thấy hết người rước lễ, em chạy lên, có đuợc rước lễ không ?
+... (không). (GLV đưa ra những trường hợp cụ thể không được rước lễ vì thiếu dọn mình chu đáo).
- Trái lại, em hội đủ 3 điều kiện trên, rồi em sốt sắng tham dự Thánh lễ với tất cả lòng tin, cậy, mến, và ăn năn tội. Em lên rước lễ có được không ?
+... (được).
- Tóm lại, muốn rước lễ thì phải có những điều kiện nào ?
+... (GLV củng cố thành câu giáo lý 141 : Muốn rước lễ thì phải sạch tội trọng, có ý ngay lành, dọn mình chu đáo và giữ chay theo luật dạy).
3. Siêng năng rước lễ
(Xh 16,1-18; Ga 6,1-58; Mt 22,2-7).
- Các em còn nhớ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi dân Do thái xưa không ?
+ …
Chị lược kể cho các em nghe nhé : Khi thấy đám đông dân chúng kéo đến cùng Người, Chúa Giê-su nói với Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Và khi biết có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Chúa Giê-su đã cầm lấy bánh và cá dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho những người ngồi đó, nguyên số đàn ông đã tới khoảng 5000 người lận. Tất cả đều ăn no nê và còn dư 12 thúng đầy. Hôm sau, khi không còn thấy Chúa Giê-su ở đó, dân chúng đổ xô đi tìm Chúa. Khi gặp được Chúa, họ vui mừng vì hy vọng sẽ được Chúa cho ăn bánh và cá no nê nữa, nhưng, các em biết, Chúa nói với đám đông đó thế nào không ?
Mời các em đứng nghe Lời Chúa (Ga 6,26-27.35.54).
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
“Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông … Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giơ ! … Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, vì tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
- Qua phép lạ này, các em thấy rõ : con người có cần của ăn không ?
+ … (cần)
- Không ăn thì làm sao, các em ?
+ … (chết)
- Không ăn, có lớn được không ?
+ … (không)
- Thân xác đã vậy, còn linh hồn thì sao ? Có cần của ăn không ?
+ … (có)
- Của ăn của linh hồn là gì ?
+ … (Lời Chúa và Mình Chúa)
- Các em đã được “ăn” Lời Chúa trong tất cả các tiết Giáo lý, được “ăn” Lời Chúa trong những giờ kinh gia đình và nhất là được ăn Lời Chúa khi nào?
+ … (khi dự Thánh lễ).
- Còn Mình Máu Chúa, các em được ăn khi nào ?
+ … (khi rước lễ)
- Khi tham dự Thánh lễ, Chúa Giê-su mời gọi các em Rước lễ : Chúa bảo người Do thái xưa và chúng ta hôm nay : “Hãy ra công làm việc để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27) là thứ lương thực Người sẽ ban. Đó là lương thực nào các em ?
+ … (Mình Máu Chúa)
- Chúa có mời gọi ta đón nhận Mình máu Chúa không ?
+ … (có)
Chúa mời : “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào tôi hãy đến mà uống” (Ga 7,38). Trong dụ ngôn dọn tiệc, Chúa bảo các gia nhân mời khách : “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo, đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn, mời quí vị đến dự tiệc” (Mt 22,4). Chúa còn tha thiết mời và mời tất cả mọi người : “Tiệc đã sẵn sàng rồi, vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào” (Mt 22,8-9).
- Đấy, các em thấy, Chúa có thương chúng ta không ?
+ … (có)
Chúa đã dọn tiệc ngon rượu nồng là Mình Máu Người và tha thiết mời mọi người vào dự. Trong ý trên (tiết trên) các em đã thấy những ích lợi to lớn của việc Rước lễ. Khi rước lễ là các em được sống với Chúa, được Chúa ngự vào lòng, được trở nên bạn thân của Chúa, được Chúa tha tội nhẹ, lại được Chúa ban ơn nuôi dưỡng linh hồn, nhất là sẽ được sống đời đời.
- Vậy em nào đi lễ mà không rước lễ là khôn hay dại ?
+ … (dại).
Vâng, dại quá đi thôi. Các em đã nghe cha đọc “Phúc cho ai được đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Em đi lễ mà không rước lễ thì dại quá, mình không có phúc. Em đó vừa không được dự tiệc Nước Trời mà còn làm Chúa Giê-su buồn nữa : Người mời mà không dự (x. Mt 22,2-7). Vì thế, em hãy quyết tâm luôn giữ tâm hồn trong sạch để mỗi khi dâng lễ em được rước Chúa nhé !
- Các em nhất trí không ?
+ … (nhất trí, vỗ tay …)
- A, Hội thánh cho phép được rước lễ mỗi ngày tới hai lần. Vậy nếu em đi nhiều lễ một ngày, em được rước lễ mấy lần ?
+ … (2 lần)
- Nhớ nhé : mỗi ngày được rước lễ 2 lần. Sung sướng không, các em ?
+...
Giờ đây chúng ta cùng đứng lên nghiêm trang để cầu nguyện.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, bao ngày tháng con hằng mong ước được rước Chúa lần đầu tiên. Xin giúp chúng con trong những ngày này biết chuẩn bị tâm hồn nên trong sạch và thánh thiện xứng đáng được Chúa ngự vào lòng con.
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54).
141.H. Muốn rước lễ thì phải có những điều kiện nào ? (GLCG.234)
T. Muốn rước lễ thì phải sạch tội trọng, có ý ngay lành, dọn mình chu đáo và giữ chay theo luật dạy.
142.H.Rước lễ thì được những ơn ích nào ?(GLCG.235)
T. Ta được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô và Hội thánh, được tẩy xoá các tội nhẹ, được lớn lên trong ân sủng và bảo đảm sự sống muôn đời.
143.H.Ta nên siêng năng rước lễ thế nào ? (GLCG.236)
T. Ngoài bổn phận rước lễ mỗi năm ít là một lần, ta nên rước lễ hằng ngày. Có thể Rước lễ lần thứ hai trong cùng một ngày khi tham dự Thánh lễ.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt : Hát, băng reo.
2. Thực hành :
Em luôn giữ linh hồn sạch tội để đáng Chúa ngự vào lòng.
3. Bài làm ở nhà :
Em viết vào tập bài và đóng khung thật đẹp : Lạy Chúa, con ước ao Chúa ngự vào lòng con.
V. KẾT THÚC.
- Đọc kinh sáng danh.
- Chào nhau.
Phần IV : KINH NGUYỆN KI-TÔ GIÁO
Bài 35
KINH LẠY CHA : LỜI KINH CỦA CHÚA
Lời chúa : “Anh em hãy cầu nguyện như thế này : Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời ...” (Mt 6, 9)
Ý chính : 1. Chúa Giê-su dẫn ta đến cùng Chúa Cha (Mt 19,29 ; Ep 3,12 ; Rm 5,2-5).
2. Sống tình con thảo với Thiên Chúa (Ga 15, 12-13).
Tâm tình : Biết ơn, vui sướng được biết Thiên Chúa là Cha.
Chuẩn bị : Tranh số 7 ĐBTT cũ.
*******
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
Vui vẻ đón tiếp các em và nhắc nhở về cách ăn mặc.
2. Thánh hóa :
Lạy Chúa, chúng con tụ họp nhau đây để nghe Lời Chúa. Xin Chúa soi sáng để chúng con nhận ra những gì Chúa muốn nói với chúng con hôm nay và mau mắn mang ra thực hành. Chúng con cầu xin nhờ Chúa Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
3. Giới thiệu phần IV và bài mới :
Những điều chúng ta tuyên xưng (phần I) cũng là những điều chúng ta sống (phần II) và cử hành (phần III). Đời sống của người Ki-tô hữu là cuộc sống thống nhất giữa những gì chúng ta tin, những gì chúng ta cử hành và đời sống. Có được sự thống nhất này là nhờ chúng ta biết cầu nguyện.
Cầu nguyện là hơi thở của người có đạo. Vì thế hai bài cuối cùng của chương trình giáo lý cấp I được dành cho Kinh nguyện Kitô giáo mà lời kinh quan trọng nhất là kinh LẠY CHA. Mời các em bước vào bài kinh lạy Cha.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Phúc năm nay 8 tuổi bước vào lớp 3. Ba của Phúc đã đi nước ngoài từ khi Phúc còn nhỏ. Nay mẹ cho biết đã có giấy tờ bảo lãnh của ba gởi về. Phúc vô cùng sung sướng vì sẽ được gặp ba, sẽ được nói chuyện với ba, sẽ được ba dẫn đi chơi, sắm đồ cho Phúc... Nghĩ đến ngày được gặp ba, được sống với ba, sao mà sướng quá ... ! Phúc cố gắng học chăm, sống ngoan để ba vui lòng.
Chúa Giê-su cũng muốn mọi người được sống mật thiết với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Người đã dạy chúng ta kinh Lạy Cha để chúng ta biết thưa chuyện và sống thân mật với Chúa. Mời các em đứng lên nghe công bố Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Mt 6,7-13)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại ; họ nghĩ rằng : cứ nói nhiều là được nhậm lời. Đừng bắt chước họ, vì cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.
“Vậy anh em hãy cầu nguyện như thế này : “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con ; Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (1)
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
(1) Kinh Lạy Cha được lấy theo kinh đang đọc hiện nay 1996. Khi nào có lệnh sửa kinh, xin thay kinh mới.
C. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
1. Chúa Giê-su dẫn ta đến cùng Chúa Cha
(Mt 19,29 ; Ep 3,12 ; Rm 5,2-5).
- Các em có biết tại sao chúng ta lại được gọi Thiên Chúa là Cha không ?
+... (không biết).
- Hai bài đầu chương trình Giáo lý cấp I, các em đã được học đề tài nào ?
+...(GLV gợi ý giúp các em nhớ lại bài 1: Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, bài 2 : Thiên Chúa tạo dựng con người).
- Khi học những bài này, các em còn nhớ Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật để cho ai ?
+... (cho con người).
- Như vậy Thiên Chúa yêu hay ghét con người ?
+... (yêu).
- Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa lại ưu ái đặc biệt. Em nào còn nhớ Thiên Chúa tạo dựng con người thế nào ?
+... (GLV ôn lại cho các em : Kinh thánh diễn tả công việc tạo dựng con người theo kiểu diễn tả của con người :
* Bắt đầu có một ý nghĩ : Ta hãy làm ra người.
* Chọn một kiểu mẫu : giống hình ảnh Ta.
* Thi công : lấy đất nắn nên hình người.
* Ban sự sống : thổi hơi trao ban sự sống thể xác và linh hồn.
* Ban đặc quyền : cho con người được làm chủ muôn loài).
- Qua công việc sáng tạo muôn loài và tạo dựng con người, các em thấy Thiên Chúa yêu hay ghét con người.
+... (yêu, rất yêu).
- Có người cha nào yêu con mình như thế không ?
+... (không).
- Thiên Chúa đã yêu thương con người hơn tất cả mọi người cha, người mẹ yêu con mình. Thế nhưng ông bà nguyên tổ Adam - Evà đã làm sao ?
+... (sa ngã phạm tội).
- Thế là mất hết : cây cối trở nên gai góc, muôn vật trở nên thù nghịch với con người. Con người bị đuổi ra khỏi vườn diệu quang, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của mà ăn... Và cuối cùng phải chết ! Có đáng buồn không, các em ?
+... (rất đáng buồn).
- Nhưng Thiên Chúa có bỏ mặc con người trong tội lỗi và sự chết không ?
+... (không).
- Thiên Chúa đã làm gì ?
+... (Thiên Chúa hứa ban ơn cứu chuộc).
- Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa chưa?
+... (rồi).
- Bằng cách nào ?
+... (sai Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô đến trần gian).
- Chúa Giê-su Ki-tô đến trần gian để làm gì ?
+... (để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa, cứu chuộc con người).
- Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương hay ghét con người ?
+... (yêu thương).
Khi đến trần gian, Chúa Giê-su đã dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha yêu thương như các em đã được học trong bài mở đầu và suốt mọi bài giáo lý của chương trình cấp I.
(nếu có rộng thời giờ, GLV có thể trích đọc cho các em các đoạn Kinh thánh Is 63,14-16;Mt 6,3.7;7,26-32; Ga 20,17-18...).
Chúa Giê-su đã dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha, Thánh Phao-lô tông đồ dạy : “Trong Đức Ki-tô và nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa”
(Ep 3,12). Thánh Phao-lô còn nói trong thư gởi tín hữu Rô-ma như sau : “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa...” (Rm 5,2). Đặc biệt, chính Chúa Giê-su đã dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha trong kinh Lạy Cha như chúng ta vừa nghe trong phần công bố Lời Chúa : “Anh em hãy cầu nguyện như thế này : Lạy Cha chúng con ở trên trời...” (Mt 6,9).
- Tóm lại, ai đã dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha ?
+... (Chúa Giê-su).
- Các em được Thiên Chúa nhận làm con chưa ?
+... (rồi).
- Khi nào ?
+... (khi lãnh nhận Bí tích rửa tội).
Nhờ Bí tích rửa tội, ta được sinh lại làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta luôn nhớ diễm phúc làm con Thiên Chúa để cố gắng sống tốt, sống thánh nhé.
2. Sống tình con thảo với Thiên Chúa (Ga 15,12-13).
- Tất cả các bài giáo lý từ đầu tới nay đều dạy chúng ta biết Thiên Chúa là ai ?
+... (là Cha).
- Là Cha yêu thương và quyền năng. Có người Cha yêu thương và đầy quyền năng như thế, các em sung sướng không ?
+... (có).
- Vậy chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng là con Thiên Chúa ?
+...
Ta phải sống tình con thảo đối với Thiên Chúa và tình anh em đối với mọi người.
a) Sống tình con thảo đối với Thiên Chúa (Mt 5,48).
- Các em xác minh lại : Thiên Chúa có yêu thương chúng ta không ?
+... (có).
- Yêu ít hay yêu nhiều ?
+... (nhiều).
- Em nào kể lại cho các bạn nghe Thiên Chúa đã yêu chúng ta làm sao ?
+... (GLV khuyến khích các em nói lên nhận thức của các em về tình yêu Thiên Chúa qua công cuộc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa, rồi tóm kết :)
- Thiên Chúa là Cha đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta có được xúc phạm đến Thiên Chúa không ?
+... (không).
- Có được bỏ nhà Chúa đi hoang không?
+... (không).
- Mỗi khi phạm tội là các em xúc phạm đến Chúa, bỏ nhà đi hoang. Trái lại, chúng ta phải làm gì để phát huy hồng ân làm con Thiên Chúa ?
+... (GLV khuyến khích các em phát biểu, ghi nhận trên bảng, nếu có, những việc làm từ việc chăm chỉ học văn hóa - học giáo lý - siêng năng tham dự phụng vụ nhất là Thánh lễ và đời sống bản thân, gia đình, học đường, tôn giáo, xã hội..., rồi tóm kết :)
- Tốt lắm, là con Thiên Chúa chúng ta phải cố gắng học giỏi, giỏi về các môn kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giỏi về giáo lý. Các em có muốn đi khập khiễng không ?
+... (không).
Em nào chỉ giỏi về kiến thức tự nhiên (giỏi văn, toán, khoa học v.v..) mà lười giáo lý, kém giáo lý là em đó khập khiễng : chân kiến thức tự nhiên thì to như chân voi, còn chân đức tin thì nhỏ như chân chuột. Như vậy, là khập khiễng đó. Người ấy sẽ không đứng vững trong cuộc sống. Các em phải chăm học, chăm ngoan cả hai nhé.
- Học giỏi thôi đã là con ngoan của Chúa chưa ?
+... (chưa).
- Con của Chúa mà không đến gặp Chúa trong các giờ kinh nguyện và phụng vụ, nhất là Thánh lễ thì có là con ngoan của Chúa không ?
+... (không).
- Con của Chúa mà không cầu nguyện, nhất là không đọc, suy niệm Lời Chúa thì có là con ngoan của Chúa không ?
+... (không).
- Con của Chúa mà hỗn láo với mọi người, với cha mẹ, anh chị em trong gia đình, xấc xược với thầy, cô ở trường học, ở lớp giáo lý, vô lễ với mọi người... thì có là con ngoan của Chúa không ?
+... (không).
Tóm lại :
Là con ngoan của Chúa, chúng ta phải nên hoàn thiện như cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện (x. Mt 5,48). Cụ thể là :
* Chuyên chăm học văn hóa và giáo lý.
* Siêng năng cầu nguyện, tham dự phụng vụ nhất là Thánh lễ.
* Sống tốt với mọi người và chu toàn bổn phận.
b) Sống tình anh em với mọi người
(Ga 15,12-13).
- Trong bài mở đầu Giáo lý cấp I các em đã học Thiên Chúa là Cha của mỗi người và tất cả chúng ta thì chúng ta là gì của nhau ?
+... (anh chị em của nhau).
- Giỏi, các em đã nhớ bài. Là con cùng cha, thì chúng ta là anh chị em của nhau. Các em là em của chị và chị là chị của các em. Không chỉ những người trong cùng một lớp, một làng, một nước … nhưng còn là tất cả mọi người trên thế giới này, tất cả đều là anh chị em của nhau. Các em có nhất trí không ?
+... (nhất trí - vỗ tay).
- Là anh chị em của nhau thì chúng ta phải yêu nhau hay ghét nhau ?
+... (yêu nhau).
- Là anh chị em của nhau thì chúng ta phải hòa thuận hay chửi bới ghét bỏ nhau ?
+... (hòa thuận).
- Là anh chị em của nhau thì chúng ta phải giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau những ơn lành hồn xác hay chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ một mình ?
+... (giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau).
Chúa đã trao cho chúng ta luật sống tình con thảo và tình anh em (tình huynh đệ) (mời các em đứng :)
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 15,12-13).
Khi ấy Chúa Giê-su nói với các môn đệ : “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa.
(các em vẫn đứng, GLV nói tiếp :)
Các em thân mến, nhờ Chúa Giê-su mà chúng ta được đến gần Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta, đồng thời mọi người là anh chị em với nhau trong Chúa. Chúng ta hãy luôn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, biết giúp đỡ, yêu thương mọi người. Bởi vậy chúng ta hãy luôn biết tạ ơn Chúa, nhất là khi đọc kinh Lạy Cha, ta phải có thái độ biết ơn vì ân huệ Thiên Chúa ban. Đồng thời, noi gương Chúa Giê-su, sống tình con thảo, luôn tín thác và thực thi ý Cha.
D. Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện cùng Chúa Cha, xin cho chúng con luôn sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
Lạy Cha chúng con ở trên trời.... Amen.
(mời ngồi).
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Anh em hãy cầu nguyện như thế này : Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời ...” (Mt 6, 9)
144.H. Nhờ ai mà ta dám đến gần Thiên Chúa là Cha ? (GLCG.475)
T. Nhờ Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, mà ta dám đến với Thiên Chúa là Cha.
145.H.Khi nói “Cha chúng con”, ta phải hiểu và sống thế nào ? (GLCG.476)
T. Ta phải hiểu Thiên Chúa là Cha chung của tất cả mọi người và mọi người là anh em với nhau, do đó ta phải yêu thương phục vụ nhau.
146.H.Lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời” có ý nghĩa gì ? (GLCG.477)
T. Lời kinh ấy không có nghĩa là Thiên Chúa ngự một nơi nào đó trên không trung nhưng có nghĩa là Người đầy uy nghi cao cả và nơi Người ngự chính là nhà ta, là quê hương đích thực ta đang tiến về.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT.
2. Thực hành :
Kinh Lạy Cha sẽ cho các em nhớ Thiên Chúa là Cha nên các em luôn làm điều tốt đẹp lòng Thiên Chúa. Như Thánh nữ Tê-rê-sa (khi còn bé) trong một lần nói với người chị thế này : “Thưa chị, suốt đời em, em không quên ơn Chúa, vì Chúa là Cha nhân từ. Chúa đã yêu thương em qua cha mẹ đến nỗi để đáp lại, không ai có thể tưởng tượng được lòng em yêu mến cha mẹ đến chừng nào ! Em phải sống thật ngoan trước mặt Chúa là Cha, và ngoan với ba, với chị và với hết mọi người nữa”.
Các em có muốn bắt chước cô bé Tê-rê-sa không ? Em luôn nhớ Thiên Chúa là Cha bằng cách “Khi thức dậy buổi sáng, em đọc kinh Lạy Cha”.
3. Bài làm ở nhà :
Em ghi lại và đóng khung thật đẹp câu : Lạy Cha chúng con ở trên trời.
V. KẾT THÚC.
- GLV nhắc lại hồng ân làm con Thiên Chúa và động viên các em sống ngoan, sống thánh trọn tình con thảo đối với Thiên Chúa và trọn tình anh em đối với mọi người, rồi cùng nhau sốt sắng đọc kinh lạy Cha.
- (Chào nhau).
Bài 36
KINH LẠY CHA : BẢY LỜI NGUYỆN XIN
Lời Chúa : “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24)
Ý chính : 1. Ba lời xin (Mt 6,9-10).
2. Bốn lời cầu (Mt 6,11-13).
Tâm tình : Sung sướng và tin tưởng đọc kinh Lạy Cha.
Chuẩn bị : Tranh tùy chọn.
********
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp :
GLV vui vẻ tiếp đón các em, hỏi thăm về đời sống bản thân, gia đình các em. Động viên các em sống ngoan, chăm học, nêu cao diễm phúc làm con Thiên Chúa.
2. Thánh hóa :
Động viên các em sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
3. Giới thiệu bài mới :
Trong bài 35 các em đã được Chúa Giê-su dạy kinh Lạy Cha. Để đọc sốt sắng và có ích lợi kinh này, hôm nay các em tìm hiểu 7 lời cầu xin trong kinh Lạy Cha.
II. EM NGHE LỜI CHÚA.
A. Dẫn nhập :
Có một bà già được tiếng là đạo đức. Đức Giám Mục Giáo phận nhân dịp đi kinh lý, ghé thăm bà. Ngài hỏi bà :
- Bà thường đọc sách đạo đức nào ?
- Thưa Đức Cha, con không biết đọc!
- Người ta bảo bà đạo đức lắm cơ mà ?!
- Không dám đâu, thưa Đức Cha, con chỉ biết đọc kinh Lạy Cha, mà con thường không đọc hết kinh !
- Bà không thuộc hay sao, không có ai đọc với bà à ?
- Không phải thế, thưa Đức Cha, con thuộc chứ nhưng khi con vừa đọc “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, con không đọc tiếp được vì một bà già khốn nạn, quê mùa, dốt nát như con lại được
gọi Chúa là Cha và nhất là được làm con Chúa ! Điều này làm con rất cảm động ! Rồi qua kinh Lạy Cha, con lại được biết con có tất cả mọi người là anh chị em ! Ôi sung sướng vô ngần, phải không Đức Cha ?
- Đúng vậy đó. Bà cứ tiếp tục cầu nguyện với kinh Lạy Cha như thế nhé.
Các em thân mến,
- Bà già quê mùa, không biết chữ, chỉ biết cầu nguyện bằng kinh lạy Cha mà đã được hạnh phúc như thế. Các em có muốn hạnh phúc như bà không?
+... (có).
Vậy các em cũng hãy cầu nguyện bằng kinh lạy Cha nhé. Nhưng để biết cầu nguyện sốt sắng như bà già đó, chúng ta cần học biết xin những ơn gì khi đọc kinh lạy Cha. Mời các em đứng nghe Lời Chúa.
B. Công bố Lời Chúa : (Mt 5,23-24).
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
Khi ấy, Chúa Giê-su giảng cho dân chúng rằng : “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật của mình trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).
D. Dẫn giải nội dung Giáo lý :
- Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau nên khi cầu nguyện, chúng ta phải sống hòa thuận với nhau thì lời cầu nguyện mới được Chúa nhận lời. Các em nhớ Lời Chúa dạy phải tha thứ cho nhau rồi mới học bài hôm nay được đấy nhé ! Có em nào còn giận nhau không ?
+... (GLV để các em phát biểu và giúp giải hòa, nếu có).
- Tốt lắm, các em đã biết tha thứ cho nhau rồi, bây giờ chúng ta tìm hiểu kinh Lạy Cha nhé. Các em lần lượt đọc từng câu trong kinh Lạy Cha. Đến chỗ nào chị gõ “cóc” thì các em ngưng nghe :
+ “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (cóc).
Đây là lời mở đầu hướng chúng ta lên Thiên Chúa là Cha và tập trung tất cả vào Chúa.
Các em đã học câu này trong bài trước rồi. Các em đọc tiếp :
1. Ba lời xin (Mt 6,9-10)
+ “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng” (cóc).
Chúng ta xin Chúa làm sáng Danh Chúa. Danh là tên, danh không chỉ là tên gọi mà còn là chính con người. Với lời nguyện này chúng ta xin Chúa Cha tôn vinh Danh Chúa trong và qua kinh nguyện cũng như qua cuộc sống của ta. Nếu ta sống tốt, Danh Chúa được chúc tụng.
Tương tự như khi em ngoan ngoãn, học giỏi thì người ta khen cha mẹ em. Các em đọc lại theo chị :
+ Trong lời cầu xin / “Danh cha cả sáng” / chúng ta xin / cho mỗi người Ki-tô hữu / sống tốt lành thánh thiện / để Danh Cha được vinh hiển / nhờ đó,/ muôn người nhận biết / và tôn vinh Danh Cha.
- Các em đọc tiếp kinh Lạy Cha : “Nước Cha trị đến”, các em lặp lại :
+ “Nước Cha trị đến” (cóc).
- Chúa Giê-su đã giảng về Nước Trời và nước ấy chính là Chúa Giê-su. Vì thế, khi đọc lời xin “Nước Cha trị đến” là chúng ta xin ơn / (Các em đọc lại theo chị :) / sớm thấy nước Thiên Chúa được thực hiện ngay trong cuộc đời này. (các em lặp lại).
+ … (khi đọc lời xin / “Nước Cha trị đến/ là chúng ta xin / sớm thấy Nước Thiên Chúa / được thực hiện, ngay trong cuộc đời này).
- Các em đọc tiếp kinh Lạy Cha : “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
+ “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (cóc).
- Chúng ta cầu xin được noi gương Chúa Kitô, Đấng đã “vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá”
(Pl 2,6), noi gương Mẹ Ma-ri-a và các thánh trong sự vâng phục của đức tin. Vì thế khi đọc “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, (các em đọc theo chị) chúng ta xin Cha / kết hợp ý muốn của chúng ta / với thánh ý của Chúa Giê-su / để hoàn thành / chương trình cứu độ của Người / ngay trong cuộc sống trần gian. (Các em lặp lại)
+ …
Trên đây là ba lời cầu xin tôn vinh Danh Chúa, Nước Chúa và thánh ý của Chúa.
2. Bốn lời cầu (Mt 6,11-13)
* “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” - Các em lặp lại :
+ “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” (cóc).
- Chúng ta có cần ăn mới sống được. Muốn ăn thì phải có lương thực. Không cho riêng từng người mà cho chung tất cả mọi người. Như thế, chúng ta phải biết chia sẻ cho nhau những nhu cầu trong đời sống. Em có bánh ăn thì cũng phải nhớ chia cho các bạn nghèo. Đàng khác, con người không chỉ đói cơm bánh mà còn đói Lời Chúa và Mình Chúa. Vì thế, khi đọc “”Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” - (Các em đọc theo chị) là chúng ta / phó thác vào Thiên Chúa quan phòng / và xin Cha ban lương thực / vật chất cũng như tinh thần / để ta sống đẹp lòng Chúa / và phụng thờ Người. (Các em lặp lại)
+ …
* Tiếp đến chúng ta xin : “tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Các em lặp lại :
+ “tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (cóc)
Khi đọc lời này, chúng ta nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nên chúng ta mắc nợ với Chúa : nợ bất công, nợ vô ơn, nợ xúc phạm, v.v... Chúng ta nài xin ơn tha thứ. Tha thứ ở đây không chỉ là bỏ qua, quên đi lỗi phạm mà còn là giải thoát, tái lập mối quan hệ đã bị bẻ gẫy. Và để được Chúa tha món nợ đó, chúng ta phải tha cho anh em đang còn mắc nợ chúng ta.
(GLV có thể lược kể dụ ngôn người đầy tớ bất nhân trong Mt 18,21-35).
Vì thế, khi đọc “xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” / (Các em đọc theo chị), chúng ta xin Cha thương xót và tha thứ / mọi xúc phạm của chúng ta / và chúng ta chỉ được tha thứ / khi chúng ta sống yêu thương, tha thứ / cho người khác.
(Các em lặp lại)
+ …
* Chúng ta đọc tiếp “chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Các em lặp lại :
+ “chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (cóc).
Cám dỗ là sự xúi giục làm điều xấu, đưa đến tội lỗi và sự chết. Bị cám dỗ là chuyện tự nhiên của thân phận con người. Chính Chúa Ki-tô cũng bị cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế không có tội lỗi gì khi bị cám dỗ. Chỉ khi nào chiều theo cơn cám dỗ thì ta mới phạm tội. Vậy khi đọc “chớ để chúng con sa chước cám dỗ” / (các em đọc theo chị), chúng ta xin Cha / ban thêm sức mạnh/ để chống lại những cám dỗ, / cùng xin ơn tỉnh thức / và ơn bền vững đến cùng. (Các em lặp lại)
+ …
* Chúng ta đọc tiếp câu cuối : “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” -
Các em lặp lại :
+ “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (cóc).
Chúng ta luôn bị cám dỗ nên cần có sức mạnh để anh dũng chiến đấu đạt chiến thắng. Đàng khác, cuộc sống con người cũng luôn gặp những thử thách, những gian truân, mỗi người cần ơn Chúa để kiên vững khắc phục, không ngã quị. Vì thế khi đọc : “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” / (các em đọc theo chị), chúng ta xin Chúa biểu lộ / sự chiến thắng của Người / trên sa tan / là kẻ đã chống đối Thiên Chúa / và chương trình cứu độ của Người.
(Các em lặp lại)
+ …
Đó là 4 lời cầu chúng ta dâng lên Thiên Chúa với lòng tin tưởng trong tư cách là con xin với Cha. Vì thế, chúng ta kết thúc kinh lạy Cha bằng tiếng AMEN. (Các em đọc theo chị) Amen có nghĩa là / chúng ta tin những lời nguyện ước trên / sẽ được Chúa nhận lời.
(Các em lặp lại).
+ …
D. Cầu nguyện :
Bây giờ, các em đã hiểu thêm chút về kinh lạy Cha, các em hãy cùng chị sốt sắng cầu nguyện bằng kinh lạy Cha.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con ....
III. EM NHỚ LỜI CHÚA.
“Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24)
147.H.Trong lời cầu xin “Danh Cha cả sáng”, chúng ta xin gì ? (GLCG.478)
T. Chúng ta xin cho mỗi người Ki-tô hữu sống tốt lành thánh thiện để Danh Cha được vinh hiển, nhờ đó muôn người nhận biết và tôn vinh Danh Cha.
148.H.Khi nguyện “Nước Cha trị đến” chúng ta xin gì ? (GLCG.479)
T. Chúng ta xin ơn sớm thấy ngày Chúa Giê-su đến hoàn tất Nước Thiên Chúa và xin ơn sống đời công chính, để Nước Thiên Chúa được thực hiện ngay trong cuộc đời này.
149.H. Khi nguyện “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta xin gì ? (GLCG.480)
T. Chúng ta xin Cha kết hợp ý muốn của chúng ta với thánh ý của Chúa Giê-su để hoàn thành chương trình cứu độ của Người ngay trong cuộc sống trần gian.
150.H.Khi nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, chúng ta xin gì? (GLCG.481)
T. Chúng ta phó thác vào Thiên Chúa quan phòng, và xin Cha ban lương thực vật chất cũng như tinh thần để ta sống đẹp lòng Chúa và phụng thờ Người.
151.H.Khi xin “tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, chúng ta xin gì? (GLCG.482)
T. Chúng ta xin Cha thương xót và tha thứ mọi xúc phạm của chúng ta và chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta sống yêu thương, tha thứ cho người khác.
152.H.Khi xin “chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, chúng ta xin gì ? (GLCG.483)
T. Chúng ta xin Cha ban thêm sức mạnh để chống lại những cám dỗ, cùng xin ơn tỉnh thức và ơn bền vững đến cùng.
153.H.Lời kinh “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, nghĩa là gì ? (GLCG.484)
T. Nghĩa là chúng ta xin Chúa biểu lộ sự chiến thắng của Người trên Satan là kẻ đã chống đối Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người.
154.H.Lời kết “A-men”, có nghĩa là gì ? (GLCG.485)
T. Có nghĩa là chúng ta tin những lời nguyện ước trên sẽ được Chúa nhận lời.
IV. EM SỐNG LỜI CHÚA.
1. Sinh hoạt :
Có thể sinh hoạt ngay khi học xong một ý, chọn trong tập sinh hoạt ĐBTT hay ở sách khác.
2. Thực hành :
Hiểu được kinh lạy Cha và lời kinh Chúa dạy là những lời cầu xin như thế, em sốt sắng đọc kinh lạy Cha.
3. Bài làm ở nhà :
Em tìm hiểu và ghi lại ý nghĩa của hình bài 36 trong sách bài học của em.
V. KẾT THÚC.
Hôm nay không chỉ học xong bài như mọi khi mà còn là học xong cả chương giáo lý cấp I. Chúng ta cùng nhau dâng lời tạ ơn Chúa. Qua từng bài và tất cả 37 bài, chúng ta đều khám phá một ơn huệ vô cùng to lớn này : Thiên Chúa là Cha yêu thương đầy quyền năng và mọi người là anh chị em của nhau. Vì thế, chúng ta luôn tuyên xưng - cử hành - sống và cầu nguyện đức tin Ki-tô giáo với niềm xác tín chân lý đó. Giờ đây, chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn qua bài hát : “hồng ân Thiên Chúa bao la...“
(Chào nhau và hẹn trở lại để tham dự giai đoạn chuẩn bị gần lãnh nhận Bí tích Hòa giải và Rước lễ lần đầu).
PHỤ TRƯƠNG
NGHI THỨC XƯNG TỘI RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU
********
A. PHẦN CHUẨN BỊ
* Tĩnh Tâm :
Chủ đề : ĐẾN VỚI CHÚA LÀ CHA YÊU THƯƠNG
Ngày thứ nhất
Thiên Chúa yêu thương loài người tội lỗi
Bài 1 : Loài người trong ngày sáng tạo (x. St 1-3)
* Nhập : Lược kể công cuộc sáng tạo vũ trụ và loài người theo St 1-3
* Nội dung :
1. Lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho loài người :
a) Tạo dựng tất cả những gì cần thiết cho loài người được sống hạnh phúc.
b) Loài người được làm chủ tất cả.
c) Loài người được cộng tác với Thiên Chúa trong việc điều hành vũ trụ và tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa.
2. Loài người phản bội :
a) Tội của loài người : Từ chối Thiên Chúa để chạy theo cái “bụng” (ăn).
b) Hậu quả của tội : Mất tất cả những gì tốt đẹp và hạnh phúc, phải chết.
* Kết : Loài người cần ơn tha thứ.
Bài 2 : Thiên Chúa thực hiện công cuộc cứu chuộc
* Nhập : Lược kể Chúa gọi Abraham theo St 12,1-5, nhấn mạnh đến việc thực hiện lời hứa ban ơn cứu chuộc.
* Nội dung :
1. Thiên Chúa chuẩn bị :
a) Chọn gọi Abraham lập dân riêng.
b) Thiên Chúa huấn luyện dân riêng :
- Khi trung thành : Thiên Chúa phù trợ.
- Khi bất trung : Thiên Chúa cảnh cáo, ngăm đe, sửa phạt.
- Khi sám hối : Thiên Chúa thứ tha.
2. Khi đến “giờ” : - Truyền tin - Chúa Giêsu đến - chịu chết ...
* Kết : Khơi gợi lòng khát vọng được tha thứ.
Ngày thứ hai
PHƯƠNG THẾ LÃNH NHẬN ƠN THA THỨ :
BÍ TÍCH GIẢI TỘI
Bài 3 : Phương thế lãnh nhận ơn tha thứ : Bí tích Giải tội.
* Nhập : Đứa con phung phá trở về (x. Lc 15,11-32)
* Nội dung :
1. Tình trạng tội của mỗi người : Tổ tông và tội riêng.
2. Điều kiện được ơn tha thứ :
- Nhận biết tội.
- Ăn năn thống hối (sám hối).
- Quyết tâm từ bỏ.
3. Lãnh ơn tha thứ.
4. Đền tội.
* Kết : Tin tưởng trở về với Chúa.
Bài 4 : Chúa yêu thương chăm sóc chúng ta.
* Nhập : Êlia trên đường tới Horeb (x. 1 V 19,1-8)
* Nội dung :
1. Loài người cần lương thực để sống, lớn, làm việc :
- Đời sống tự nhiên : cơm, nước, môi trường ...
- Đời sống tôn giáo : Lời Chúa, Mình Chúa.
2. Chúa ban cho loài người có lương thực :
- Tự nhiên : lao động - vận dụng sức lực.
- Siêu nhiên : Bí tích - Phụng vụ.
* Kết : Khát vọng được no nê.
Ngày thứ ba
Bài 5 : Bánh Thánh Thể
* Nhập : Phép lạ hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6,1-59).
* Nội dung :
1. điều kiện lãnh nhận Bánh Thánh Thể :
- Tâm hồn : sạch tội và ước ao.
- Thể xác : chay Thánh Thể - Thánh lễ.
* Kết : Hãy đến mà ăn.
Bài 6 : Hồng ân Bí tích Rửa tội : Cửa ngõ vào Hội thánh.
(Cho nơi nào có rửa tội các các trẻ cùng Rước lễ lần đầu với các em cấp I)
* Nhập : Cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Nicôđêmô (x.Ga 3,1-21).
* Nội dung :
1. Thiên Chúa yêu thương loài người, không muốn loài người phải chết :
- Ngày nguyên tổ phạm tội.
- Dòng lịch sử dân riêng.
- Từng người chúng ta.
2. Bí tích Rửa tội :
- Tha tội.
- Cho ta được làm con Chúa.
3. Bí tích Rửa tội : cửa ngõ bước vào Hội thánh.
* Kết : Lòng khát mong và sống ơn Bí tích Rửa tội.
* CHUẨN BỊ TRƯỚC LỄ.
Đến giờ qui định, thường là một giờ trước Thánh lễ, các em có mặt tại nhà xứ, trang phục chỉnh tề.
- Tập họp, chuẩn bị rước vào nhà thờ.
- Phụ huynh vào nhà thờ trước, ngồi vào chỗ qui định.
- Đến giờ lễ, rước vào nhà thờ theo thứ tự như sau :
1. Chấp hiệu, Thánh giá nến cao.
2. Các em Xưng tội (mỗi em cầm một cành hoa trắng hay nến sáng, xếp hai hàng theo đường kiệu).
3. Tông đồ dẫn đầu mỗi toán.
4. Giúp lễ và chủ sự.
B. THÁNH LỄ
1. Ca nhập lễ : Hãy vui mừng.
Đk : Hãy vui mừng trong Giavê hỡi những người công chính. Hãy vui mừng trong Giavê, hãy hát khen Thánh danh Ngài.
1. Giavê Vua ta đất hãy nhảy mừng, hoan ca reo vui vô vàn hải đảo.
2. Mây cao loan xa đức công chính Người, vinh quang Giavê chan hoà khắp chốn.
2. Nghi thức thống hối :
- Chủ tế chào, kêu gọi thống hối.
- Các em Xưng tội cử hành việc thống hối như sau :
a) Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sinh dựng nên chúng con, Chúa thương chúng con vô cùng, ban cho chúng con hết mọi sự, thế mà chúng con lại phạm tội mất lòng Chúa.
Chúng con thành tâm thống hối, Xin Chúa tha thứ cho chúng con. (Tất cả các em cúi đầu lặp lại).
b) Chúa ban cho chúng con có ông bà, cha mẹ, anh chị, các bề trên, là những người hết lòng yêu thương, săn sóc, hướng dẫn chúng con. Thế nhưng, chúng con đã không vâng lời, thiếu ngoan ngoãn.
Chúng con thành tâm thống hối, Xin Chúa tha thứ cho chúng con. (Tất cả các em cúi đầu lặp lại).
c) Chúa dạy chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và biết giúp đỡ nhau. Vậy mà chúng con không nghe Lời Chúa, chúng con đã cãi nhau, đánh nhau, đôi khi còn làm hại nhau nữa.
Chúng con thành tâm thống hối, Xin Chúa tha thứ cho chúng con. (Tất cả các em cúi đầu lặp lại).
* Hát : Bài ca sám hối.
Đk : Lạy Chúa nguyện thương con theo lượng từ bi, nguyện thương con theo lượng hải hà. Lạy Chúa xin xoá con sạch mọi tội ác rửa hồn con hết mọi gian tà.
Pk. Vì tội con ở trước Thiên Nhan và con đã phản nghịch cùng Chúa. Xin canh tân con người con, đừng loại con khỏi thánh nhan.
3. Cử hành Lời Chúa.
- Bài đọc 1 : (theo ngày lễ, có thể dẫn ý vào câu trước bài đọc).
- Đáp ca : (theo ngày lễ, có thể tập cho một em hát phiên khúc, các em hát điệp khúc).
- Bài đọc 2 : (theo ngày lễ, có thể dẫn ý vài câu)
- All-All : (theo ngày lễ).
- Phúc âm : (theo ngày lễ).
- Diễn giải :
4. Lời nguyện Giáo dân :
(Dựa theo Lời Chúa của ngày lễ, để kêu gọi cầu nguyện, thí dụ :)
Chủ tế : Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa là Cha hay thương xót và nhân ái. Ngài đã dùng Lời hằng sống tạo dựng muôn loài muôn vật, và hằng thương yêu chăm sóc chúng. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và tha thiết cầu xin.
a) “Người thấy dân chúng đông đảo thì chạnh lòng thương”. Xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh, luôn kiên trì rao giảng Lời Chúa cho mọi người, đồng thời quan tâm và phát huy công cuộc bác ái, nhằm xoa dịu nỗi khổ đau của con người.
b) Thánh Thể là tấm bánh được bẻ ra cho thế giới. Xin cho mỗi Kitô hữu năng tham dự thánh lễ tích cực, sống động, và biết kéo dài thánh lễ trong đời sống hằng ngày.
c) Cơm bánh là mối lo âu hằng ngày của con người. Xin Chúa nâng đỡ những người neo đơn, nghèo khó, bệnh tật, để họ nhận được sự trợ giúp nơi những tấm lòng khoan dung nhân ái.
d) Lạy Chúa, sau những tháng ngày học hỏi và sống Lời Chúa. Hôm nay Chúa đã ân thưởng cho chúng con bằng hồng ân Thánh Thể. Xin Chúa cho mỗi người chúng con, luôn giữ tâm hồn trong sạch, và lòng mến Chúa thật nhiều, để xứng đáng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa.
Chủ tế :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cảm thông trước đám đông dân chúng nô nức đi theo và lắng nghe lời giảng của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết chia sẻ thời giờ, sức khoẻ và cơm bánh với anh chị em chúng con, để chúng con được chung hưởng niềm vui và bình an mà Chúa đã hứa ban. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
5. Dâng lễ vật :
- Trình lễ vật :
+ 3 em Xưng tội dâng hương - hoa - nến cùng với một em xướng lễ vật.
+ 1 đại diện phụ huynh dâng bánh cùng với một đại diện xướng lễ vật.
+ 1 đại diện GLV dâng rượu và 1 GLV xướng lễ vật.
(8 người xếp hàng 2 tiến lên trước bàn thờ, 3 xướng viên tiến đến trước Micro để lần lượt xướng lễ vật)
- Em xướng viên :
Lạy Chúa, trong tâm tình hân hoan và biết ơn của ngày hồng phúc, chúng con được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, chúng con xin dâng lên Chúa những lễ vật đơn sơ này : hương trầm nghi ngút, những cánh hoa tươi xinh và ngọn nếnsáng tượng trưng cho những hy sinh, việc lành và những lời cầu nguyện tha thiết của chúng con trong những ngày vừa qua để chuẩn bị lãnh nhận Bí tích. Chúng con xin dâng lên Chúa.
(Các em đồng thanh đáp lại : chúng con...)
- Đại diện phụ huynh xướng :
Hợp với hiến lễ trên bàn thờ và lễ dâng của con em chúng con, chúng con xin dâng lên Chúa :
Bánh miến là hoa màu ruộng đất, chúng con dâng Cha Tạo hóa toàn năng, những gì Cha đã ban tặng cho chúng con. Lễ vật này cũng nói lên những khó nhọc, vất vả của chúng con trong việc dưỡng nuôi và giáo dục con cái. Chúg con xin dâng lên Cha kết hợp với Chúa Giêsu làm nên lương thực thiêng liêng nuôi sống chúng con.
- Đại diện Giáo lý viên :
Niềm vui phục vụ của chúng con được tràn đầy trong ngày hồng phúc các em được Hiệp lễ lần đầu hôm nay. Chúng con xin kính dâng lên Chúa rượu nho thanh khiết kết tinh từ bao hy sinh phục vụ trong những ngày tháng qua để kết hợp với Chúa Giêsu làm nên của uống trường sinh cho mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa.
6. Hát (dâng lễ) : Của lễ con dâng.
Pk. Của lễ con dâng là vâng lời cha mẹ của con. Của lễ con dâng là yêu thương bạn bè lối xóm. Trong hồn thiên thật thà, trong tình thương ngoan hiền, xin Chúa nhận của lễ con dâng.
Đk : Trên đôi tay ngọc ngà xin đơn sơ làm đầu, đoàn con cùng dâng tiến. Trên đôi môi nụ hồng, với tiếng hát ngọt mềm chân thành cùng tiến dâng lên.
8. Phần hiệp lễ :
a. Kinh dọn mình rước lễ (đọc chung).
Lạy Chúa / con tin Chúa đang ngự trên bàn thờ / trong hình bánh rượu./ Con không thấy Chúa / nhưng con tin Chúa thật là Chúa Giêsu / con ước ao rước Chúa lắm / xin Chúa hãy đến nuôi dưỡng linh hồn con./ Nhưng lạy Chúa Giêsu / con hèn kém quá / làm sao xứng đáng được rước Chúa./ Xin Chúa thương con / Chúa phán một lời linh hồn con được sạch.
Hát : Được Rước Chúa ! (ca đoàn hát)
(Các em xếp hai hàng, thứ tự lên rước lễ trên cung thánh)
b. Cám ơn sau rước lễ (1 em đọc).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Còn niềm vui sướng và hạnh phúc nào bằng giây phút này, giây phút linh thiêng và quí báu, Chúa đã thực sự đến viếng thăm linh hồn mỗi người chúng con lần đầu tiên, với niềm hân hoan, chúng con xin sấp mình thờ lạy Chúa, cùng dâng lên Chúa tâm tình tri ân cảm tạ. Lạy Chúa ! Lòng mơ ước của chúng con bấy lâu, nay đã được toại nguyện.
Nguồn lương thực dưỡng nuôi linh hồn chúng con, đó chính là Mình và Máu Chúa đang hòa nhập trong con, biến đổi con thành con người mới giống Chúa hơn.
Chúa là Đấng tác tạo nên con, là sức sống của con, là nguồn cậy trông, là nguồn Tình yêu vô bờ bến. Chúa đã hạ mình thương ngự đến trong mỗi chúng con qua tấm bánh bé nhỏ, cũng như ngày nào năm xưa, Tình yêu ấy được Chúa ban phát cho hơn năm ngàn người đi theo Chúa. Bên cạnh Chúa họ đã được no nê.
Xin Chúa luôn nâng đỡ, giúp sức cho chúng con, để con biết thân thưa cùng Chúa, con cố gắng sống theo ý Chúa, biết tìm kiếm Chúa cách vẹn toàn. Để bên Chúa, chúng con cũng được no say tình Chúa như họ.
Lạy Chúa mến yêu !
Chúa là Bánh Hằng Sống, Chúa biết con yêu mến Chúa, xin tăng thêm trong con nguồn sức mạnh, và Lời Chúa luôn là sức đỡ nâng con, để chúng con can đảm chống trả những cám dỗ, tội lỗi, biết thực hiện điều tốt, tránh xa việc xấu. Xin giúp chúng con biết siêng năng tham dự Thánh lễ, và rước lễ mỗi ngày, hầu xứng đáng là người con ngoan của Chúa.
Hát : Giêsu ở cùng con.
Đk : Giêsu ôi, ở cùng con luôn mãi. Chúa lìa con, con biết đâu nương nhờ. Nơi dương gian con giá lạnh hôm mai. Hãy ở lại trong cõi lòng con thơ.
Đk. Lạy Chúa giờ đây bao xiết mừng, con rước Người và được Cha đoái thương. Chúa ơi lắng nghe tiếng tơ lòng, Chúa hãy ngự luôn đây giữa hồn con.
9. Phần cám ơn (sau Lời nguyện hiệp lễ).
Hướng dẫn :
- Kính mời quí Cha, quí Thầy, quí Dì và quí Ông Đại diện Ban Hành giáo an toạ.
- Là những người thọ ơn, gia đình và các em xin được biểu lộ tấm lòng biết ơn và dâng lời cảm tạ :
a. Một em đại diện :
Trọng kính quí Cha, quí Thầy, quí Dì, quí Ông Ban Hành giáo, quí Ông Bà Ban Bảo trợ, quí Anh chị Giáo lý viên - Tông đồ và cộng đoàn.
Thật là một ngày trọng đại và vui mừng cho chúng con cũng như cho toàn thể giáo xứ. Lần đầu tiên trong đời, chúng con được diễm phúc đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô. Ôi ! chúng con hạnh phúc quá !
Sở dĩ chúng con có được ngày hồng phúc này là nhờ công lao vất vả dạy dỗ, hướng dẫn của quí Cha, quí Thầy, quí Dì, quí anh chị Giáo lý viên - Tông đồ, cũng như của Cha mẹ, anh chị chúng con.
Niềm hạnh phúc mà chúng con đang tận hưởng càng thêm giá trị và ý nghĩa khi được sự chia sẻ, tham dự của mọi người trong Thánh lễ hôm nay, để cùng chúng con ngợi khen, tôn vinh, cảm tạ Chúa.
Giờ đây, chúng con chẳng biết làm gì để thể hiện lòng biết ơn của chúng con. Chúng con chỉ biết cầu xin Chúa ban muôn hồng ân xuống trên quí Cha, quí Thầy, quí Dì, quí Ông Ban Hành giáo, quí Ông Bà Ban Bảo trợ, Cha mẹ và các anh chị Giáo lý viên-Tông đồ cùng mọi người đang hiện diện nơi đây.
Đó là tấm lòng đơn sơ và cũng là lời cảm tạ chân thành nhất của chúng con, xin mọi người thương nhận và luôn cầu nguyện, giúp đỡ chúng con sống xứng đáng với hồng ân Chúa.
Chúng con xin đồng kính bái tạ.
b. Các em dâng hoa quí Cha.
c. Các em hát bài cảm ơn.
d. Đại diện phụ huynh dâng lời cảm tạ.
e. Đáp từ của Cha sở hoặc Cha Hướng dẫn.
f. Phép lành kết thúc Thánh lễ.
C. GIỜ CHẦU TẠ ƠN
* Khai mạc : Kinh CTT - Tin, cậy, mến.
* Hát (sau khi đặt Mình Thánh) : Giêsu mến yêu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Trong niềm vui sướng cảm tạ hồng phúc được rước Chúa lần đầu, chúng con quây quần bên tôn nhan Thánh Thể Chúa, để hiệp cùng với cộng đoàn Giáo xứ dâng lên Chúa lời ca khen, chúc tụng, tạ ơn.
Chúa ơi, hạnh phúc cho chúng con biết bao, bởi vì từ hôm nay, Chúng con được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, niềm mong ước của chúng con trong suốt gần hai năm học hỏi Giáo lý vừa qua. Kể sao cho hết niềm vui đang dâng trào trong chúng con, vì tình Chúa yêu thương chúng con - Chúng con cảm ơn Chúa nhiều lắm, chúng con cũng dâng lên Chúa trọn cả niềm hân hoan vui sướng trong ngày hôm nay với tâm tình tạ ơn. Nguyện Chúa thương đón nhận những tâm tình đơn sơ, chân thành của đoàn con bé nhỏ - Chúng con biết rằng, trẻ thơ vẫn được Chúa yêu thương nhiều hơn vì tâm hồn còn bé nhỏ, đơn sơ và trong sáng. Chúa đã phán rằng :“Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”.
Lạy Chúa, trong giây phút này, Chúa cũng muốn chúng con ở bên Chúa, để chiêm ngắm Bí tích Thánh Thể, và đáp lại, chúng con cũng muốn được kề bên lòng Chúa như bé thơ nép mình bên mẹ, để được Chúa âu yếm, vỗ về, được lắng nghe Chúa bảo ban - Xin Chúa hãy dạy bảo chúng con bằng lời Hằng Sống yêu thương. Chúng con đang ước muốn lắng nghe.
* Công bố Lời Chúa (theo Lời Chúa CN cử hành, thí dụ CN 23 TN - Mt 14,13-21)
* Suy Niệm 1 : (nếu đọc Lời Chúa khác CN 18 TN.A thì phải đổi suy niệm)
Đoạn Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều - Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, mà Chúa đã biến hóa ra nhiều thật nhiều đến nỗi phân phát đầy đủ cho trên 5000 người ăn được no nê mà còn dư. Chúa thật là tài giỏi quá, chúng con xin tán dương Chúa - Đây là một sự kiện chứng tỏ lòng yêu thương nhân hậu của Chúa đối với nhân loại - Chúa luôn quan tâm chăm sóc cuộc sống của con người từ vật chất đến tinh thần. Những người được Chúa nuôi ăn trong Tin Mừng hôm nay là những người nghèo khổ, họ đói khát cả về thể chất lẫn trong tâm hồn, họ nhiệt thành đi theo Chúa để nghe Chúa giảng dạy. Và họ được Chúa bồi dưỡng không chỉ bằng Lời Chúa mà còn được Chúa chiêu đãi một bữa ăn tối no nê.
Tình thương của Chúa hằng tồn tại đến bây giờ và mãi mãi. Vì Chúa vẫn yêu thương và chăm sóc cho cuộc sống của chúng con và mọi người - Chúa đã cho chúng con được sống trong mái ấm gia đình có ông bà, cha mẹ dạy bảo nuôi dưỡng chúng con - Đến trường học, các thầy cô dìu dắt, hướng dẫn chúng con - Và nhất là chúng con được Chúa chăm sóc, bồi dưỡng cho chúng con về đời sống đức tin trong môi trường của Giáo xứ, qua quí Cha, quí Thầy, quí Dì và các anh chị Tông đồ Giáo lý viên, cùng nhiều người giúp đỡ lo lắng cho chúng con, để chúng con được học hỏi về Chúa, biết Chúa và yêu mến Chúa.
Đặc biệt hôm nay, Chúa ban cho chúng con chính Mình Máu Chúa, để từ đây chúng con không còn đói khát của ăn thiêng liêng nữa - Chúng con không thể nào diễn tả cho hết niềm vui sướng trước tình thương bao la Chúa dành cho chúng con, nhất là với hồng ân trọng đại được rước Mình Thánh Chúa. Chúng con muốn mượn lời Thánh Phaolô để nói lên nỗi vui mừng này :“Giờ đây không còn là tôi sống mà là Chúa đang sống trong tôi”. Xin Chúa hãy ở lại mãi với chúng con.
* Hát : Chúa ở cùng con.
1. Chúa ở cùng con, con ở cùng Chúa, Chúa hiệp với con cho đến trọn đời ! Người là của con và con của Chúa. Đời con sống vì Chúa sống trong con. Có Chúa cùng con, con đầy an vui, với Chúa cùng đi, con còn hãi chi ?
2. Chúa ở cùng con, sớm mai chiều tối, Chúa ở với con khi chán khi vui ! Người săn sóc con dường con ngươi Chúa, và con nép mình dưới cánh tay Người ! Chúa ở cùng con đêm ngày không ngơi, Chúa ở cùng con đất trời khắp nơi !
3. Sống trong tình yêu muôn đời của Chúa, tâm hồn sướng vui con có lo gì, lòng con bé thơ nguyện xin dâng hiến, tựa như áng trầm nghi ngút hương chiều, nối kết tình yêu Chúa Trời uy linh, thắp sáng niềm tin với lòng mến yêu.
* Suy Niệm 2 :
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể - Để thể hiện tình thương yêu chăm sóc của Chúa đối với nhân loại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều Chúa đã làm xưa kia với dân Do Thái, ngày nay Chúa vẫn thực hiện mỗi ngày trong Thánh lễ ; Chúa Quyền năng đang làm phép lạ từ bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa, để nên lương thực nuôi linh hồn chúng con mãi mãi. Chúa vẫn kêu mời mọi người đến lãnh nhận Bánh Hằng Sống nơi bàn tiệc Thánh Thể : “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Lạy Chúa, niềm mơ ước của chúng con là được hạnh phúc thiên đàng với Chúa. Điều ấy chỉ có thể được khi chúng con biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa ngay ở đời này, mà sự kết hiệp với Chúa trọn vẹn là chúng con luôn rước Chúa vào lòng - Muốn được như thế, chúng con cần phải giữ cho tâm hồn trong sạch để rước Chúa ; luôn siêng năng tham sự Thánh lễ mỗi ngày, biết luyện tập nhân đức, bỏ đi những nết xấu và tập tành tính tốt. Để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ cho Chúa Thánh Thể ngự vào.
Từ hôm nay, chúng con cũng muốn bắt chước vị Thánh trẻ Đaminh Saviô tuyên hứa với Chúa điều quyết tâm trong ngày hồng phúc này (1 em khác đọc) :
- Luôn giữ tâm hồn trong sạch để rước Chúa.
- Thà chết chứ không phạm tội.
Xin Chúa giúp chúng con luôn thực hiện điều chúng con quyết hứa với Chúa. Và cho chúng con đừng lãng quên những hồng ân Chúa ban cho mà chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa trong suốt cuộc đời chúng con.
* Hát : - Đến muôn đời.
- Này con là Đá.
- Ôi Nhiệm tích.
* Kết (Sau chầu) :
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được diễm phúc rước Chúa trong tâm hồn và thân xác ngay biến cố truyền tin. Xin Mẹ dạy chúng con, nâng đỡ chúng con luôn biết làm đẹp lòng Chúa như Mẹ đã sống.
* Hát : Lời kinh dâng Mẹ.
Đk : Ôi Maria ! Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin giữ lòng con tinh sạch như suối trong ngần. Cho con tấm lòng, bình an trong trắng đơn sơ. Hy sinh quên mình, thành tâm mến Chúa yêu người.